Tải bản đầy đủ (.pdf) (231 trang)

Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 231 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN















ĐỖ THỊ HIÊN




NGÔN NGỮ KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN KHẢI VÀ NGUYỄN MINH CHÂU




LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC






HÀ NỘI - 2007

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN











ĐỖ THỊ HIÊN




NGÔN NGỮ KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN KHẢI VÀ NGUYỄN MINH CHÂU


Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số: 62.22.01.01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC





Người hướng dẫn khoa học:
GS - TS Hoàng Trọng Phiến


HÀ NỘI - 2007
MỤC LỤC


Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…… ……………………………………………………………………… ………………
CHƯƠNG 1: NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN… ……
1.1 Ba lĩnh vực kết học, nghĩa học, ngữ dụng học và mối quan hệ của
chúng trong ngôn ngữ…………………… …………
1.1.1. Ba lĩnh vực kết học, nghĩa học, ngữ dụng học……
1.1.2. Các vấn đề cơ bản của ngữ dụng học (Pragmatics).… ……
1.2. Ngôn ngữ kể chuyện……… ………
1.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện. …… ……………………
1.2.2. Ngôn ngữ nhân vật. ………
1.3. Điểm nhìn nghệ thuật trong truyện…………………… ………
1.3.1. Khái niệm về điểm nhìn (Point of view) ………………………………….………………………
1.3.2. Các loại điểm nhìn (Types of point of view) ……………………….…….…………………

1.3.3. Các nhân tố của điểm nhìn …………………… …………………………………………
1.3.4. Các tính chất của điểm nhìn ……
1.4. Giọng và giọng điệu……………… …
1.5. Quan điểm của M.Bakhtin và của Kate Hamburger về ngôn ngữ
trong thể loại tiểu thuyết ………………… ………
CHƯƠNG 2: NGÔN NGỮ KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
NGUYỄN KHẢI…… ……… ………
2.1. Điểm nhìn trần thuật và ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn
của Nguyễn Khải trước 1975…………… ……
2.2. Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Khải giai
đoạn sau 1975 ……… …… ……………




1


10

10

10
11

23

24
29
35

35

37
40
46
49


51

54

54

2.2.1. Ngôn ngữ mang phong cách sinh hoạt đời thường…….………
2.2.2. Ngôn ngữ đa thanh có tính đối thoại nội tại. ………………………………
CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU ……
3.1. Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
giai đoạn trước 1975… …………
3.2. Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
giai đoạn sau 1975…
3.2.1. Ngôn ngữ mang phong cách sinh hoạt đời thường… …………
3.2.2.Ngôn ngữ có tính đối thoại đa thanh - một chất liệu mới trong
ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975…
KẾT LUẬN……… ……
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN… ……
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC………


72
72

102

127

127

141
142

160
196

201


202

213










1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Ngôn ngữ là chất liệu của văn chương. Từ một hệ thống tín hiệu
giao tiếp cộng đồng cơ bản, qua sự sáng tạo của người nghệ sỹ, nó trở nên
sinh sắc, giàu cảm xúc và chứa đựng giá trị thẩm mĩ. Có nhiều ngành khoa
học nghiên cứu hiện tượng này: Phong cách học, Thi pháp học, Ngữ dụng
học. Từ góc độ thi pháp, chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề ngôn ngữ kể
chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu trong mối
quan hệ với điểm nhìn trần thuật và các phương thức tự sự.
1.2. Truyện ngắn là một thể loại của văn xuôi nghệ thuật, với những
đặc trưng “nghề nghiệp” riêng thì mối liên hệ giữa ngôn ngữ kể chuyện với
việc xử lý điểm nhìn trần thuật và việc lựa chọn phương thức tự sự là rất rõ
rệt. Mặt khác, với thế mạnh của một hình thức tự sự cỡ nhỏ nhưng lại có sức
khái quát lớn, truyện ngắn luôn là một thể loại chủ công trong việc khám phá
và cải tạo hiện thực cuộc sống. Giai đoạn 1955 -1975, trước những biến cố
trọng đại của lịch sử, truyện ngắn đã góp phần đắc lực vào việc cổ vũ động
viên cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc đi đến thắng lợi. Nhưng cũng chính
vì cái hoàn cảnh đặc biệt đất nước có chiến tranh, nên ngôn ngữ kể chuyện
trong các truyện ngắn giai đoạn này cũng mang những đặc trưng riêng.
1.3. Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã đưa lịch sử đất nước mở sang
trang mới: Độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng Chủ nghĩa xã
hội. Một hiện thực mới đa dạng, biến động và đầy phức tạp đã được mở ra ở
khắp đất nước. Hiện thực đó đòi hỏi các nhà văn phải hình thành cho được
một thứ chất liệu ngôn ngữ mới để phản ánh chân thực, sinh động cuộc sống
của con người và xã hội.
1.4. Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu là hai nhà văn lớn của Văn
học cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp văn chương của hai ông gắn liền với sự
nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc. Giai đoạn 1955-1975, Nguyễn Khải

và Nguyễn Minh Châu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của những nhà văn -

2
chiến sỹ. Sau 1975, văn học Việt Nam chuyển mình sang giai đoạn mới, bằng
sự “dũng cảm điềm đạm” của mình, hai ông đã đặt những viên gạch đầu tiên
cho sự đổi mới bằng hàng loạt những truyện ngắn đặc sắc. Tìm hiểu truyện
ngắn của hai nhà văn này, chúng ta sẽ thấy rõ những đặc trưng ngôn ngữ kể
chuyện trong mối quan hệ với các vấn đề về giọng điệu, về việc sử dụng các
điểm nhìn trần thuật và sự lựa chọn các hình thức tự sự.
1.5. Do đạt được những thành tựu lớn trong sáng tác ở cả phương diện nội
dung và nghệ thuật, một số truyện ngắn của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu
được chọn đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông. Lựa chọn đề tài
“Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh
Châu”, trước hết chúng tôi sẽ đưa ra những nhận xét xác đáng về đặc trưng ngôn
ngữ kể chuyện của hai ông. Ngoài ra, đề tài còn bổ sung vào việc phân tích các
tác phẩm văn xuôi của hai ông trong chương trình phổ thông một hướng tiếp cận
mới từ góc độ ngôn ngữ, giúp cho việc đọc hiểu văn bản (một khâu quan trọng
trong việc phân tích tác phẩm trong nhà trường) đạt hiệu quả cao.
2. Tổng quan tài liệu
2.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến ngôn ngữ kể chuyện
Trên thế giới, vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn học đã
được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu. Trong công trình nghiên cứu Ngôn
ngữ học và Thi pháp học, Jakobson Roman đã nêu sáu chức năng cơ bản của
giao tiếp ngôn ngữ. Trong đó, ông đặc biệt chú ý đến chức năng thơ của ngôn
ngữ. Theo ông, chức năng thơ của ngôn ngữ là sự định hướng của thông báo
vào bản thân nó, sự tập trung chú ý vào thông báo vì chính bản thân nó
[35,Tr.144]. Theo Iu. M. Lotman trong: Cấu trúc văn bản nghệ thuật ngôn từ
(1970)[80], thì ngôn ngữ nghệ thuật đã được nghiên cứu trong mối quan hệ với
nhiều vấn đề: điểm nhìn, không gian nghệ thuật, nghệ thuật ngôn từ với tư cách
là kí hiệu ngôn ngữ…. Đặc biệt, bằng việc phân tích một số đoạn thơ trong tiểu

thuyết Evgenhi Onhegin của Puskin, nhà nghiên cứu đã chỉ ra những cấu trúc
phức tạp của điểm nhìn làm xuất hiện những ngôn từ đa thanh, đa nghĩa. Trong

3
Mikhail Bakhtin - Nguyên lý đối thoại [123], T.Todorov cho rằng, khi nghiên
cứu nguyên lý đối thoại của Mikhail Bakhtin phải đặt trong sự kết hợp của hai sự
thật: Tư tưởng của Mikhail Bakhtin hấp dẫn phong phú nhưng cũng rất phức tạp
và khó khăn trong việc tiếp cận nó. Điểm nhìn và lời văn nghệ thuật trong tác
phẩm văn học phải được gián tiếp đặt trong mối quan hệ với thể loại. Bản chất
của ngôn từ trong văn xuôi nghệ thuật với đặc trưng riêng của thể loại đã được
M.Bakhtin và Kọte Hamburger dày công nghiên cứu [7, 8, 47]. Còn trong Cá
tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, M.Khrapchenco cũng
đưa ra những quan điểm quan trọng về ngôn ngữ nghệ thuật [59].
Ở Việt Nam, trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 [19], khi
nghiên cứu về Ngữ dụng học, vấn đề điểm nhìn cũng đã được Đỗ Hữu Châu
đề cập đến. Đặc biệt, trong đó tác giả đưa ra những kiến giải quan trọng về
ngôn ngữ được sử dụng trong giao tiếp. Đó là những kiến thức rất quan trọng
để chúng tôi soi chiếu vào việc tìm hiểu các tác phẩm cụ thể trong luận án.
Còn Nguyễn Đức Dân với Logic và Tiếng việt [24], thì ngôn ngữ kể chuyện
và điểm nhìn được nghiên cứu như là những yếu tố trong giao tiếp nói năng.
Vấn đề đó tiếp tục được nghiên cứu gắn liền với sáng tác văn chương hơn
trong các công trình của Đặng Anh Đào với Đổi mới tiểu thuyết phương Tây
hiện đại [29], Trần Đình Sử với Giáo trình dẫn luận thi pháp học [98] và
Nguyễn Thái Hòa với Những vấn đề thi pháp của truyện [61]. Trong những
công trình đó, thì cả điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện được nghiên cứu như
những yếu tố của thi pháp. Nguyễn Lai trong Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp
nhận văn học, bằng việc tìm hiểu bản chất hệ thống và bản chất tín hiệu của
ngôn ngữ, đã chỉ ra mối quan hệ rất linh hoạt giữa nội dung và hình thức của
ngôn ngữ và ông cho rằng:”mã hình tượng là một loại tín hiệu lấy mã ngôn
ngữ làm tiền đề, nhưng nó không đồng nhất với mã ngôn ngữ về mặt cấp độ”

[76,Tr.107].
Một trong những đặc trưng cơ bản của thể loại truyện ngắn là ngắn gọn và
hàm súc. Đặc điểm đó giúp cho truyện ngắn luôn bám sát và nhạy bén trước mọi

4
đổi thay của đất nước. Thực tế phát triển và những thành tựu to lớn mà truyện
ngắn đạt được, đã thu hút nhiều công trình nghiên cứu, đặc biệt là các vấn đề về
ngôn ngữ, giọng điệu và điểm nhìn trong truyện ngắn [4,12, 99,107]…
Trong “Phong cách học với việc dạy văn và lý luận phê bình văn học”
[34], bằng việc coi tác phẩm văn học như những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ,
Hữu Đạt đã chiếu một cái nhìn mới vào những tác phẩm văn học của một thời
đã qua và làm phát ra ở chúng những ánh sáng khác lạ. Hướng khai thác của
tác giả đã là một gợi ý rất bổ ích cho chúng tôi.
Đặc biệt, Hội nghị Tự sự học tổ chức tại Hà Nội tháng 11 năm 2003 đã tập
hợp được rất nhiều bài viết của các nhà phê bình nghiên cứu thể hiện những biện
giải xác đáng, có liên quan đến lĩnh vực điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện trong
văn xuôi nghệ thuật. Đáng chú ý là các bài viết của Hoàng Ngọc Hiến với “Kể
lại nội dung và viết nội dung” [54], Nguyễn Thái Hòa với “Điểm nhìn trong lời
nói giao tiếp và điểm nhìn nghệ thuật trong truyện” [62], Đỗ Hải Phong với
“Vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện đại”[90], Trần Đình Sử với
“Về mô hình tự sự Truyện Kiều”[102], Nguyễn Hoài Thanh với “Sự độc đáo
trong lối thuật kể của “Ông vua phóng sự” Vũ Trọng Phụng”[105], Đặng Anh Đào
với “Sự phát triển nghệ thuật tự sự ở Việt Nam- một vài hiện tượng đáng lưu ý
“[30].
2.2. Những công trình nghiên cứu về các sáng tác của Nguyễn Khải và
Nguyễn Minh Châu.
Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu là hai nhà văn lớn, sáng tác của hai
ông không những đã đề cập đến cả một mảng hiện thực lớn gồm công cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở Miền
Nam mà còn vắt sang cả thời kì sau chiến tranh và công cuộc đổi mới đất nước.

Gắn liền với nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn, sáng tác của hai ông
mang cả những dấu ấn riêng của thời đại. Vì vậy, các công trình nghiên cứu về
sáng tác của hai ông có số lượng rất lớn và cũng chia ra làm hai thời kì rõ rệt:
• Thời kỳ trước năm 1975

5
Thời kì này giới phê bình nghiên cứu chủ yếu đi vào nhận xét đánh giá
các truyện ngắn của hai nhà văn ở phương diện nội dung xã hội. Những thành
công của Nguyễn Khải ở “Mùa lạc”, “Hãy đi xa hơn nữa”,” Tầm nhìn xa”,
“Người trở về” và của Nguyễn Minh Châu với “Mảnh trăng cuối rừng”,
“Những vùng trời khác nhau”,”Nguồn suối” đã thu hút rất nhiều bài viết,
nhưng tựu trung lại thì các tác phẩm đó đều được đánh giá ở khía cạnh phản
ánh được cuộc sống mới, con người mới, phù hợp với xu thế phát triển của
cách mạng. Trong số rất nhiều công trình nghiên cứu về hai tác gia, các công
trình của các nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức là
tương đối sâu sắc và triệt để. Các nhà phê bình đã đánh giá cao những đóng
góp to lớn của hai nhà văn trong sự nghiệp chung của dân tộc và cũng mạnh
dạn chỉ ra những vấn đề còn hạn chế, những dấu vết của thời đại còn để lại
trong tác phẩm của họ giai đoạn trước 1975 [61,83, 87].
• Thời kì sau năm 1975
Trong buổi giao thời, trên văn đàn văn học nước nhà, Nguyễn Khải và
Nguyễn Minh Châu là hai trong số ít nhà văn đã sớm có những tác phẩm thể hiện sự
đổi mới tư duy nghệ thuật trong sáng tác của mình. Sự đổi mới ấy lúc đầu còn là dò
dẫm thử nghiệm, kịp đến khi có nghị quyết của Đảng về vấn đề đổi mới trong văn
chương thì điều đó đã được khẳng định vững chắc. Những sáng tác mang gương mặt
mới ấy lập tức đã châm ngòi cho hàng loạt những hội thảo, những công trình nghiên
cứu. Những vấn đề được các tác giả tập trung, chú ý phân tích, mổ xẻ đánh giá cũng
đa diện, đa chiều hơn. Bên cạnh những “bậc tiền bối” như Nguyễn Đăng Mạnh, Hà
Minh Đức, Phan Cự Đệ, những người đã chứng kiến và dõi theo từng bước chân của
hai nhà văn từ lúc mới vào nghề, thì lớp trẻ cũng tỏ ra rất sắc sảo với những phát hiện

mới mẻ. Bích Thu với “Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải những
năm 80 đến nay”. Nguyễn Thị Bình với “Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết”,Trần
Thanh Phương trong “Nguyễn Khải với Hà Nội trong mắt tôi”, Lê Thị Hồ Quang
với “Nhân vật “tôi” trong truyện ngắn Nguyễn Khải”, Nguyễn Thu Tuyết với một
chùm bài viết nhỏ về Nguyễn Minh Châu: “Nguyễn Minh Châu - tài năng và tấm

6
lòng”, “Một vài kiểu loại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” và
“Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật xây dựng truyện ngắn”, Trần Đình Sử lại quan
tâm đến phong cách trần thuật với “Bến quê, một phong cách trần thuật giầu chất
triết lí”. Nguyễn Tri Nguyên thì lại nhận ra “Những đổi mới về thi pháp trong sáng
tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975”, còn Đỗ Đức Hiểu lại nhìn thấy Nét nhoè
rất ấn tượng trong “Phiên chợ Giát” - văn bản đa thanh cuối đời.
2.3. Một số bài viết của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu về những
đổi mới trong sáng tác của mình
Một điều thú vị là bản thân hai nhà văn cũng có những bài viết về chính
những sáng tác của mình. Tiêu biểu là Nguyễn Khải với Chuyện nghề và các
bài đăng trên các báo Văn nghệ, Sài Gòn tiếp thị , Nguyễn Minh Châu với
những trăn trở trên Trang giấy trước đèn Đó thực sự là những dòng tâm bút,
ở đó, các nhà văn đã nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá lại những cái được và cái
chưa được, cũng như phần nào cắt nghĩa những nguyên nhân chủ quan và
khách quan của những cái còn non yếu trong sáng tác của mình. Chính từ
những lời “Tâm bút” ấy mà chúng tôi đã có những con đường ngắn thâm
nhập vào tác phẩm của hai ông.
Những năm gần đây, đã xuất hiện những công trình nghiên cứu nghiêm
túc, dài hơi về tác phẩm của hai nhà văn, đó là những luận án tiến sĩ. Về
Nguyễn Khải thì có Nguyễn Thị Tuyết Nga, Đào Thuỷ Nguyên, về Nguyễn
Minh Châu thì có luận án của Tôn Phương Lan, Trịnh Thu Tuyết Với cái
nhìn lịch đại, cùng với các hiểu biết từ công cuộc đổi mới trên mọi mặt của
cuộc sống không loại trừ sự đổi mới của hai nhà văn Nguyễn Khải và Nguyễn

Minh Châu, các tác giả đã chỉ ra sự vận động trong những sáng tác của hai
ông trong văn xuôi đương đại.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu có liên quan đến điểm nhìn,
giọng điệu và ngôn ngữ kể chuyện đều được đề cập đến ở những mức độ đậm
nhạt khác nhau. Tuy nhiên, việc đặt thành mục tiêu khảo sát ngôn ngữ kể
chuyện trong mối quan hệ với điểm nhìn, giọng điệu trong mỗi tác phẩm thì

7
còn mờ nhạt. Đặc biệt, đối với các sáng tác của Nguyễn Khải và Nguyễn
Minh Châu đặt trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam từ 1955 đến nay thì mối
quan hệ đó là rất rõ rệt. Điều đó đã kích thích chúng tôi đi vào đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra những kết quả đáng tin cậy về đặc trưng ngôn ngữ kể chuyện
trong truyện ngắn của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu trong mối liên hệ
với điểm nhìn trần thuật, phương pháp tự sự và giọng điệu của tác phẩm ở cả
hai giai đoạn sáng tác trước 1975 và sau 1975. Từ đó, luận án đóng góp cứ
liệu để làm nổi bật phong cách ngôn ngữ của hai nhà văn này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Vận dụng lý thuyết về điểm nhìn, hội thoại, tự sự, thoại dẫn để tìm hiểu ngôn
ngữ kể chuyện trong các truyện ngắn của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu.
Cụ thể là:
3.2.1. Nghiên cứu ngôn ngữ kể chuyện trong những truyện ngắn của
Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu được kể lại từ điểm nhìn toàn tri và cách
tự sự kể lại nội dung.
3.2.2. Nghiên cứu ngôn ngữ kể chuyện trong những truyện ngắn của
Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu được kể lại từ điểm nhìn của người kể
chuyện không biết hết và cách tự sự viết nội dung.
3.2.3. Trên cơ sở đó, khẳng định được sự đổi mới tư duy nghệ thuật
của hai tác giả trong thể loại truyện ngắn, đặc biệt ở lĩnh vực ngôn ngữ.

3.3. Phạm vi khảo sát
- Các tuyển tập truyện ngắn của hai tác giả ở hai giai đoạn sáng tác
trước và sau năm 1975. Trong đó, 54 truyện ngắn đã được chúng tôi sử dụng
ngữ liệu để nghiên cứu.
- Tham khảo thêm một số tác phẩm thuộc thể loại khác của hai tác giả
(tạp văn, tiểu thuyết, phóng sự, tiểu luận, phê bình).
- Một số truyện ngắn của các tác giả tiêu biểu khác trong cả hai giai

8
đoạn để so sánh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp phân tích ngữ dụng
Tìm hiểu ngôn ngữ kể chuyện trong các truyện ngắn của Nguyễn Khải
và Nguyễn Minh Châu, trước hết phải xác định nó là một phương tiện nghệ
thuật của một hệ thống giao tiếp nghệ thuật. Trong đó, đặc trưng ngôn ngữ kể
chuyện của từng tác giả sẽ được thể hiện rõ nhất ở những tiền giả định ngôn
ngữ, tiền giả định lời nói, hàm ngôn ngôn ngữ, hàm ngôn lời nói. Vì vậy,
chúng tôi sử dụng các thao tác của ngữ dụng:
+ Liên hội các yếu tố ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
+ Suy ý từ tiền giả định đến biểu đạt.
+ Lựa chọn những yếu tố quan yếu.
Vận dụng các thao tác trên vào việc nghiên cứu ngôn ngữ kể chuyện của
từng tác giả trong chương 2 và chương 3, nhằm rút ra những nhận xét về tính
năng động hội thoại, về hiệu quả thông tin trong ngôn ngữ kể chuyện của mỗi tác
giả.
4.2. Phương pháp phân tích tu từ
Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm làm rõ hiệu quả nghệ
thuật của việc sử dụng linh hoạt các điểm nhìn trần thuật, các phương thức
tự sự, rút ra đặc trưng của ngôn ngữ kể chuyện của từng tác giả. Cụ thể là:
+ So sánh đối chiếu ngôn ngữ kể chuyện của cùng một tác giả trong

hai giai đoạn sáng tác, hoặc giữa hai tác giả.
+ Xây dựng giả định: Xây dựng cấu trúc giả định của câu văn, đoạn
văn bằng việc giữ nguyên ngữ cảnh, chỉ ra giá trị thẩm mỹ của văn bản
gốc.
+ Thay thế, cải biến: Áp dụng các biện pháp lược bỏ, thay thế hoặc
bổ sung, nhằm khẳng định hiệu quả nghệ thuật của các yếu tố ngôn ngữ.
Ngoài các phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng các thao tác của
phương pháp thống kê và phương pháp hệ thống.
- Sử dụng các thao tác của phương pháp thống kê nhằm:

9
+ Nghiên cứu ngôn ngữ kể chuyện về mặt từ vựng ngữ pháp, sự phân bố
của kiểu câu, loại từ xét về mặt số lượng trong một diễn ngôn của người kể
chuyện, hay của nhân vật.
+ Thống kê, phân loại tính chất lời dẫn trong các truyện ngắn của hai tác
giả ở hai giai đoạn sáng tác.
- Sử dụng thao tác của phương pháp hệ thống: Coi đối tượng nghiên cứu
là một hệ thống, các thành phần của nó, đến lượt mình lại làm thành một tiểu hệ
thống nằm trong một hệ thống lớn hơn. Quan điểm đó sẽ chi phối việc xử lý ngữ
liệu và những nhận định khái quát của luận án. Cụ thể, vận dụng quan hệ đồng
nhất giữa các đối tượng nghiên cứu, phân loại đối tượng về: thời gian sáng
tác, giọng điệu, phương thức tự sự, điểm nhìn trần thuật và các hình thức
thoại dẫn Từ kết quả phân loại, chúng tôi đối chiếu các yếu tố trong các hệ
thống để tìm ra sự đồng nhất và khác biệt giữa chúng.
5. Những đóng góp mới của luận án
5.1. Lần đầu tiên truyện ngắn của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh
Châu được khảo sát đúng với tư cách nó là những tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ, và muốn hiểu được giá trị thẩm mĩ của nó, chủ âm của nó, thì cần
phải thành thạo ngôn ngữ của nó: “thứ ngôn ngữ được xây chồng lên trên
ngôn ngữ tự nhiên với tư cách là hệ thống thứ hai” (IU.Lotman)

[80,Tr.49].
5.2. Từ cách đặt vấn đề trên, luận án đã vận dụng chủ yếu các kiến
thức của Ngữ dụng học, lý thuyết đối thoại của M. Bakhtin, Siêu ngôn
ngữ học, Tự sự học để khảo sát ngôn ngữ kể chuyện trong các truyện
ngắn của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu.
5.3. Coi ngôn ngữ kể chuyện của tác phẩm là một nhân tố của thi pháp,
luận án đã tìm hiểu mối quan hệ của nó với các nhân tố khác của thi pháp:
điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật và các hình thức tự sự trong truyện
ngắn của hai tác giả. Từ đó chỉ ra sự phong phú, sáng tạo trong ngôn ngữ kể
chuyện của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu.
5.4. Khẳng định sức mạnh cải tạo hiện thực qua văn bản ngôn từ của

10
những câu chuyện được kể bằng điểm nhìn mới, bằng cách kể chuyện “viết
nội dung” của hai tác giả.
5.5. Đề xuất một số cách tiếp cận mới đối với việc phân tích tác phẩm
văn xuôi tự sự, đặc biệt là thể loại truyện ngắn trong nhà trường phổ thông.
6. Cấu trúc của luận án
Mở đầu
Chương 1: Những khái niệm cơ bản có liên quan
Chương 2: Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn
Khải.
Chương 3: Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
CHƢƠNG 1: NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN
Đối tượng nghiên cứu của luận án là ngôn ngữ kể chuyện, có nội hàm rất
rộng, liên quan đến rất nhiều khái niệm của Ngôn ngữ học, Trần thuật học, Thi

pháp học, Tự sự học. Tuy vậy, với mục đích là tìm hiểu những nét đặc sắc độc
đáo cũng như sự đổi mới ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn
Khải và Nguyễn Minh Châu, chúng tôi chỉ đề cập đến một số khái niệm cơ bản.
1.1. Ba lĩnh vực kết học, nghĩa học, ngữ dụng học và mối quan hệ của chúng
trong ngôn ngữ.
1.1.1. Ba lĩnh vực kết học, nghĩa học và ngữ dụng học.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Sở dĩ
ngôn ngữ thực hiện được chức năng đó, là vì ngôn ngữ có bản chất tín hiệu và có
tính hệ thống. Trên cơ sở lý thuyết tín hiệu học của Ch. W. Morris, các nhà ngôn
ngữ học hiện đại đã chỉ ra ba bình diện của ngôn ngữ. Đó là bình diện kết học,
nghĩa học và ngữ dụng học. Trong đó, bình diện kết học nghiên cứu về hệ thống
các quy tắc chi phối sự cấu tạo nên các cấp độ ngôn ngữ, bình diện nghĩa học

11
nghiên cứu các quy tắc phản ánh hiện thực vào ngôn ngữ, còn bình diện ngữ
dụng học nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và người sử dụng.
Trước đây người ta cho rằng, ba lĩnh vực kết học, nghĩa học và ngữ
dụng học có quan hệ tuyến tính. Ngôn ngữ học sẽ được nghiên cứu theo thứ
tự: kết học - nghĩa học - ngữ dụng học. Hiện nay, cùng với sự vận động của
ngữ dụng học vi mô sang ngữ dụng học vĩ mô, nhiều tác giả đã chỉ ra vai trò
thống hợp (intergrating) của ngữ dụng học. Điều đó có nghĩa là, kết học,
nghĩa học vẫn giữ được tính độc lập tương đối, nhưng nó đã bị thống hợp vào
ngữ dụng học. Bản chất sự thống hợp này cũng được thể hiện rõ trong định
nghĩa ngữ dụng học của R.E.Asher: “Ngữ dụng học nghiên cứu ngôn ngữ
theo quan điểm của người dùng, trong đó các thành phần cá nhân liên kết với
các thành phần chung, các thành phần có tính xã hội. Những vấn đề của ngữ
dụng học không phân định một cách rành mạch với các lĩnh vực của ngữ
nghĩa học, cú pháp học hay âm vị học. Hiểu như vậy, ngữ dụng học sẽ là một
hệ những vấn đề có quan hệ với nhau chặt chẽ, không phải là một lĩnh vực
nghiên cứu được phân giới một cách dứt khoát” (Đỗ Hữu Châu) [19,Tr.59].

Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương là nghiên cứu ngôn
ngữ theo quan điểm của người dùng. Ngôn ngữ ở đó là thứ ngôn ngữ đã được
xây dựng nên từ hệ thống ngôn ngữ tự nhiên qua thao tác lựa chọn của người
nghệ sỹ. Nó là cái ngôn ngữ được sáng tạo ra trong những hoàn cảnh giao tiếp
đặc biệt: giữa nhà văn với độc giả, giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật
và người kể chuyện.
Vì vậy, để sáng tạo nên một tác phẩm văn học, bên cạnh việc phải nắm
chắc các quy tắc về kết học, nghĩa học, thì điều đặc biệt quan trọng đối với
các nhà văn, là họ phải biết vận dụng linh hoạt các kiến thức về ngữ dụng học.
Bởi đó là phương tiện hữu hiệu để tạo ra giá trị thẩm mỹ và hiệu lực giao tiếp
cao nhất cho tác phẩm. Đó cũng là yêu cầu đối với người nghiên cứu ngôn
ngữ kể chuyện trong các tác phẩm văn học.
Với cách nhìn nhận như vậy, trong phần này, chúng tôi chỉ tập trung

12
làm nổi rõ một số vấn đề cơ bản của ngữ dụng học làm cơ sở cho luận án.
1.1.2. Các vấn đề cơ bản của ngữ dụng học (Pragmatics)
1.1.2.1. Chiếu vật và chỉ xuất
a) Chiếu vật là phương tiện nhờ đó người nói phát ra một biểu thức ngôn
ngữ, với biểu thức này, người nghe sẽ suy ra được đúng đắn đối tượng nào
được nói đến. Người nói dùng hành vi chiếu vật, đưa ra sự vật hiện tượng
mình định nói tới vào diễn ngôn bằng các từ, ngữ, câu. Quan hệ chiếu vật là
kết quả của hành vi chiếu vật. Trong lời nói, nghĩa biểu vật chuyển thành
nghĩa chiếu vật. Kết cấu ngôn ngữ chiếu vật gọi là biểu thức chiếu vật. Điều
đó chứng tỏ rằng, nghĩa của biểu thức chiếu vật là cơ sở để hiểu được nghĩa
của diễn ngôn (Theo Đỗ Hữu Châu) [19,Tr.72].
Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn chương có tính chất hàm súc, đa
nghĩa. Tính chất đó trước hết được tạo bởi sự nhiều nghĩa chiếu vật của các
biểu thức chiếu vật. Ví dụ, trong câu ca dao:
(1.) Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
thì biểu thức thuyền và bến ở đó có thể được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, là
những sự vật khách quan. Thứ hai, nó lại có thể được hiểu là tình yêu của
người con gái và người con trai, sự nhớ nhung chờ đợi.
b) Chỉ xuất là phương thức chiếu vật bằng ngôn ngữ dựa trên hành động chỉ
trỏ (Đỗ Hữu Châu) [19,Tr.72]. Trong chỉ xuất có các phạm trù: ngôi nhân xưng,
không gian và thời gian.
 Phạm trù ngôi (phạm trù xưng hô) là những phương tiện
chiếu vật, nhờ đó người nói tự quy chiếu, tức tự đưa mình vào diễn ngôn (Đỗ
Hữu Châu) [19,Tr.72]. Như vậy, phạm trù ngôi thuộc quan hệ vai giao tiếp với
điểm gốc là người nói. Trong giao tiếp, có các vai: ngôi thứ nhất - ngôi thứ
hai. Trong tiếng Việt, ứng với mỗi vai giao tiếp có rất nhiều đại từ xưng hô.
Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ. Trong văn chương, các cuộc giao
tiếp giữa các nhân vật thường bị chi phối bởi quan hệ liên nhân, ngữ cảnh và

13
phép lịch sự. Theo đó, thì các cuộc giao tiếp giữa các vai thường có sự thay
đổi các từ xưng hô. Vì vậy, qua các từ xưng hô, có thể nhận biết được tính
chất mối quan hệ liên nhân giữa các nhân vật.
Ví dụ, trong cuộc thoại giữa lang Rận và mụ Lợi (Lang Rận) [140,Tr.235]:
Ở phần đầu cuộc thoại, khi mới thân nhau, lang Rận gọi mụ Lợi bằng chị, xưng
“tôi”, còn mụ Lợi gọi lang Rận bằng “ông”, xưng “tôi”. Đó là những từ xưng hô
thể hiện sự tôn trọng. Nhưng khi tức giận nhau, thì lang Rận gọi mụ Lợi bằng
mày, xưng tao, còn mụ Lợi gọi lang Rận bằng “đồ bạc miệng” và xưng
“người ta”.
 Chỉ xuất không gian, thời gian là phương thức chiếu vật bằng cách
chỉ ra sự vật theo vị trí của nó trong không gian và thời gian. Muốn quy chiếu sự
vật theo phương thức chỉ xuất thì phải định vị nó theo một điểm mốc và theo
một phương nhất định tính từ điểm mốc đó (Theo Đỗ Hữu Châu) [19.Tr.81].
Trong các cuộc giao tiếp, người nói thường lấy vị trí mà mình đang đứng nói

làm điểm mốc để chiếu vật. Đó là chỉ xuất không gian, thời gian chủ quan. Chỉ
xuất không gian, thời gian chủ quan lấy ba điểm gốc: tôi, ở đây và bây giờ để
định vị khi sử dụng biểu thức chiếu vật. Còn đối với chỉ xuất không gian, thời
gian khách quan, gốc lại là một điểm trong diễn tiến của sự kiện khách quan.
Điểm gốc đó được cả người nghe và người nói biết.
Ngoài chỉ xuất không gian thời gian và phạm trù ngôi, trong thực tế
còn có chỉ xuất trong diễn ngôn (chỉ xuất trong văn bản). Chỉ xuất này có tính
nội chỉ. Nó dùng để chỉ xuất sự vật đang được nói tới trong một lời nói, theo
việc nó đã được nói đến trong tiền văn hay sẽ được nói tới trong hậu văn.
Chiếu vật trong diễn ngôn là chiếu vật theo lối thay thế.
Ví dụ: (2.) Thế là xong
(1)
. Anh chết rồi đấy nhỉ?
(2)
Không lẽ tôi lại vui
khi được cái tin như thế.
(3)
[140,Tr. 167].
Trong ví dụ trên, biểu thức thế ở (1) thay thế cho biểu thức chiếu vật
anh chết rồi - điều được nói đến ở (2). Biểu thức tin như thế thay thế cho anh
chết rồi đã nói ở tiền văn. Như vậy, biểu thức thế trong (1) có tính chất khứ

14
chỉ (cataphoric) còn biểu thức tin như thế lại có tính chất hồi chỉ
(anaphoric).
1.1.2.2. Hành vi ngôn ngữ
Theo Đỗ Hữu Châu [19,Tr.88], hành vi ngôn ngữ là một loại hành động
đặc biệt có phương tiện sử dụng là ngôn ngữ. Xét trong quan hệ hội thoại, thì
các hành vi ngôn ngữ có thể chia thành hai nhóm: những hành vi có hiệu lực
ở lời và những hành vi liên hành vi (Interactionnels). Hành vi có hiệu lực ở

lời có nghĩa là nó có hiệu lực làm thay đổi quyền lực và trách nhiệm của
người hội thoại. Ví dụ, khi thực hiện một hành vi có hiệu lực ở lời là hỏi, thì
hiệu quả của nó là sẽ gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương đương với chúng ở
người nhận: là hành vi trả lời.
a) Hành vi ở lời: là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng.
Nó có sản phẩm là phát ngôn ngữ vi.
 Biểu thức ngữ vi và phát ngôn ngữ vi.
Một phát ngôn được gọi là phát ngôn ngữ vi khi nó là sản phẩm của
một hành vi ở lời nào đó, mà hành vi này được thực hiện một cách trực tiếp
và chân thực [19,Tr.91]. Phát ngôn ngữ vi có một lõi đặc trưng cho hành vi ở
lời tạo ra nó. Kết cấu lõi đó được gọi là biểu thức ngữ vi.
Ví dụ: (3.)“Thôi, em không nói cho anh biết trước nữa” [163,Tr.108].
Ví dụ trên có biểu thức ngữ vi nguyên cấp là: “em không nói cho anh
biết trước nữa” và thành phần mở rộng là hành vi từ chối “thôi”. Theo cách
hiểu đó, thì một phát ngôn ngữ vi tương đương với một tham thoại. Biểu thức
ngữ vi trong thực tế ứng với một hành vi chủ hướng, còn các hành vi phụ
thuộc là thành phần mở rộng của phát ngôn ngữ vi. Austin phân biệt hai loại
phát ngôn ngữ vi: Phát ngôn ngữ vi nguyên cấp (primary) và phát ngôn ngữ
vi tường minh (explicit) (Theo Đỗ Hữu Châu) [19,Tr.101].
Mỗi biểu thức ngữ vi được nhận ra bằng các dấu hiệu chỉ dẫn. Searle gọi
các dấu hiệu này là các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời (Illocutionary force

15
indicating devices – IFIDs) (Theo Đỗ Hữu Châu) [19,Tr.92]. Trong các phát
ngôn ngữ vi, IFIDs được biểu hiện bằng: các kiểu kết cấu; các từ ngữ chuyên
dụng trong các biểu thức ngữ vi; ngữ điệu; quan hệ giữa các thành tố trong cấu
trúc vị từ - tham thể tạo nên nội dung mệnh đề được nêu trong biểu thức ngữ vi
với các nhân tố của ngữ cảnh.
Khi xem xét nội dung mệnh đề của biểu thức ngữ vi nguyên cấp, cần
phải căn cứ vào:

- Ngữ cảnh
- Khả năng tái lập hoặc bổ sung các IFIDs cho phát ngôn đó.
- Phát ngôn hồi đáp của người nghe.
(4.)“Đồ dối trá, mày hãy nhìn coi, bà mẹ tao khóc đã loà cả hai mắt
kia! Bây giờ thì tấm hình tao đã được trưng trên khắp các tạp chí hội họa của
khắp các nước. Người ta đã trân trọng ghi tên mày bên dưới, bên cạnh mấy
chữ “Chân dung chiến sĩ Giải phóng”. Thật là danh tiếng quá!”.
- Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu một anh thợ vẽ truyền thần, công
việc người nghệ sĩ là phục vụ cả một số đông người, chứ không phải chỉ phục
vụ một người! Anh chỉ là một cá nhân với một cái chuyện của riêng anh, anh
hãy chịu để tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn. Anh đã thấy đấy,
bức “Chân dung chiến sĩ Giải phóng” đã đóng góp đôi chút vào công việc
làm cho thế giới hiểu cuộc kháng chiến của chúng ta thêm? [147,Tr.117].
Căn cứ vào ngữ cảnh phát ngôn, ta thấy đây là lời của người họa sĩ
nhân danh người chiến sĩ, hay đúng hơn người họa sĩ đã phân thân ra làm hai
để tự phán xét lương tâm mình. Người họa sĩ ấy năm xưa ở trong chiến
trường đã được người chiến sĩ gan dạ giúp vượt qua hoàn cảnh hiểm nghèo.
Vậy mà vì chút danh dự của mình, người họa sĩ đã không giữ lời hứa với
người chiến sĩ ấy, hành vi đó đã gián tiếp gây ra hậu quả là bà mẹ người chiến
sĩ đã loà cả hai mắt do khóc thương con trai. Căn cứ vào phát ngôn hồi đáp
của cái “tôi” người họa sĩ, một phát ngôn trần thuyết giải thích, giống một sự
biện hộ cho hành vi thất hứa của mình, cùng với việc có thể bổ sung thêm

16
IFIDs cho phát ngôn của SP
1
- phát ngôn của cái “tôi” người họa sỹ nhân
danh người chiến sỹ, ví dụ trên có thể là kết cấu buộc tội: mày là một thằng
khốn nạn! Cuối cùng, căn cứ vào chính các IFIDs của phát ngôn: đồ, mày…
những từ ngữ dùng trong những lời chửi rủa, ta có thể kết luận phát ngôn của

người họa sĩ nhân danh người chiến sĩ là do phát ngôn kết tội tạo ra. Từ đó
biểu thức: “Thật là danh tiếng quá!” phải được hiểu là lời mỉa mai chế giễu,
mặc dù nó có từ ngữ: “thật là” mở đầu cho biểu thức đánh giá, kết hợp với từ
“danh tiếng”, là một kết hợp thể hiện sự đánh giá theo hướng tích cực.
 Động từ nói năng và động từ ngữ vi
 Động từ nói năng: Là những động từ biểu thị, gọi tên các hành vi
ngôn ngữ [19, Tr.95].
(5.)“Ông Vị hỏi nó:
- Vậy còn tương lai của cháu?” [161,Tr.306].
Trong ví dụ trên có động từ “hỏi” là động từ nói năng, nó cũng là động
từ chỉ hành vi ở lời, hành vi có hiệu lực tại lời.
 Động từ ngữ vi: Là những động từ nói năng có thể được thực
hiện trong chức năng ngữ vi, tức thực hiện trong chức năng ở lời (còn được
gọi là động từ ngôn hành - performativeverbs). Nó là những động từ mà khi
phát âm chúng ra cùng với biểu thức ngữ vi, là người nói thực hiện luôn cái
hành vi ở lời do chúng biểu thị [19, Tr.97].
Động từ ngữ vi là những động từ có thể thực hiện chức năng ngữ vi
ngay trong phát ngôn. Tuy vậy, theo Austin thì động từ ngữ vi chỉ được dùng
trong chức năng ngữ vi khi trong phát ngôn nó được dùng ở ngôi thứ nhất
(người nói SP
1
) thời hiện tại, thể chủ động và thực thi [19, Tr.101]. Ví dụ:
(6.)“Chốc nữa mời cô xuống chỗ tôi ăn cá rán nhé!
(1)
. [163,Tr.116]
“Hôm qua anh ấy đã mời tôi xuống ăn cá rán”.
(2)

Ở câu (1), “mời” được dùng trong hiệu lực ngữ vi, còn ở câu (2)


“mời”
lại được dùng với ngôi thứ ba và thời quá khứ nên nó đã được dùng trong

17
chức năng miêu tả thông thường.
b) Hành vi ở lời gián tiếp: Trong thực tế giao tiếp, một phát ngôn không
phải chỉ có một đích ở lời, mà đại bộ phận là chúng thực hiện đồng thời một
số hành vi [19, Tr.145]. Hiện tượng người giao tiếp sử dụng trên bề mặt hành
vi ở lời này, nhưng lại nhằm hiệu quả của một hành vi ở lời khác, được gọi là
hiện tượng sử dụng hành vi ngôn ngữ theo lối gián tiếp.
Ví dụ: Trong truyện ngắn “Nước mắt” của Nam Cao, khi nhân vật
Điền ném tờ giấy bạc đã bị rách làm ba cho viên thư ký và nói:
(7.) “- Thế này thì ông bảo tôi tiêu làm sao được?
Lập tức người thư ký đứng phắt lên sừng sộ với Điền:
- Anh muốn tù phải không?” [140,Tr.304].
Trong ví dụ trên, người thư ký đã dùng hành vi trực tiếp là hỏi để cho
nhân vật Điền hiểu được hiệu lực ở lời gián tiếp là phải từ bỏ việc đòi đổi
tiền.
Các câu hỏi tu từ hầu hết là đã được dùng theo lối gián tiếp. Trong các
tác phẩm văn học, loại câu hỏi như vậy cũng rất phổ biến.
Để xuất hiện hành vi ở lời gián tiếp, trước hết phát ngôn đó phải có ngữ
cảnh cho phép. Ngữ nghĩa của các thành phần tạo nên nội dung mệnh đề của
biểu thức ngữ vi trực tiếp càng gắn với các nhân tố của ngữ cảnh bao nhiêu,
thì càng có khả năng thực hiện các hành vi gián tiếp bấy nhiêu.
Muốn nhận biết hành vi ở lời gián tiếp, phải nhận biết phát ngôn qua biểu
thức ngữ vi cốt lõi cho nó là do hành vi ở lời trực tiếp nào tạo ra. Bởi vì các hành
vi ở lời: xác tín, miêu tả, khảo nghiệm có biểu thức ngữ vi nguyên cấp trùng với
nội dung mệnh đề, cho nên có khả năng thực hiện nhiều hành vi ở lời gián tiếp.
Ví dụ: (8.) Tôi về sớm. [140,Tr.261] có thể là một lời trần thuyết, một
lời hứa hẹn, một lời cam kết, một sự biểu lộ quyết tâm.

Hành vi ngôn ngữ gián tiếp không chỉ do hành vi ngôn ngữ trực tiếp tạo
ra, nó còn bị quy định bởi các lĩnh vực khác của ngữ dụng như: lý thuyết lập
luận, lý thuyết hội thoại, nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn.

18
1.1.2.3. Lý thuyết lập luận
Lập luận là đưa ra những lý lẽ, nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận,
hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới.
a) Các chỉ dẫn lập luận
 Các tác tử lập luận (opérateurs) thường là những hư từ,
những tiểu từ tình thái, mà khi được đưa vào nội dung miêu tả nào đó, nó sẽ
làm thay đổi tiềm năng lập luận của nội dung miêu tả ấy [19, Tr.180]. Những
tác tử thường gặp là: đã, mới, thôi, chỉ, cứ, những là ít, là nhiều…
Ví dụ: (9.) - Mẹ mày ngày xưa cũng chỉ theo không tao đấy. [140,Tr.96].
Giả sử bớt đi các tác tử cũng, chỉ, đấy ở phát ngôn trên, nó sẽ trở thành:
Mẹ mày ngày xưa theo không tao. Thông tin miêu tả của phát ngôn không đổi,
nhưng phát ngôn trong văn bản với các tác tử cũng, chỉ, đấy sẽ hướng về kết
luận: không nên thách cưới, bày vẽ lôi thôi.
 Các dấu hiệu giá trị học (marques axiologiques):
 Các yếu tố của hiện thực được lựa chọn tạo thành nội dung miêu
tả cũng là một dấu hiệu có giá trị lập luận. Trong phát ngôn, các yếu tố này trở
thành cái biểu đạt làm thay đổi giá trị lập luận của các nội dung miêu tả.
Ví dụ: (10.) Mãi đến mười giờ Điền mới tới trạm Quỳnh Nha, nắng rất
gắt đã từ lâu
(1)
. Mặt hắn đỏ gay, đẫm mồ hôi và chân hắn thì bụi
(2)
.[140,Tr.307].
Ba chi tiết miêu tả nhân vật Điền trong câu (2) sẽ dẫn tới kết luận là
việc đi bộ dưới trời nắng, đã khiến cho Điền quá mệt mỏi, nóng bức.

 Cách sắp xếp, tổ chức nội dung miêu tả cũng có giá trị lập luận.
Ví dụ: (11.) Nam học không hơn gì Minh.
(1)
Minh học không hơn gì Nam.
(2)
Cả hai câu đều có nội dung là so sánh về học lực của Nam và Minh.
Nhưng ở câu (1), Nam được đặt ở vị trí đầu câu, thì có ý đánh giá thấp học lực
của Nam so với Minh, còn ở câu (2), Minh được đặt lên vị trí đầu câu, thì lại
có ý đánh giá thấp học lực của Minh so với Nam.

19
 Các thực từ được dùng để miêu tả cũng có giá trị lập luận.
Ví dụ: (12.) Giăng là cái liềm vàng giữa đồng sao
(1)
.
Đối với thị, giăng chỉ là đỡ tốn hai xu dầu.
(2)
[140,Tr.210].
Những thực từ liềm vàng, hai xu sẽ dẫn tới kết luận: Điền - người coi
trăng là cái liềm vàng, là người có tâm hồn, biết thưởng thức cái đẹp. Còn vợ
Điền - người mà thấy giá trị của trăng chỉ đáng hai xu, là người có tâm hồn cằn
cỗi.
 Kết tử lập luận (connecteurs) là những yếu tố như liên từ
đẳng lập, liên từ phụ thuộc, các trạng từ và các trạng ngữ phối hợp hai hoặc
một số phát ngôn thành một lập luận duy nhất [19, Tr.184].
Ví dụ: (13.) Hôm nay trời đẹp nên chúng tôi đi chơi.
b) Lập luận và hiện tượng đa thanh (polyphony)
Đa thanh là hiện tượng mả ở đó các nhân vật tự thể hiện chính mình mà
không được đánh giá theo quan điểm của tác giả. Do đó, trong tác phẩm xuất
hiện sự xung đột của các giọng, các quan điểm của nhân vật. Ý nghĩa thực sự

của tác phẩm chính là ở sự xung đột của các giọng, các quan điểm của nhân
vật. Còn giọng của tác giả, khi thì đồng hướng, khi thì nghịch hướng với
những giọng đó, quan điểm đó. Theo lý thuyết đa thanh của O. Ducrot, thì
trong cùng một phát ngôn, có mặt những người nói khác nhau với những c-
ương vị nói năng khác nhau: thuyết ngôn, chủ ngôn. Thuyết ngôn là người
phát ra phát ngôn, diễn ngôn nghe được, đọc được. Còn chủ ngôn là người nói
ra nội dung được nhắc lại trong phát ngôn của thuyết ngôn [19,Tr.187].
c) Lẽ thường cơ sở của lập luận.
Lẽ thường là những chân lý thông thường có tính kinh nghiệm, không
có tính tất yếu, bắt buộc như các tiên đề logic [19, Tr.191]. Nó có tính khái
quát, tính có thang độ và tính chất chung.
Với đặc trưng riêng của thể loại, ngôn ngữ trong truyện ngắn đòi hỏi sự
cô đọng, hàm súc. Các vấn đề của lập luận, đặc biệt là hiện tượng đa thanh đã

20
được các nhà văn sử dụng thường xuyên nhằm tạo ra những lời văn chứa
đựng hàm ngôn và có giá trị thẩm mỹ.
1.1.2.4. Lý thuyết hội thoại
a) Ngữ cảnh
Những lời được nói ra hoặc viết ra khi giao tiếp gọi là diễn ngôn (discourse).
Trong một hoạt động giao tiếp, loại trừ diễn ngôn ra, các nhân tố tham gia vào hoạt
động giao tiếp được gọi chung là ngữ cảnh, nó gồm các nhân tố: Nhân vật giao
tiếp;Hiện thực được nói tới; Hoàn cảnh giao tiếp; Hệ thống tín hiệu ngôn ngữ.
Giữa các nhân vật giao tiếp có quan hệ liên cá nhân giữa người nói SP
1

người nghe SP
2
. Quan hệ liên cá nhân được xét theo hai trục: Quan hệ ngang và
quan hệ dọc.

Quan hệ ngang (Relation horizontale) còn gọi là quan hệ thân - sơ. Nó có
nhiều dấu hiệu để nhận biết. Cụ thể là, dấu hiệu bằng lời gồm hệ thống các từ
xưng hô. Dấu hiệu phi lời gồm những cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt; dấu hiệu phi lời
thì có các dấu hiệu cường độ, âm lực phát âm, tốc độ nói năng, tốc độ nối tiếp
và sự chồng chéo lượt lời
Quan hệ dọc hay còn gọi là quan hệ vị thế xã hội (trục quyền uy -
power). Quan hệ này tạo thành các vị thế trên, dưới. Nó cũng được nhận biết
qua những dấu hiệu bằng lời gồm những cặp từ xưng hô, những nghi thức
xưng hô, hệ thống các đại từ… Cách điều hành các lượt lời về phương diện số
lượng và chất lượng cũng giúp ta nhận biết các vai giao tiếp có quan hệ trên,
dưới ra sao. Ngoài ra, người ta còn dựa vào cách tổ chức cuộc thoại: ai mở
đầu cuộc thoại, ai hồi đáp, ai kết thúc… cũng phản ánh vị thế của SP
1
, SP
2
.
Bên cạnh đó, các hành vi ngôn ngữ, hành vi hội thoại, sự thể hiện phép lịch sự
cũng phản ánh quan hệ vị thế. Người có quyền lực cao thường hay thản nhiên
hay vô tình đe dọa thể diện người đối thoại. Những dấu hiệu phi lời như cử
chỉ, điệu bộ, ánh mắt và những dấu hiệu kèm lời như cường độ âm lực, âm
lượng, cũng góp phần phản ánh vị thế của các vai trong hội thoại.

21
Trong tác phẩm văn học, các nhà văn lại tạo ra những cuộc hội thoại
lệch chuẩn, làm xuất hiện hàm ẩn: Ví dụ, trong truyện ngắn Phiên chợ Giát
(Nguyễn Minh Châu) có cuộc hội thoại giữa lão Khúng và chủ tịch huyện
Bời. Quan hệ giữa hai nhân vật này là quan hệ tôn ti xã hội giữa một người
có vị thế cao (chủ tịch huyện Bời) với một người có vị thế thấp - một người
nông dân (lão Khúng). Trong cuộc thoại, lão Khúng liên tục làm mất thể
diện của chủ tịch Bời và đe dọa thể diện của chủ tịch huyện:

(14.)“- Công trường với lại công triếc, toàn một lũ ăn cắp!
Ông chủ tịch huyện đã cảm thấy bị xúc phạm, da mặt đỏ gay, tuy vẫn
cố kìm giữ:
- Sao thế? Có việc gì thế hả ông lão?
- Toàn một lũ ăn cắp Ông coi, chúng nó tháo mất của tôi cả một bộ
díp - Lão Khúng càng cau mặt lại - Quân ăn cướp chứ không phải lũ ăn cắp
nữa, cái quân công trường ấy! [147,Tr.600].
b) Cấu trúc hội thoại
Trong cuộc hội thoại giữa các nhân vật giao tiếp, có các đơn vị từ lớn
đến nhỏ như sau: cuộc hội thoại, đoạn thoại, cặp thoại, tham thoại, hành vi
ngôn ngữ. Trong đó, ba đơn vị đầu có tính chất lưỡng thoại (do vận động trao
đáp của các nhân vật hội thoại), hai đơn vị sau có tính chất đơn thoại (do một
người nói ra) (Theo Đỗ Hữu Châu) [19, Tr.311].
c) Đích hội thoại
 Đề tài của lời và đề tài diễn ngôn
Đề tài của lời là hiện thực được một người nào đó nêu ra trong tham
thoại của mình. Đề tài của lời được nâng cấp thành đề tài diễn ngôn nếu
được nhân vật hội thoại hưởng ứng, nếu không chúng chỉ dừng lại ở cấp độ
là đề của lời (Theo Đỗ Hữu Châu) [19, Tr. 285] Vì vậy, đề tài diễn ngôn
không phải do một nhân vật hội thoại quyết định mà là “cái gì đó” được các
nhân vật hội thoại cùng cộng tác.

×