Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện viết về loài vật dành cho thiếu nhi của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.19 KB, 5 trang )

NGÔN NGỮ KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN
VIẾT VỀ LOÀI VẬT DÀNH CHO THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI

Đinh Anh Dũng
1


Nghiên cứu các truyện viết về loài vật của Tô Hoài dành cho thiếu
nhi, chúng tôi nhận thấy, điểm nổi bật tạo nên sự thành công ở mỗi tác
phẩm của ông là sự sáng tạo đổi mới không ngừng của ngôn ngữ. Trong đó,
mỗi loài vật, tình huống, câu chuyện…, đều được Tô Hoài sử dụng một thứ
ngôn ngữ riêng: ngôn ngữ dân dã, tự nhiên, bình dị; ngôn ngữ phù hợp với
tâm lý và nhận thức của trẻ em; ngôn ngữ dí dỏm, hài hước… Tất cả đã tạo
ra một thế giới tự nhiên, phong phú, tươi đẹp, nhí nhảnh, có sức hấp dẫn lạ
kỳ và lôi cuốn trẻ thơ.

1. Mở đầu
Trong những chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi, Tô Hoài là cây bút xuất
hiện sớm và có đóng góp quan trọng. Với hơn 70 năm tuổi nghề, ông đã có một lượng tác
phẩm đồ sộ với nhiều thể tài khác nhau. Tuy nhiên trong đó mảng đề tài chiếm được nhiều
tình cảm nhất của đông đảo bạn đọc nhỏ tuổi là mảng truyện đồng thoại - các sáng tác viết về
loài vật của ông. Sự thành công ấy xuất phát từ một thực tế, khi viết cho thiếu nhi, Tô Hoài
luôn chú ý cách tạo ra một thế giới kỳ lạ, sinh động nhưng lại rất bình dị, gần gũi với các em.
Cũng vì thế ông được gọi là “nhà văn của các em”, là một người bạn thân thiết và thật gần
gũi với nhiều thế hệ thiếu nhi Việt Nam và thế giới.
2. Nội dung
Nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong các tác phẩm viết về loài vật của Tô Hoài dành
cho thiếu nhi, chúng tôi cho rằng, sự đứng vững ở truyện đồng thoại của ông có được là bởi
sự độc đáo, hấp dẫn được thể hiện rõ nét qua các phương diện của thế giới nghệ thuật. Nằm
trong sự sáng tạo chung của tác phẩm, bên cạnh các yếu tố khác, ngôn ngữ của Tô Hoài cũng
luôn có sự sáng tạo và đổi mới không ngừng. Theo ông: “Nội dung là cả cuộc đời rộng lớn


như dòng nước chảy theo thời gian không hề lặp lại. Vì thế, người viết cũng không thể lặp lại
cách viết một cách tùy tiện, đơn giản. Nội dung ý nghĩa một việc, miêu tả một nhân vật, một
phẩm chất, một trường hợp của cuộc sống hiện thực nếu đúng là cuộc đời và cuộc đời thì
không bao giờ lặp lại. Cũng vì thế, từng câu, từng chữ cũng sẽ không bao giờ lặp lại, không
bao giờ theo một cách, một điệu giống nhau. Nó cũng phải như nội dung, đượm những phong
phú và muôn vẻ biến hóa trong cuộc sống” [2, tr.152].
Tô Hoài cho rằng, một nhà văn dù có thay đổi, cách tân, đổi mới cũng không thể nói
ngược, viết trái qui tắc và chuẩn mực của ngôn ngữ dân tộc. Trong sáng tác, vốn ngôn ngữ
dân tộc là cơ sở, là căn cứ để mỗi nhà văn sử dụng và sáng tạo. Cũng bởi quan niệm ấy, khi

1
ThS, trường ĐHSP Hà Nội 2
tiếp cận các tác phẩm của ông, độc giả không có cảm giác lạ lẫm hay khó hiểu, trái lại, bằng
việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, Tô Hoài đã dẫn dắt các em từng bước đi sâu vào
khám phá, tìm hiểu nội dung của từng câu chuyện.
Ở Dế Mèn phiêu lưu ký, người đọc tìm thấy nhiều câu nói hàm chứa những bài học mà
tác giả muốn gửi tới bạn đọc. Chính câu nói của Dế Choắt trước lúc tắt thở sau một trò đùa tinh
nghịch của Dế Mèn được coi như một lời trăn trối, nhắn gửi với Dế Mèn về lẽ sống ở đời: “Tôi
khuyên anh: ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ sớm muộn rồi cũng
mang vạ vào mình đấy” [4, tr.17]. Nguyện vọng muốn lên đường cứ thúc giục chàng thanh niên
Dế Mèn khiến cho tâm trí ấy càng mạnh mẽ và đầy khát vọng: “Sống ở đời có biết đi đây đi đó,
biết làm việc mới đáng sống. Tôi bồi hồi, khao khát. Những tiếng giang hồ, hoạt động, đi kết
anh em trong thiên hạ Lại đi, lại đi thôi. Tiếng gọi lên đường mà đàn ong vừa thổi kèn vừa
bay tung trời kia đương vang vang trước mắt tôi” [4, tr.124]. Hay ở một tình huống khác, khi
va chạm với Bọ Ngựa lúc trên đường qua xứ Cỏ May, Mèn đã có những nhận xét thấu đáo về
bản chất của anh ta: “Bởi vì tôi đã biết, thường những anh tính hay khoe thì cái gì cũng ra
miệng hết và chỉ có ở miệng chứ trong bụng nhiều khi chẳng có cóc khô gì” [4, tr.93].
Trong Đôi Ri đá, qua lời kể của tác giả, vợ chồng Ri đá mong muốn cuộc sống bình
thường, yên tĩnh với những vất vả và hạnh phúc cũng không có được. Đôi Ri đá “tựa như một
cặp vợ chồng quê mùa mới rủ nhau lên tỉnh. Họ lờ khờ, ngẩn ngơ - nghĩa là đặc nhà quê. Họ

thuộc loại Ri đá chính tông ”, đó là “bóng hình của người cù rù nhưng nhẫn nại, lam lũ và
luôn chân lấm tay bùn - người cần lao của đồng ruộng” [1, tr.306]. Trong O Chuột, Tô Hoài
lại mượn hình ảnh loài vật để khắc hoạ hình ảnh về cuộc sống, tâm hồn của người dân nghèo
thôn quê, những người thợ dệt làng Nghĩa Đô đang trên đà sa sút. Chú Mèo mướp không
kiếm nổi miếng ăn, chỉ luẩn quẩn mà có khi “dành tất cả cái hoa niên của mình để đi rình
chuột” [1, tr.335].
Tìm hiểu các tác phẩm đồng thoại, người đọc nhận thấy ngôn từ được Tô Hoài sử dụng
vốn là những từ bình dị, không hoa mỹ, gắn liền với lời ăn tiếng nói hàng ngày trong cuộc
sống sinh hoạt đời thường. Miêu tả nhân vật thầy đồ Cóc, nhà văn đã dùng những từ ngữ như
lời nói của các nhân vật trong sân khấu tuồng: “hà cớ gì mà nhị vị tráng sĩ lại du nhàn qua
bản thôn”, và chính điều đó đã làm nên sự hứng thú cho độc giả. Miêu tả anh hai của Mèn
trong dáng điệu sợ hãi quá đáng, nhà văn lại viết: “hoảng hốt, luống cuống, bối rối cả càng
lẫn râu”, còn ông anh cả lại hiện ra với sự cổ hủ: “…đi lang thang thất thểu thì ai ở nhà
trông nom phần mộ tổ tiên…” [4, tr.52]. Rõ ràng, khi miêu tả nhân vật, nhà văn đã triệt để sử
dụng những cách nói dân dã, tự nhiên. Điều đó, giúp cho lời văn trong các sáng tác của ông
thêm dí dỏm, tự nhiên nhưng lại gần gũi với thiếu nhi.
Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ dân dã, tự nhiên, bình dị, trong các sáng tác viết cho
thiếu nhi, Tô Hoài đã đặc biệt chú ý đến cách sử dụng ngôn ngữ sao cho gần gũi, phù hợp với
tâm lý, nhận thức của các em. Ngôn ngữ trong các tác phẩm đồng thoại đặc biệt thể hiện điều
đó. Từ việc sử dụng ngôn từ miêu tả nhân vật, khắc hoạ không gian, thời gian, cách tạo ra
hình ảnh, lời nói người kể chuyện… tất cả đều thể hiện sự kỳ công cẩn thận của nhà văn.
Trong các trang viết ấy, ông đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ sinh động, cụ thể nhưng lại rất
mới lạ, phù hợp với tâm sinh lý, lời ăn tiếng nói hàng ngày của các em.
Trong các tác phẩm đồng thoại, một trong những khía cạnh thành công là miêu tả nhân
vật, miêu tả không gian, thời gian nghệ thuật. Để khắc hoạ một cách chân thực, cụ thể chân
dung nhân vật, nhà văn đã phải sử dụng ngôn ngữ miêu tả. Bức chân dung nhân vật hay bức
tranh phong cảnh thời gian đều được Tô Hoài khắc hoạ thông qua một loạt các tính từ, các
động từ và chúng tạo nên sự cụ thể, sinh động cho các nhân vật, cho bức tranh cảnh vật trong
các truyện đồng thoại. Ta bắt gặp trong các truyện về loài vật các từ như: mẫm bóng, nhọn
hoắt, gầy gò, lêu nghêu, cường tráng, lực lưỡng, uy nghi, hung tợn, dữ dội… Rõ ràng đó là

những từ ngữ vừa gắn liền với đặc điểm ngoại hình, vừa giúp ta hình dung rõ nét bức chân
dung của nhân vật.
Miêu tả thế giới nhân vật, nhà văn đã rất thành công khi khắc hoạ nhân vật là loài vật
bằng nghệ thuật miêu tả. Mỗi loài vật được ông tạo ra với những đường nét, chi tiết, thể hiện
những đặc trưng riêng của từng loài. Loài chuột thì có “bộ lông xám tro”, loài mèo mướp với
đôi mắt “tròn và quắc như đôi hòn bi ve”, “thân hình nhỏ nhắn, cái mõm xinh xinh”; loài gà
ri thì lúc bé trông “gầy gò, ốm yếu”, đến khi trưởng thành lại “cường tráng to khoẻ”. Miêu tả
loài vật, ngôn ngữ của nhà văn thật tinh tế, linh hoạt. Đàn ngan con dưới ống kính của ông trở
nên ngộ nghĩnh, đáng yêu. Hình ảnh vợ chồng đôi Ri đá thật kỳ lạ:“vừa bằng hạt mít, mập
mạp… đôi mắt nâu lờ đờ và cặp mỏ ngắn, cục mịch thây lẩy trước đôi mắt như một viên cuội
xám xịt”… [1, tr.306]. Rõ ràng, thế giới loài vật được Tô Hoài miêu tả thật sinh động, hấp
dẫn. Các nhân vật mỗi loài một vẻ đã thể hiện sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Đó cũng là kết
quả của quá trình quan sát tỉ mỉ, công phu và khả năng nắm bắt, tưởng tượng để tạo ra những
hình tượng sinh động, chân thực, hấp dẫn. Đi sâu vào thế giới nhân vật là loài vật của ông,
người đọc nhận thấy ngòi bút của Tô Hoài cũng biến đổi, linh hoạt khi miêu tả nhân vật. Điều
đó chứng tỏ rằng, nhà văn đã rất chịu khó sưu tầm, ghi chép, lựa chọn và sử dụng từ ngữ thật
điển hình, độc đáo. Để khắc hoạ sự nhút nhát của mấy anh vịt, nhà văn miêu tả dáng đứng
“ngẩn tò te” để nghe ngóng, để rình chạy.
Quả thật, có lẽ trong dòng văn học dân tộc, chỉ có Tô Hoài mới dám đưa “dáng đứng
đặc trưng của loài vịt” vào tác phẩm một cách tự nhiên, dí dỏm đến vậy. Sự thành công của
Tô Hoài khi miêu tả nhân vật là kết quả của việc nhà văn sử dụng triệt để biện pháp tu từ, so
sánh và nhân hoá. Mỗi trang viết về loài vật đều được nhà văn sử dụng các biện pháp này,
vừa để khắc hoạ bức chân dung nhân vật, vừa để nhân vật hiện lên sinh động trước mắt bạn
đọc. Miêu tả chú Mèo mướp, độc giả sẽ có cảm nhận về một bộ lông mềm mại và “muốt như
sờ tay trên tấm nhung”. Độc giả hẳn rất thú vị khi hình dung một anh chàng chuột Bạch bé
nhỏ, mũm mĩm “như một quả nhót”, hay một anh Dế Choắt, người “gầy gò và dài lêu nghêu
như một gã nghiện thuốc phiện”. Những lối so sánh, ví von như vậy khiến cho ngôn ngữ
trong các tác phẩm trở nên giàu hình ảnh, sống động và rất độc đáo. Nhờ có biện pháp nhân
hoá, các loài vật lại trở thành những nhân vật có hành động, có suy nghĩ giống như con
người. Một anh chuột Nhắt biết tự ti, mặc cảm vì sự ốm yếu của mình, biết quyết tâm học

hành để thi cử đỗ đạt, một anh gà ri cũng có tật mê gái, biết buồn khi thấy mình bị cô đơn,
một anh gà chọi mạnh mẽ, có tác phong của một chàng cuồng võ, một chú chim chích quên
cả đường về, cá biết rủ nhau đi ăn thề… Các nhân vật trong sáng tác của ông được khéo léo
gắn với những cử chỉ, lời nói, suy nghĩ, tình cảm, hành động của con người và điều đó đã tạo
ra một sức hấp dẫn lớn không riêng gì đối tượng là các em nhỏ mà ngay cả người lớn chúng
ta cũng không khỏi ngỡ ngàng và tìm thấy nhiều say mê, hứng thú.
Tiếp cận với các tác phẩm đồng thoại của Tô Hoài, có một đặc điểm đáng lưu ý nữa là
ngôn ngữ miêu tả dí dỏm, hài hước, suồng sã. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng:
“Ngay từ những tác phẩm đầu tay, nhà văn này đã bộc lộ chất giọng riêng rất độc đáo. Tập O
Chuột là tập truyện ngắn đầu tiên của Tô Hoài và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho lối văn
đặc biệt của ông, một lối văn dí dỏm, tinh quái, đầy những phong vị và màu sắc của thôn
quê” [5, tr.59]. Lối so sánh, ví von ấn tượng và giọng điệu dí dỏm, suồng sã ấy đã tạo ra một
giọng văn riêng Tô Hoài: vừa gần gũi, giản dị, vừa tinh quái sâu xa. Chính hai yếu tố ấy
khiến cho các nhân vật trong tác phẩm của Tô Hoài hiện ra thật sinh động trước mắt độc giả.
Ta bắt gặp lão chim Trả “già mà hay làm đỏm trái mùa”, “đã hóp má rồi còn tỏ vẻ hơ hớ trai
lơ”, hay “ai mà cái đầu, cái mặt bèn bẹt cứ lầm lầm, lì lì (Cái kiện của lão Trê); rồi lũ vịt thì
“đứng ngẩn tò te”. Ta cũng thấy hình ảnh kì ngộ của bác Xiến Tóc khi ở ẩn lại “ngây ngô,
nhí nhảnh, nỡm đời, đi rong chơi với lũ ve sầu và bướm” hay một chị Nhà Trò đã bé nhỏ, gầy
gò, ốm yếu và “người bự những phấn, như mới lột”. Cái chất dí dỏm trong văn Tô Hoài
thường được bộc lộ qua việc nhà văn đặt nhân vật trong những tình huống đối lập nhau và
qua đó đặt những lời nhận xét thật tự nhiên, ngộ nghĩnh nhưng cũng rất hài hước. Chính sự dí
dỏm, hài hước ấy khiến cho nhân vật của ông hiện lên như một bức tranh sinh động và thật
đáng yêu. Có lẽ thế, mỗi tác phẩm viết về loài vật dành cho thiếu nhi đều được các em đón
nhận, say mê, các em tự khẳng định được chính mình khi ngôi nhà văn học thiếu nhi của các
em có những tác phẩm hay, bổ ích và có tính giáo dục sâu sắc.
Thông qua việc sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá, kết hợp với giọng điệu
dí dỏm, hài hước, ngôn ngữ trong các tác phẩm đồng thoại của nhà văn Tô Hoài có tính chất
vui tươi, sinh động. Viết văn cho các em tuy phản ánh những vấn đề của cuộc sống, của thời
đại song ngôn ngữ được nhà văn sử dụng không gắt gao, khó hiểu mà ông đã kì công gọt rũa,
sử dụng các từ ngữ dung dị, dễ hiểu, có hình ảnh, rất gần với lứa tuổi của các em và đặc biệt

phù hợp với tâm sinh lý của thiếu nhi. Ngôn ngữ không giàu hình ảnh, không phù hợp với
tâm lý của các em làm sao các em lại đón nhận nồng nhiệt đến vậy? Tô Hoài đã kỳ công chắt
lọc, du ngoạn nhiều nơi để hiểu, học, để chắp bút viết nên những câu văn bay bổng, có hồn dễ
làm rung động mọi thế hệ độc giả. Ông khiêm tốn cho mình là người tự đi tìm “lượm lặt chữ
của nhân gian”.
Cuộc đời của Chuột Nhắt (Đám cưới Chuột), dù trải bao chìm nổi, song cuối cùng anh
chàng ấy cũng tìm ra một chân lý, một lẽ sống, một niềm vui cho bản thân. Đọc Dế Mèn
phiêu lưu ký, độc giả nhí không khỏi lo lắng, thương cảm cho anh Dế Choắt, song các em lại
rất hứng khởi, thích thú khi được thấy hành động nghĩa hiệp, bênh vực kẻ yếu của anh chàng
Mèn. Ở Con Mèo lười để miêu tả thói lười biếng, ích kỷ của My, nhà văn đã dựng lên cảnh
nhộn nhịp của các con vật đang náo nức chuẩn bị đi làm. Rõ ràng, cho dù phản ánh những
thói xấu của các con vật, ngôn ngữ của Tô Hoài cũng không cay nghiệt, nghiêm khắc mà đó
là thứ ngôn ngữ nhẹ nhàng, dung dị song rất tình cảm, thậm chí còn bàng bạc sự vui vẻ, nhẹ
nhàng lại hóm hỉnh. Sự vui tươi, sinh động trong ngôn ngữ Tô Hoài còn được thể hiện qua
cách ông xây dựng không gian, bối cảnh xuất hiện của nhân vật. Trong Cá đi ăn thề ta cảm
nhận không khí vui tươi, khẩn trương của đàn cá “những bác Rô già, Rô cụ lực lưỡng, đầu
đuôi đen xì lẫn màu bùn. Những cậu Rô đực cường tráng mình dài mốc thếch… khoan thai
đớp bóng nước mưa ấm áp… dựng vây lưng như ta trương cờ, tăng tả đánh ngạnh rạch
ngược qua mặt bùn khô, nhanh như cóc nhảy” [3, tr.26].
3. Kết luận
Nghiên cứu các tác phẩm viết về loài vật của Tô Hoài dành cho thiếu nhi, chúng tôi cho
rằng, thành công của nhà văn được thể hiện rõ ở cách sử dụng ngôn ngữ khi miêu tả. Ở mỗi
tác phẩm, mỗi loài vật, tình huống, câu chuyện ông đều tạo ra một cách sử dụng ngôn ngữ
riêng, vừa truyền thống song cũng rất hiện đại. Ngôn ngữ miêu tả của nhà văn được thể hiện
qua việc ông khéo léo sử dụng phối hợp các biện pháp tu từ, so sánh, nhân hoá, qua những từ
ngữ sinh động, cụ thể, dung dị, lối ví von ấn tượng…, tất cả đã tạo ra một thế giới tự nhiên,
phong phú, tươi đẹp, nhí nhảnh, có sức hấp dẫn lạ kỳ và lôi cuốn trẻ thơ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Minh Đức, Tuyển tập Tô Hoài, Tập 1, Nxb Văn học, H., 1987.

2. Hà Minh Đức, Tô Hoài, Đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học, H., 2007.
3. Tô Hoài, Tuyển tập văn học thiếu nhi, Tập 1,2, Nxb Văn học, H., 1997.
4. Tô Hoài, Dế mèn phiêu lưu ký, Nxb Hội Nhà văn, H., 2005.
5. Vân Thanh (Tuyển chọn), Tô Hoài về tác gia tác phẩm, Nxb Giáo dục, H , 2005.
NARRATIVE LANGUAGE IN TO HOAI’S STORIES OF CREATURES
WRITTEN FOR CHILDREN
Dinh Anh Dung
Abstract
Having studied To Hoai’s works on creatures written for children, we see that a striking
feature contributing to the success in each of his works is the constant creation and
innovation of language. In his works, To Hoai makes special use of language for every
creature, every situation and every story: plain, natural and ordinary language; language
suitable for children’s psychology and perception; witty and humorous language; and so on.
All create a funny, natural, plentiful and beautiful world, which particularly attracts and
fascinates children.

×