Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

đánh giá diễn biến chất lượng môi trường nước sông đáy đoạn chảy qua địa phận tỉnh hà nam giai đoạn 2009 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.34 MB, 85 trang )

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM









VŨ VĂN PHƯƠNG






ĐÁNH GIÁ DIỄN BIẾN CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG
NƯỚC SÔNG ĐÁY ĐOẠN CHẢY QUA ĐỊA PHẬN
TỈNH HÀ NAM GIAI ĐOẠN 2009 - 2013







LUẬN VĂN THẠC SĨ









HÀ NỘI, NĂM 2014

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

































BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM









VŨ VĂN PHƯƠNG







ĐÁNH GIÁ DIỄN BIẾN CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG
NƯỚC SÔNG ĐÁY ĐOẠN CHẢY QUA ĐỊA PHẬN
TỈNH HÀ NAM GIAI ĐOẠN 2009 - 2013




CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ:60.44.03.01




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS TRỊNH QUANG HUY




HÀ NỘI, NĂM 2014

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ trong quá trình thực hiện luận văn
đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn đã chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn



Vũ Văn Phương

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn TS. TRỊNH QUANG HUY, người
đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Với những lời chỉ dẫn, những tài
liệu, sự tận tình hướng dẫn và những lời động viên của Thầy đã giúp tôi vượt qua
nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn quý thầy cô giảng dạy chương trình cao học “Khoa
học Môi trường” đã truyền dạy những kiến thức quý báu, những kiến thức này rất
hữu ích và giúp tôi nhiều khi thực hiện nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin cám ơn về
những góp ý có ý nghĩa rất lớn khi tôi thực hiện đề cương nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè đã luôn
bên cạnh quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như cuộc sống.
Tôi xin chân thành cảm ơn !


Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn



Vũ Văn Phương










Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG v
DANH MỤC HÌNH, ĐỒ THỊ vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT vii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Lưu vực sông 3

1.1.1. Khái quát chung về lưu vực sông 3
1.1.2. Vai trò của lưu vực sông 4
1.2. Ô nhiễm nước lưu vực sông ở Việt Nam 5
1.2.1. Các nguồn gây ô nhiễm lưu vực sông 5
1.2.2. Tình hình ô nhiễm lưu vực sông 6
1.3.Tình hình quản lý môi trường nước lưu vực sông 12
1.3.1. Quy định pháp luật liên quan đến quản lý chất lượng nước lưu vực sông . 12
1.3.2. Tổ chức quản lý môi trường lưu vực sông 13
1.3.3. Thực hiện quy hoạch lưu vực sông 14
1.3.4. Xây dựng nguồn lực 14
1.3.5. Sự tham gia của cộng đồng 17
1.4. Tổng quan về lưu vực sông Nhuệ - Đáy 17
1.4.1. Đặc điểm tự nhiên lưu vực sông Nhuệ - Đáy 17
1.4.2 Điều kiện kinh tế xã hội LVS Nhuệ - Đáy 22
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 24
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 24
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 24
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu 24
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.2. Nội dung nghiên cứu 24
2.3. Phương pháp nghiên cứu 24
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp 24
2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp 24
2.3.3. Phương pháp so sánh 27
2.3.4. Phương pháp xử lý số liệu 28
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Hà Nam 29

3.1.1 Điều kiện tự nhiên 29
3.1.2. Tình hình phát triển kinh tễ xã hội trong những năm qua 35
3.2. Các nguồn phát thải chính trên sông Đáy thuộc phạm vi nghiên cứu 37
3.2.1. Nguồn thải nông nghiệp 38
3.2.2. Nguồn thải công nghiệp 41
3.2.3. Nguồn thải sinh hoạt 43
3.2.4. Nguồn thải làng nghề 43
3.2.5 Nguồn thải y tế 45
3.3. Đánh giá diễn biến chất lượng nước sông Đáy tại Hà Nam giai đoạn từ năm
2009 - 2013 46
3.4. Đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ và sử dụng hợp lý môi trường nước sông
Đáy đoạn chảy qua tỉnh Hà Nam 53
3.4.1. Thực hiện pháp luật liên quan đến môi trường 53
3.4.2. Các giải pháp kĩ thuật 54
3.4.3. Các giải pháp về quản lý 55
3.4.4. Xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường 58
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 60
Kết luận 60
Kiến nghị 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Dân số một số tỉnh trong LVS Nhuệ - Đáy 22
Bảng 2.1: Phương pháp phân tích 27
Bảng 3.1: Số liệu quan trắc thời tiết khí hậu năm 2012 32
Bảng 3.2: Phát triển dân số 35

Bảng 3.3: Biến động dân số đô thị ở các huyện, thành phố 36
Bảng 3.4: Tải lượng chất thải trong chăn nuôi những năm gần đây 38
Bảng 3.5: Tải lượng nồng độ chất ô nhiễm trong chăn nuôi 39
Bảng 3.6: Hiện trạng xả thải của các cơ sở sản xuất tại TP Phủ Lý, huyện
Thanh Liêm và Kim Bảng. 42
Bảng 3.7: Hiện trạng xả thải một số làng nghề tại Hà Nam 44
















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC HÌNH, ĐỒ THỊ

Hình 1.1. Diễn biến hàm lượng BOD
5
trên sông Nhuệ năm 2007-2011 10


Hình 1.2. Diễn biến hàm lượng COD trên sông Đáy năm 2007 -2011. 10

Hình 2.1. Sơ đồ điểm quan trắc trên sông Đáy tại Hà Nam 26

Hình 3.1. Diễn biến chất Do trên sông Đáy giai đoạn 2009 - 2013 47

Hình 3.2. Đồ thị hình hộp biểu thị độ tập trung giá trị DO 47

Hình 3.3. Diễn biến chất COD trên sông Đáy giai đoạn 2009 - 2013 48

Hình 3.4. Đồ thị hình hộp biểu thị giá trị COD 48

Hình 3.5. Diễn biến chất BOD trên sông Đáy giai đoạn 2009 - 2013 49

Hình 3.6. Đồ thị hình hộp biểu thị gía trị BOD5 49

Hình 3.7. Diễn biến chất TSS trên sông Đáy giai đoạn 2009 - 2013 50

Hình 3.8. Đồ thị hình hộp biểu thị giá trị TSS 50

Hình 3.9. Diễn biến chất N-NO2- trên sông Đáy giai đoạn 2009 - 2013 51

Hình 3.10. Đồ thị hình hộp biểu thị giá trị N-NO2 51

Hình 3.11. Diễn biến chất N-NH4+ trên sông Đáy giai đoạn 2009 – 2013 52

Hình 3.12. Đồ thị hình hộp biểu thị giá trị NH
4
+

52

Hình 3.13. Diễn biến Coliform trên sông Đáy giai đoạn 2009 - 2013 53


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BVMT Bảo vệ môi trường
BVTV Bảo vệ thực vật
CP Chính phủ
KT-XH Kinh tế xã hội
KCN Khu công nghiệp
LVS Lưu vực sông
NĐ Nghị định
NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
QCVN Quy chuẩn Việt Nam
TNN Tài nguyên nước
TNMT Tài nguyên môi trường
TP Thành phố
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
WHO Tổ chức y tế thế giới




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1


MỞ ĐẦU

Lưu vực sông Nhuệ - Đáy nằm ở hữu ngạn sông Hồng với diện tích tự
nhiên là 7949 km
2
chảy qua các tỉnh và thành phố Hòa Bình, Hà Nam, Nam Định
và Ninh Bình. Đây là vùng lãnh thổ có điều kiện tự nhiên, môi trường phong phú
đa dạng, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của vùng đồng bằng sông Hồng. Do lưu vực sông Nhuệ - Đáy có nhiều phụ lưu
lớn chảy qua các thành phố, thị xã, thị trấn, tụ điểm dân cư, khu công nghiệp,
nên đã nảy sinh hàng loạt các vấn đề môi trường bức xúc.Nhiều vấn đề về môi
trường cấp bách đã và đang diễn ra rất phức tạp ở qui mô địa phương và trên toàn
lưu vực cần được xem xét xử lý, khắc phục và phòng ngừa.
Tỉnh Hà Nam là cửa ngõ phía nam của thủ đô Hà Nội với diện tích 851
km
2
. Tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi cùng nguồn tài nguyên đất, nước, khoáng sản
phong phú đa dạng, Hà Nam có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế. Cùng với
sự phát triển nhanh của nền kinh tế là sự gia tăng dân số của tỉnh. Trước những
yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội cho tỉnh Hà Nam, vấn đề nghiên cứu
đánh giá hiện trạng, dự báo xu thế diễn biến môi trường nước lưu vực sông Nhuệ
- sông Đáy nói chung và trên sông Đáy đoạn chảy qua địa phận tỉnh Hà Nam nói
riêng nhằm đề xuất giải pháp tổng thể bảo vệ và nâng cao năng lực quản lý chất
lượng môi trường lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy là vấn đề rất cần thiết. Để làm
căn cứ giải đáp những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Đánh
giá diễn biến chất lượng môi trường nước sông Đáy đoạn chảy qua địa phận
tỉnh Hà Nam giai đoạn 2009 - 2013” nhằm thấy được bức tranh tổng thể về diễn
biến chất lượng môi trường nước đoạn chảy qua tỉnh Hà Nam trong những năm
gần đây. Từ đó giúp cho nhà quản lý môi trường có những chiến lược quản lý

chất lượng lưu vực hiệu quả trong tương lai.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

Mục đích nghiên cứu
Xác định các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng nước sông Đáy đoạn chảy
qua địa phận tỉnh Hà Nam.
Đánh giá diễn biến chất lượng môi trường nước sông Đáy đoạn chảy qua
địa phận tỉnh Hà Nam giai đoạn 2009 - 2013.
Đề xuất giải pháp bảo vệ chất lượng nước sông.
Yêu cầu của đề tài
Thông tin, dữ liệu thu thập phải phản ánh được những thay đổi và diễn
biến chất lượng nước sông Đáy.
Các giải pháp đề xuất phải đảm báo tính thực tiễn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lưu vực sông
1.1.1. Khái quát chung về lưu vực sông
Lưu vực sông (LVS): là phần diện tích bề mặt đất trong tự nhiên mà mọi
lượng nước mưa khi rơi xuống sẽ tập trung lại thành những dòng chảy và thoát ra
bằng một con sông. (Th.S Đỗ Đức Dũng, 2009)
Về mặt hình thái, một lưu vực sông có thể chia thành các vùng thượng
lưu, trung lưu và hạ lưu.
Vùng thượng lưu: thường là các vùng núi cao với địa hình dốc, chia cắt
phức tạp. Đây là nơi khởi nguồn của dòng sông và bề mặt thường bao phủ bằng
những cánh rừng thượng nguồn như những kho nước xanh có vai trò điều hòa
dòng chảy, làm giảm dòng chảy đỉnh lũ và tăng lượng dòng chảy mùa cạn cho
khu vực hạ lưu.

Trung lưu: thường là vùng đồi núi hoặc cao nguyên có địa hình thấp và
thoải hơn, là vùng trung gian chuyển nước xuống vùng hạ lưu. Tại vùng trung
lưu, các con sông thường có độ dốc nhỏ hơn, lòng sông bắt đầu mở rộng hơn và
bắt đầu có bãi, đáy sông có nhiều cát mịn. Các bãi ven sông thường có nguy cơ bị
ngập nước tạo thành các bãi chứa lũ tạm thời.
Hạ lưu: là vùng thấp nhất của lưu vực sông, phần lớn là đất bồi tụ lâu năm
có thể tạo nên các vùng đồng bằng rộng. Nói chung các sông khi chảy đến hạ lưu
thì mặt cắt sông mở rộng, sông thường phân thành nhiều nhánh đổ ra biển. Sông
ở hạ lưu thường có độ dốc nhỏ, dòng bùn cát chủ yếu ở đáy sông là cát mịn và
bùn. Do mặt cắt sông mở rộng nên tốc độ nước giảm nhỏ khiến cho quá trình bồi
lắng là chủ yếu, còn xói lở chỉ xảy ra trong mùa lũ tại một số điểm nhất định. Tại
hạ lưu gần biển các sông thường dễ bị phân nhánh, lòng sông biến dạng uốn khúc
theo hình sin và thường có sự biến đổi về hình thái dưới tác động của các quá
trình bồi, xói liên tục.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

Lưu vực sông là một hệ thống mở và luôn tương tác với tầng khí quyển
bên trên thông qua hoạt động của hoàn lưu khí quyển và chu trình thủy văn, nhờ
đó hàng trăm lưu vực sông đều nhận được một lượng nước đến từ mưa để sử
dụng cho các nhu cầu của con người và duy trì hệ sinh thái.
1.1.2. Vai trò của lưu vực sông
LVS là một hệ thống vô cùng quan trọng của tự nhiên với các chức năng
rất quan trọng đối với con người, là nơi cư trú của con người và thế giới sinh vật,
cung cấp các nguồn tài nguyên đồng thời là nơi chứa đựng và đồng hóa các chất
thải do quá trình sống của con người và các sinh vật thải ra tạo dựng sự cân bằng
cảu quá trình sinh thái.
Nguồn nước trên các lưu vực sông là nguồn tài nguyên quý giá của tự
nhiên ban cho con người nên tất cả những người sinh sống trên lưu vực sông đều
có quyền khai thác sử dụng. Việc sử dụng nước có mối liên quan mật thiết với sử

dụng đất và ảnh hưởng đến hệ sinh thái lưu vực. Sự phát triển KT –XH và cuộc
sống của muôn loài trên LVS không thể bền vững nếu không cung cấp đúng và
đủ nước theo thời gian và không gian, đảm bảo cả số lượng và chất lượng. Đối
với một quốc gia nước cũng tương tự như đất đai, hầm mỏ, rừng , biển … đều là
tài nguyên vô cùng quý báu. Không phải ngẫu nhiên mà các khu dân cư trù phú,
các thủ đô, thành phố lớn đều nằm trên các triền sông: Hà Nội bên bờ sông Hồng,
Huế - sông Hương, Pari - sông Xen, London – sông Themizơ.
Trước kia, khi công nghiệp chưa phát triển, con người sống bằng trồng
trọt và chăn nuôi nhờ những đồng bằng phì nhiêu ven sông nhiều nước. Khi chưa
có phương tiện giao thông hiện đại thì nguồn nước sông ngòi là những luồng vận
chuyển chủ yếu. Các nhà khoa học trên thế giới đều cho rằng nền văn minh của
một đất nước là “ đất màu mỡ, đất có đủ nước và đất không bị rửa trôi xói mòn đi
đến nghèo kiệt”.
Ngày nay trong điều kiện phát triển mới của nền kinh tế quốc dân, không
một hoạt động nào của con người mà không liên quan tới khai thác sông ngòi,
nguồn nước. Nước sông chảy qua các công trình đầu mối như cống lấy nước,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

trạm bơm đi vào các ống dẫn nước, kênh mương để phục vụ cho sinh hoạt , tưới
ruộng, chăn nuôi, nước dùng cho luyện kim, nước quay các tuốc bin phát điện,
phục vụ cho giao thông vận tải….(PGS.TS.Phạm Ngọc Dũng và cs, 2005).
1.2. Ô nhiễm nước lưu vực sông ở Việt Nam
1.2.1. Các nguồn gây ô nhiễm lưu vực sông
Tại mỗi lưu vực sông, theo tình hình phát triển kinh tế xã hội trong khu
vực, tỷ lệ đóng góp lượng thải ô nhiễm của các ngành có khác nhau.
1.2.1.1. Nước thải nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất, chủ yếu để phục vụ tưới
nước và hoa màu. Vì vậy tính trong tổng lượng nước thải chảy ra nguồn nước
mặt thì lưu lượng nước thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn

nhất. Việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV) và phân bón hóa học bất
hợp lý trong sản xuất nông nghiệp là nguyên nhân chủ yếu làm ô nhiễm nguồn
nước. Trung bình 20-30% thuốc BVTV và phân bón không được cây trồng tiếp
nhận sẽ theo nước mưa và nước tưới do quá trình rửa trôi đi vào nguồn nước mặt
và tích lũy trong đất, nước ngầm dưới đạng dư lượng phân bón và thuốc bảo vệ
thực vật. Đây là hiện tượng phổ biến, đặc biệt là hai châu thổ sông Hồng và sông
Cửu Long. ( Báo cáo môi trường quốc gia năm 2006)
1.2.1.2. Nước thải công nghiệp
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiều
ngành công nghiệp được mở rộng quy mô sản xuất, cũng như phạm vi phân bố.
Cùng với đó là sự gia tăng lượng nước thải lớn, nhưng mức đầu tư cho hệ thống
xử lý nước thải chưa đáp ứng yêu cầu. Số lượng khu công nghiệp (KCN) có hệ
thống xử lý nước thải vẫn đang ở mức trung bình (50-60%), hơn nữa 50% trong
số đó vẫn chưa hoạt động hiệu quả. (Báo cáo môi trường quốc gia năm 2006)
1.2.1.3. Nước thải sinh hoạt
Lượng nước thải sinh hoạt đổ vào các sông hàng năm đều tăng do tốc độ
đô thị hóa cao. Nước thải sinh hoạt chiếm trên 30% tổng lượng thải đổ trực tiếp
ra các sông hồ, hay kênh rạch dẫn ra sông. Mức đô thị hóa diễn ra với tốc độ
nhanh, năm 1990 cả nước có 550 đô thị, đến tháng 6 năm 2012 đã là 758 đô thị.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

Bên cạnh đó, không chỉ ở thành thị, mà ngay cả ở khu vực nông thôn, lượng
nước thải sinh hoạt chiếm tỷ lệ rất lớn và tăng nhanh qua các năm.Hầu hết nước
thải sinh hoạt của các thành phố đều chưa được xử lý, trực tiếp đổ vào các kênh
mương và chảy thẳng ra sông gây ra ô nhiễm môi trường nước mặt. Phần lớn các
đô thị đều chưa có nhà máy xử lý nước thải tập trung, hoặc đã xây dựng nhưng
chưa đi vào hoạt động, hoặc hoạt động không có hiệu quả. (Báo cáo môi trường
quốc gia năm 2012 – Môi trường nước mặt)
1.2.1.4. Nước thải y tế

Do thành phần nước thải y tế chứa nhiều hóa chất độc hại với nồng độ
cao và chứa nhiều vi trùng, vi khuẩn lây lan bệnh truyền nhiễm. Mức độ gia
tăng lượng nước thải y tế năm 2011 so với năm 2000 là hơn 20%. Hầu hết các
bệnh viện do Bộ Y tế quản lý đã được đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập
trung. Tuy nhiên, tại các bệnh viện thuộc Sở y tế địa phương quản lý hay các
bệnh viện thuộc ngành khác quản lý, cũng như các cơ sở khám chữa bệnh tư
nhân nằm rải rác, phần lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải. Theo Cục Quản lý
môi trường y tế thuộc Bộ Y tế, năm 2011, nước ta có hơn 13.640 cơ sở y tế,
khám chữa bệnh. Mỗi ngày, các đơn vị này thải ra khoảng 120.000 m3nước thải
Ytế, trong khi đó, chỉ có 53,4% trong tổng số bệnh viện có hệ thống xử lý nước
thải y tế. Trong đó, một số lượng lớn các chất độc hại trong nước thải y tế
không thể xử lý được bằng phương pháp xử lý nước thải thông thường. ( Báo
cáo môi trường quốc gia năm 2012).
1.2.2. Tình hình ô nhiễm lưu vực sông
Nước ta có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, nếu chỉ tính các con sông có
chiều dài 10 km trở lên và có dòng chảy thường xuyên thì có tới 2.372 con sông,
trong đó, 13 hệ thống sông lớn có diện tích lưu vực trên 10.000 km
2
. Lưu vực của
13 hệ thống sông lớn chiếm hơn 80% diện tích lãnh thổ,10 trong số 13 sông trên
là sông liên quốc gia. Lưu vực của 9 hệ thống sông chính: S. Hồng, S.Thái Bình,
S. Bằng Giang – Kỳ Cùng, S.Mã, S. Cả - La, S.Thu Bồn, S. Ba, S.Đồng Nai, S.
Cửu Long chiếm tới gần 93% tổng diện tích lưu vực sông toàn quốc và gần xấp
xỉ 80% diện tích quốc gia (Báo cáo môi trường quốc gia năm 2006).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

Sau gần 20 năm mở cửa và đẩy mạnh kinh tế với hơn 64 khu chế xuất và
khu công nghiệp, cộng thêm hàng trăm ngàn cơ sở hóa chất và chế biến trên toàn
quốc. Vấn đề chất thải là một vần đề của phát triển đối với những quốc gia còn

đang phát triển. Qua thời gian, nguy cơ ô nhiễm ngày càng tăng dầnvà cho đến
hôm nay, có thể nói rằng tình trạng ô nhiễm trên những dòng sông ở Việt Nam đã
đang ở mức báo động, đặc biệt ở những nơi có phát triển kinh tế trọng điểm.
Nhiều dòng sông trước kia là nơi giặt giũ tắm rửavà nước sông được sử dụng như
nước sinh hoạt gia đình thì nay tình trạng hoàn toàn khác hẳn. Những nơi được
đề cập đến có thể được chia ra từng khu vực khác nhau từ Bắc chí Nam tùy theo
sự phát triển của từng nơi một. Đó là :
Lưu vực sông Cầu và các phụ lưu qua các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hải Dương.
Lưu vực sông Nhuệ, sông Ðáy chảy qua các tỉnh Hòa Bình, TP Hà Nội,
Hà Tây, Hà Nam, Nam Ðịnh, và Ninh Bình.
Lưu vực sông Ðồng Nai, sông Sài Gòn gồm các tỉnh Lâm Ðồng, Ðắc Lắc
Ðắc Nông, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Ðồng Nai (Biên Hòa), Thành
phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu,Ninh Thuận, và Bình Thuận.
• Lưu vực sông Đồng Nai
Lưu vực sông Đồng Nai là một trong những lưu vực sông lớn của Việt
Nam và là lưu vực sông lớn thứ hai ở khu vực phía Nam, bao phủ toàn bộ địa
giới hành chánh của các tỉnh Lâm Đồng, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh,
Đồng Nai, Tp. Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu và một phần địa giới hành
chánh của các tỉnh Đăk Nông, Ninh Thuận, Bình Thuận và Long An (tổng cộng
11 tỉnh, thành có liên quan). Ngoài dòng chính là sông Đồng Nai, trên lưu vực
này còn có nhiều phụ lưu quan trọng đổ nước vào sông Đồng Nai trước khi ra
biển như sông La Ngà, sông Bé, sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ, cùng với một hệ
thống sông rạch chằng chịt vùng cửa sông ven biển. (Huỳnh Thị Minh Hằng và
cs., 2006). Hệ thống sông Đồng Nai giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong phát
triển kinh tế – xã hội của 11 tỉnh, thành phố có liên quan đến lưu vực, là nguồn
cung cấp nước sinh hoạt cho 15 triệu người, cho sản xuất công nghiệp, nông
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8


nghiệp, phát triển thủy điện, nuôi trồng thủy sản, giao thông vận tải, du
lịch…Nhưng hiện nay, nguồn nước sông đã bị ô nhiễm ở mức báo động. Trong
đó ô nhiễm hữu cơ, vi sinh, kim loại nặng, dầu mỡ, cộng với nạn khai thác nguồn
nước không kiểm soát được đã gây nhiều tác hại môi trường rất lớn.
Theo tin từ Tổng Cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), hiện
nay môi trường lưu vực sông Đồng Nai (bao gồm các sông chính là Đồng Nai,
Sông Bé, Sài Gòn, Vàm Cỏ và Thị Vải) đang ở mức báo động. Vấn đề ô nhiễm
sông Đồng Nai mang tính liên vùng, không thể giải quyết trong phạm vi một địa
phương. Cũng theo Cục Bảo vệ môi trường, vùng hạ lưu sông Đồng Nai đã bị
nhiễm mặn nghiêm trọng và không thể sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt
và tưới tiêu. Sông Sài Gòn bị ô nhiễm còn trầm trọng hơn, chủ yếu là ô nhiễm
chất hữu cơ, vi sinh. (Nguyễn Khoa, 2011)
Tại Hội nghị triển khai Đề án bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông
Đồng Nai ngày 26/2/2008, các cơ quan chuyên môn đều có chung đánh giá:
nguồn nước thuộc lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai hiện đang bị ô nhiễm nặng,
không đạt chất lượng mặt nước dùng làm nguồn cấp nước sinh hoạt. Theo số liệu
khảo sát do Chi cục Bảo vệ môi trường phối hợp với Công ty Cấp nước Sài Gòn
thực hiện năm 2008 cho thấy, lượng NH
3
(amoniac), chất rắn lơ lửng, ô nhiễm
hữu cơ (đặc biệt là ô nhiễm dầu và vi sinh) tăng cao tại hầu hết các rạch, cống và
các điểm xả. Có khu vực, hàm lượng nồng độ NH
3
trong nước vượt gấp 30 lần
tiêu chuẩn cho phép (như cửa sông Thị Tính); hàm lượng chì trong nước vượt
tiêu chuẩn quy định nhiều lần; chất rắn lơ lửng vượt tiêu chuẩn từ 3 - 9 lần Tác
nhân chủ yếu của tình trạng ô nhiễm này chính là trên 9.000 cơ sở sản xuất công
nghiệp nằm phân tán, nằm xen kẽ trong khu dân cư trên lưu vực sông Đồng Nai.
Bình quân mỗi ngày, lưu vực sông phải tiếp nhận khoảng 48.000m3 nước thải từ
các cơ sở sản xuất này. Dọc lưu vực sông Đồng Nai, có 56 khu công nghiệp, khu

chế xuất đang hoạt động nhưng chỉ có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải tập
trung, số còn lại đều xả trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến chất
lượng nước của các nguồn tiếp nhận Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong
khu công nghiệp đã phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

ngập úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất nông
nghiệp của bà con nông dân.(TS.Trần Đức Hiến, 2011).
Theo Tổng cục Môi trường, năm 2010 kết quả quan trắc cho thấy hiện
trạng mặt nước sông Sài Gòn về chất N-NH
4
có chỉ số luôn vượt ngưỡng tiêu
chuẩn QCVN ở mức B1 nhiều lần; còn chỉ số BOD
5
(nhóm chỉ tiêu đánh giá về
mức độ ô nhiễm chất hữu cơ của bề mặt nước) nhiều khu vực tăng mạnh Điều
đáng nói là N-NH
4
ở tất cả cửa sông đều vượt QCVN cột nước A1 như phà Bình
Khánh, đập Tam Thôn Hiệp, sông Soài Rạp (Anh Thoa, Đức Tuyên, 2010)
• Lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy
LVS Nhuệ - Đáy là một trong những LVS lớn, có vai trò đặc biệt quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng, nhất là 5 địa
phương gồm: Hòa Bình, Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định. Vai trò của hai
dòng sông trên vừa là hệ thống tưới tiêu cho nông nghiệp, vừa đảm nhiệm thoát
nước đô thị. Tuy nhiên, môi trường, chất lượng nước lưu vực hai con sông này
đang ngày càng suy thoái do sự phát triển nhanh chóng của các làng nghề, KCN
của các địa phương trong lưu vực. Chất lượng nước của nhiều đoạn thuộc LVS
Nhuệ - sông Đáy đã bị ô nhiễm tới mức báo động, đặc biệt vào mùa khô, giá trị

các thông số BOD
5
, COD, Coliform tại các điểm đo đều vượt QCVN 08:2008/
BTNMT nhiêu lần. (Báo cáo môi trường quốc gia năm 2012.). Trong báo cáo
nghiên cứu của Nguyễn Thanh Sơn và cs (2001) đăng trên tạp chí Đại học quốc
gia Hà Nội: Hàm lượng chất hữu cơ trong nước LVS Nhuệ - Đáy có giá trị cao,
nồng độ COD vượt quá giới hạn cho phép chất lượng nước mặt loại A từ 2-3 lần
trong khi nồng độ BOD
5
vượt quá giới hạn này từ 4-6 lần, hàm lượng DO rất
thấp, chỉ đạt 2.89 mg/l.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

Đầu nguồn dòng sông Nhuệ (sau
khi nhận nước sông Hồng), nước sông
hầu như chưa bị ô nhiễm. Sông Nhuệ
từ khu vực Cổ Nhuế, nước bắt đầu bị ô
nhiễm. Đặc biệt, ô nhiễm nước tăng
cao từ khu vực tiếp nhận nước sông Tô
Lịch, giá trị tại các điểm đo đều vượt
QCVN loại A1 nhiều lần. Nước thải
sông Tô Lịch (nguồn tiếp nhận nước
thải chính của toàn bộ các quận nội
thành Hà Nội) là nguyên nhân chính
gây ô nhiễm cho sông.

Hình 1.1. Diễn biến hàm lượng BOD
5


trên sông Nhuệ năm 2007-2011
(Nguồn: Báo cáo MTQG năm 2012)
Nước sông Đáy và các sông khác bị ô nhiễm ở mức nhẹ hơn sông Nhuệ và
ô nhiễm chỉ mang tính cục bộ. Sông Đáy chủ yếu bị ô nhiễm hữu cơ ở từng đoạn
sông với các mức độ khác nhau.Càng về hạ lưu mức ô nhiễm trên sông Đáy có
xu hướng giảm. Hạ lưu sông Đáy (từ Kim Sơn - Ninh Bình ra cửa Đáy), do
nguồn thải ở thượng nguồn dồn về đã được pha loãng cộng với quá trình tự làm
sạch của dòng sông nên chất lượng nước ở hạ lưu sông Đáy được cải thiện so với
các đoạn trên.

Hình 1.2. Diễn biến hàm lượng COD trên sông Đáy năm 2007 -2011.
(Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia năm 2012)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

• Lưu vực sông Cầu
Với chiều dài 288 km, sông Cầu là con sông quan trọng trong hệ thống
sông Thái Bình và là huyết mạch giao thông đường thủy gắn kết kinh tế - văn hóa
giữa các địa phương với tổng lượng nước hằng năm khoảng 4,5 tỷ m
3
. Tuy nhiên,
trong quá trình khai thác nguồn tài nguyên phát triển kinh tế, LVS Cầu ngày càng
bị ô nhiễm bởi tình trạng khai thác khoáng sản, làng nghề và các khu công
nghiệp trải dài trên sáu tỉnh có dòng sông chảy qua. Qua kết quả quan trắc chất
lượng môi trường nước mặt LVS Cầu của Trung tâm Quan trắc môi trường
(Tổng cục Môi trường) cho thấy, lượng nước tại vùng trung lưu và hạ lưu của
LVS Cầu đang bị ô nhiễm bởi một số chất gây ô nhiễm hữu cơ, chất rắn lơ lửng
và cục bộ, ô nhiễm dầu từ các làng nghề, các khu công nghiệp, các đô thị, từ khai
thác khoáng sản, các hoạt động sản xuất nông nghiệp. (Quỳnh Nguyễn, 2010)

Kết quả phân tích nước sông Cầu lấy mẫu nước mặt và nước ngầm của
các thôn thuộc phạm vi bốn xã Ðồng Phúc, Tư Mại, Thắng Lợi Thượng và Yên
Lư thuộc huyện Yên Dũng (Bắc Giang) cho thấy, vào mùa mưa, nước sông Cầu
có chỉ số pH dao động từ 7,03 - 8,09, trung bình giá trị pH kiểm tra các mẫu
nước trong mùa mưa là 7,41. Trong mùa khô pH đạt giá trị trung bình 7,71, trong
đó giá trị pH của nước sông dao động từ 7,5-8,2. Theo đó, giá trị pH ở mùa khô
đều cao hơn mùa mưa, điều này cho thấy nước sông Cầu có xu thế kiềm hóa về
mùa khô. Cùng đó, cảnh quan sinh thái, thiên nhiên bị biến đổi, các nguồn lợi thủy
sản có nguy cơ bị cạn kiệt, nguồn nước sông Cầu đang bị ô nhiễm, nhất là khu vực
hạ lưu. Các chỉ số về hữu cơ, chỉ tiêu vi sinh vật đều vượt tiêu chuẩn cho phép
nhiều lần, nhất là đoạn lưu vực của các tỉnh Bắc Giang, tỉnh Bắc Ninh. Hàm lượng
chất rắn lơ lửng (SS) về mùa mưa của mực nước sông dao động từ 18-70 mg/l,
trung bình là 55,7 mg/l. Trong mùa khô, tổng chất rắn lơ lửng của nước sông có xu
thế tăng lên khá rõ rệt, dao động từ 5,3-276,0 mg/l. Theo đó, về giá trị SS trong
nước sông Cầu kể cả mùa mưa và mùa khô hầu hết số mẫu nghiên cứu đều không
đủ điều kiện làm nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt. (Xuân Hợp, 2010).
Đoạn thượng nguồn lưu vực sông Cầu, nước sông còn giữ được tính tự
nhiên vốn có do chảy qua vùng dân cư thưa thớt và các hoạt động công nghiệp
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

chưa phát triển mạnh. Nhìn chung, chất lượng nước của đoạn sông này còn tương
đối tốt, các chỉ tiêu chất lượng nước cho đến nay vẫn đảm bảo giới hạn cho phép
đối với nguồn nước mặt loại A1 và A2 (QCVN 08:2008/BTNMT). Đoạn trung
lưu là khu vực đã có mức độ phát triển cao với đa dạng các hoạt động kinh tế
thuộc nhiều loại hình và ngành nghề. Tại nhiều nơi, vào những tháng mùa kiệt,
khi nước ở thượng nguồn ít, có nhiều chỉ tiêu không đạt nguồn loại B, các loài
thủy sinh gần như không sinh sống được. Nhìn chung, hầu hết các thông số quan
trắc của đoạn sông này đều không đạt QCVN A1, một số điểm như Cầu Trà
Vườn, giá trị thông số NH

4
+
còn vượt quá QCVN B1, tuy nhiên, hàm lượng các
thông số có xu hướng giảm qua các năm. Đoạn sông Cầu qua Bắc Ninh, Bắc
Giang, phần lớn các điểm quan trắc đều có giá trị các thông số vượt QCVN A1,
thậm chí vượt hoặc xấp xỉ QCVN B1. Bên cạnh đó, giá trị một số thông số như
COD, BOD
5
, NH
4
+
có xu hướng tăng, điều này cho thấy chất lượng nước đang bị
suy giảm. (Báo cáo môi trường quốc gia năm 2012, chương 3).
1.3.Tình hình quản lý môi trường nước lưu vực sông
1.3.1. Quy định pháp luật liên quan đến quản lý chất lượng nước lưu vực sông
Nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc quản lý tổng hợp LVS, trong thời
gian qua nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan được ban hành đã góp
phần luật hoá công tác quản lý môi trường và bảo vệ nguồn nước các LVS.
Trong đó có thể kể ra các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như: Luật Bảo
vệ môi trường (2005), Luật Tài nguyên nước (1998), Luật Đất đai (2003), hệ
thống Tiêu chuẩn Việt Nam - Các tiêu chuẩn chất lượng nước sông, hồ (ban hành
năm 1995, sửa đổi năm 2001 và 2005), và hàng loạt các văn bản dưới luật khác.
Việc quản lý LVS đã được quy định tại Luật Tài nguyên nước, ban hành
năm 1998. Tuy nhiên, Luật cũng chưa quy định cụ thể về quản lý LVS, chưa quy
định nguyên tắc, nội dung quản lý tổng hợp LVS… Vì vậy, việc triển khai thực
hiện công tác quản lý tổng hợp LVS trên thực tế còn nhiều khó khăn, vướng mắc.
Dự thảo Luật sửa đổi Luật Tài nguyên Nước (TNN) năm 1998 đang được xây
dựng, nhằm bảo vệ TNN hiệu quả; sử dụng nước hợp lý, tiết kiệm; phòng, chống,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13


khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra tốt hơn; tăng cường hiệu lực quản lý
Nhà nước về TNN trong tình hình mới.
Quản lý LVS không chỉ quản lý về mặt số lượng mà còn quản lý về mặt
chất lượng nước. Tình trạng ô nhiễm nguồn nước đang gia tăng ở nước ta đòi hỏi
phải có sự phối hợp giữa các địa phương vùng thượng lưu với các địa phương
vùng hạ lưu. Thực tế, việc xây dựng các đề án quản lý môi trường LVS Cầu,
sông Nhuệ - Đáy và sông Đồng Nai cho thấy, không thể tách rời quản lý TNN
với bảo vệ môi trường có liên quan đến TNN. Để khắc phục những nhược điểm
về thể chế trong việc quản lý LVS, ngày 01/12/2008 Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 120/2008/NĐ-CP về Quản lý lưu vực sông.
Tuy đã có hàng loạt các văn bản pháp luật đã được ban hành, song hiệu
quả quản lý tại các LVS chưa cao do hệ thống chính sách, văn bản pháp quy liên
quan đến bảo vệ chất lượng nước ở lưu vực sông còn thiếu và chưa đồng bộ.
1.3.2. Tổ chức quản lý môi trường lưu vực sông
1.3.2.1. Cấp quốc gia
Tháng 8/2002, Quốc hội đã quyết định thành lập Bộ Tài nguyên và Môi
trường (TN&MT). Việc giao chức năng quản lý TNN từ Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn sang Bộ TN&MT đã tách quản lý Nhà nước về TNN ra khỏi
quản lý theo mục đích sử dụng. Như vậy, Bộ TN&MT là cơ quan Chính phủ thực
hiện chức năng quản lý nhà nước trên các LVS trong phạm vi cả nước.
Các Bộ liên quan có trách nhiệm trong quản lý chất lượng nước trong các
LVS gồm Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ Công
thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính…
Thành lập ba Ủy ban Bảo vệ môi trường của ba LVS: Cầu, Nhuệ - Đáy và
Đồng Nai. Đây là những tổ chức chỉ đạo và phối hợp liên ngành, liên tỉnh thực
hiện ba phê chuẩn các dự án về bảo vệ môi trường LVS.
1.3.2.2. Cấp liên vùng và địa phương
Ở các địa phương, từ năm 2003 (sau khi thành lập Bộ TN&MT), các cơ
quan TN&MT đã được thành lập. Các Sở TN&MT đều có Phòng quản lý môi

trường (TP. Hồ Chí Minh có Chi Cục BVMT). Một số tỉnh cũng đã thành lập các
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

Trung tâm Quan trắc tập trung vào giám sát chất lượng nước sông và hồ. Công
tác quản lý nhà nước về TNN ở các địa phương bước đầu được quan tâm.
Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các cơ quan Bộ, ngành và địa phương để giải
quyết các vấn đề về LVS còn yếu. Giữa các địa phương trong cùng lưu vực chưa
tìm được tiếng nói chung, chưa thống nhất và hợp tác chặt chẽ trong công tác
quản lý môi trường lưu vực.
1.3.3. Thực hiện quy hoạch lưu vực sông
Trên phạm vi của các LVS và các vùng lãnh thổ lớn, công tác quy hoạch
TNN lưu vực đến nay đã được triển khai. Ngày 13/02/2006, Bộ TN&MT đã có các
Quyết định phê duyệt đề cương và tổng dự toán dự án Quy hoạch TNN lưu vực
sông Đồng Nai, Vùng cực Nam Trung Bộ và Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã thành lập và đang quản lý 8
Ban Quản lý quy hoạch LVS, cụ thể Ban Quản lý quy hoạch LVS Hồng – Thái
Bình, Cầu, Nhuệ - Đáy, Cả, Vũ Gia – Thu Bồn, Đồng Nai, Serepok và Cửu Long.
Kể từ năm 2002, Chính phủ đã giao chức năng quản lý TNN cho Bộ
TN&MT. Bộ này đã tham mưu Chính phủ thành lập 3 Uỷ ban Bảo vệ Môi trường
là Uỷ ban BVMT LVS Cầu, Đồng Nai và Nhuệ - Đáy.Đến năm 2008, Chính phủ
đã giao cho Bộ TN&MT thống nhất quản lý TNN và LVS thông qua các tổ chức
Uỷ ban Lưu vực sông sẽ được thành lập trong tương lai. Nhiệm vụ này đã được
quy định bởi Nghị định 120/2008/NĐ-CP của Chính phủ về Quản lý LVS.
Như vậy có thể thấy cùng trên một LVS song lại có nhiều cơ quan quản lý,
với tên gọi khác nhau, nhưng chất lượng các dòng sông thì xấu đi từng ngày. Chính
vì thế, điểm nổi bật nhất của mô hình quản lý LVS hiện nay hết sức chồng chéo.
Đến nay các mô hình này đều được đánh giá là không hiệu quả, chưa khai thác được
tiềm năng của các LVS, đồng thời chưa bảo vệ được môi trường các LVS.
1.3.4. Xây dựng nguồn lực

1.3.4.1. Đội ngũ cán bộ
Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý môi trường nói chung và quản lý môi
trường LVS nói riêng giữa các tỉnh cũng không đồng đều. Lực lượng cán bộ
đang rất thiếu hụt về số lượng và còn nhiều hạn chế về năng lực.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

Theo tính toán sơ bộ, trong tổng số khoảng 1.200 cán bộ quản lý môi
trường ở Việt Nam thì chỉ có gần 150 cán bộ quản lý môi trường LVS. Chỉ số
năng lực ước tính theo số lượng nhân sự cho thấy các chỉ số năng lực về bảo vệ
môi trường LVS của Việt Nam rất thấp, chỉ đạt khoảng 1,8 cán bộ/ 1 triệu dân.
Các cán bộ hiện tại đang làm việc trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (BVMT)
sông phần lớn đều không được đào tạo chuyên ngành về môi trường và TNN, lại
phải kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực nên kiến thức về BVMT LVS thường không sâu.
1.3.4.2. Đầu tư tài chính
Nguồn chi cho quản lý và BVMT LVS từ ngân sách nhà nước không được
phân bổ thành mục chi riêng. Tổng kinh phí đầu tư cho BVMT nói chung không
ngừng tăng. Tuy nhiên, đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường LVS còn ít,
chưa đáp ứng yêu cầu.
Nhằm nâng cao hoạt động BVMT LVS trong giai đoạn hiện nay, năm
2011, chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi
trường vừa được Quốc hội thông qua xác định kinh phí 10.100 tỷ đồng dành cho
3 LVS đến năm 2015 là nội dung đặc biệt có ý nghĩa đối với các địa phương trên
lưu vực. Trong đó ngân sách Trung ương là 2.500 tỷ, ngân sách địa phương và
vốn ODA (viết tắt của cụm từ Official Development Assistance - Hỗ trợ phát
triển chính thức) là 7.600 tỷ. Khoản tiền này chưa phải là đủ, nhưng rất quan
trọng đối với công tác ngăn ngừa ô nhiễm, cải thiện cho cả 3 LVS.
1.3.4.3. Quan trắc và thông tin môi trường
Từ năm 2005, Chương trình quan trắc tổng thể 3 LVS: Cầu, Nhuệ - Đáy,
Đồng Nai đã được Tổng cục Môi trường phê duyệt và hoạt động quan trắc trong

các LVS này cũng đã bắt đầu được tiến hành bởi Trung tâm Quan trắc môi
trường. Tuy nhiên, do giới hạn về kinh phí, hoạt động quan trắc chưa được tiến
hành với đầy đủ số điểm quan trắc và tần suất như thiết kế trong Chương trình.
Ngoài ra, nhiều tỉnh/thành trong các LVS cũng đã thành lập Trung tâm
Quan trắc môi trường nhằm theo dõi, giám sát diễn biết chất lượng môi trường
nói chung, phục vụ công tác quản lý, BVMT của địa phương. Hoạt động quan
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

trắc môi trường nước LVS của các địa phương ngày càng được tăng cường, số
điểm quan trắc, tần suất và thông số quan trắc cũng ngày càng tăng.
Thực trạng tại các LVS chưa có hệ thống dữ liệu thông tin nhằm phục vụ
quản lý chất lượng nước khu vực. Trên thực tế, dữ liệu về LVS còn rời rạc, chưa
được hệ thống hóa dẫn tới việc tìm kiếm thông tin cần thiết trong núi dữ liệu
chậm, khai thác dữ liệu khó khăn, báo cáo môi trường tốn nhiều thời gian. Từ đó
công tác theo dõi biến động và dự báo chưa được đầy đủ và khoa học nên việc
đánh giá hiệu quả công tác BVMT tại các LVS còn gặp nhiều khó khăn.
Trong những năm gần đây, mặc dù Việt Nam đã có những đề tài, dự án
nghiên cứu môi trường LVS, tuy nhiên, chưa thực sự phục vụ đắc lực cho yêu
cầu lâu dài của công tác quản lý. Trong khi đó, công tác quản lý môi trường tại
các LVS, đòi hỏi phải quản lý một khối lượng lớn các dữ liệu.
Trong năm 2006, Tổng cục Môi trường phối hợp với các tỉnh trong lưu
vực tiến hành xây dựng và cập nhật thông tin cho trang thông tin điện tử về môi
trường 3 LVS.
Một số địa phương trên các LVS đã tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu môi
trường tại địa phương mình. Tuy nhiên, chưa có các cơ sở dữ liệu ở cấp lưu vực
hoặc tiểu lưu vực. Việc trao đổi, chia sẻ số liệu, thông tin môi trường giữa các
tỉnh trong lưu vực và giữa các lưu vực với nhau cũng còn nhiều hạn chế
Hiện nay, sự phát triển của công nghệ thông tin đã cho ra đời những mô
hình quản lý và xử lý dữ liệu không gian mới có nhiều ưu việt hơn chẳng hạn

như bản đồ số, cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin địa lý (GIS), mô hình hóa trong
công tác quản lý các LVS. Là nguồn cung cấp nước chính, đồng thời lại là nơi
tiếp nhận hầu hết các nguồn thải từ các đô thị và khu công nghiệp trong vùng, các
LVS đang đứng trước những thách thức lớn trong duy trì và cải thiện chất lượng
nước. Vì vậy, việc ứng dụng hệ thống thông tin môi trường hỗ trợ và phục vụ
công tác quản lý chất lượng nước LVS của các cơ quan quản lý nhà nước là một
điều hết sức cần thiết.

×