Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tiểu luận mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.24 KB, 30 trang )

Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

1

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài 4
5. Bố cục đề tài 4
CHƯƠNG 1 5
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ 5
1.1. Sự hình thành và phát triển của hoạt động mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp Việt Nam 5
1.2. Những vấn đề lý luận chung về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
6
1.2.1. Khái niệm về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp 6
1.2.2. Hình thức mua bán, sáp nhập doanh nghiệp 9
1.3. Kiểm soát hành vi tập trung kinh tế bằng cơ chế pháp luật 10
1.3.1. Khái niệm về kiểm soát tập trung kinh tế 10
1.3.2. Vai trò của kiểm soát hành vi tập trung kinh tế 11
CHƯƠNG 2 13
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VỀ MUA BÁN, SÁP
NHẬP DOANH NGHIỆP, THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM 13
2.1 Quy định của Luật cạnh trạnh về mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp 13
2.1.1 Các quy định về hình thức mua bán, sáp nhập doanh nghiệp 13
2.1.1.2. Hợp nhất doanh nghiệp 13
2.1.1.3. Mua lại doanh nghiệp 14


2.1.1.4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp 15
2.1.2. Kiểm soát mua bán sáp nhập doanh nghiệp (tập trung kinh tế)
theo Luật cạnh tranh 16
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

2

2.1.2.2. Nhóm hành vi cần kiểm soát 18
2.1.2.3. Nhóm hành vi bị cấm 19
2.1.2.4. Các trường hợp được miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế
bị cấm và thủ tục miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế 19
2.2 Thực tiễn mua bán, sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập 20
2.2.1. Tình hình mua bán, sáp nhập doanh nghiệp hiện nay 20
2.2.2. Những tồn tại và hướng giải quyết 22
* Những tồn tại về thực tiễn áp dụng 23
* Hướng giải quyết 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

3

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp là một hiện tượng tất yếu trong đời sống kinh
tế là hành vi của các doanh nghiệp. Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường
xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm một

số lượng đông và chủ yếu vì vậy để tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp đó tìm
cách liên kết, tập trung lại với nhau là một điều tất yếu và rất cần thiết. Mặt khác
trong bối cảnh chúng ta đang tham gia hội nhập kinh tế và đang dần khẳng định
mình trước nền kinh tế thế giới, nền kinh tế đang có những bước phát triển mạnh
mẽ và có sự chuyển biến tích cực, khi mà kinh tế thị trường phát triển thì sự cạnh
tranh sẽ gia tăng và ngày càng gay gắt, sự gia tăng các hoạt động tập trung kinh tế
như một đòi hỏi khách quan. Để thực hiện mua bán, sáp nhập doanh nghiệp cần
phải có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp khác nhau, sau khi tập trung lại thì thị
phần của các doanh nghiệp cũng sẽ thay đổi. Khi hoạt động tập trung kinh tế xảy ra
sẽ tiềm ẩn việc hình thành nên các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, nếu
trường hợp này xảy ra sẽ dẫn đến việc gây hạn chế cạnh tranh và nhiều hơn nữa là
thủ tiêu cạnh tranh. Chính vì vậy việc mua bán, sáp nhập doanh nghiệp đã ảnh
hưởng không nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế, đối với sự cạnh tranh công
bằng trên thị trường. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trên thị
trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh, Luật cạnh tranh 2004 đã ra đời. Để tìm
hiểu rõ hơn quy định của Luật cạnh tranh về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp người
viết chọn đề tài “Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh
và thực tiễn tại Việt Nam” làm tiểu luận môn học Pháp luật về cạnh tranh.
2. Mục đích nghiên cứu
Các hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp mặc dù đã được nhiều văn bản
pháp luật điều chỉnh nhưng vẫn được xem là khá mới mẻ với Việt Nam nhất là các
doanh nghiệp chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên sẽ rất nguy hiểm khi các
công ty có tiềm lực mạnh trên thế giới xâm nhập vào thị trường trong nước gây lũng
đoạn nền kinh tế. Qua đó mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ thế nào là
mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, quá trình hình thành phát triển và các hoạt động
mua bán, sáp nhập doanh nghiệp trên thực tiễn, vì sao cần phải kiểm soát các hành
vi mua bán, sáp nhập doanh nghiệp và những quy phạm điều chỉnh của Luật cạnh
tranh đối với hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam


4

3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu những nội dung có liên quan đến kiểm soát các
hành vi mua bán, sáp nhập doanh nghiệp (còn gọi là tập trung kinh tế) theo Luật
cạnh tranh. Ngoài ra, đề tài còn đề cập đến thực tiễn hoạt động mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp hiện nay, đồng thời đề ra phương hướng giải quyết đối với những tồn
tại của pháp luật cạnh tranh trong việc điều chỉnh hành vi này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong đề tài người viết đã sử dụng phương pháp phân tích các quy định của
luật viết, lý luận về các vấn đề có liên quan, phân tích tổng hợp, thống kê chọn lọc
các số liệu, để giải quyết những mục đích nhiệm vụ mà đề tài nghiên cứu đã đặt ra.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục thì
nội dung cơ bản của tiểu luận gồm có 2 chương được trình bày theo bố cục như sau:
- Chương 1. Khái quát về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp;
- Chương 2. Quy định của Luật cạnh tranh về mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp, thực tiễn tại Việt Nam.













Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

5

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ
1.1. Sự hình thành và phát triển của hoạt động mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp Việt Nam
Có thể chia quá trình hình thành của tập trung kinh tế Việt Nam thành hai giai
đoạn: giai đoạn trước và sau khi hình thành Luật cạnh tranh.
* Giai đoạn trước khi luật cạnh tranh được ban hành
Đặc trưng của giai đoạn này là pháp luật chưa nhìn nhận việc sáp nhập, hợp
nhất, chuyển nhượng vốn góp, mua bán cổ phần và liên doanh thành lập doanh
nghiệp từ góc độ cạnh tranh. Các quy định của pháp luật trong giai đoạn này chỉ
giải quyết vai trò quản lý Nhà nước về doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, và ghi
nhận cho quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp mà chưa đề cập đến nhiệm vụ
quản lý, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, an toàn cho nền kinh tế. Nói cách
khác pháp luật giai đoạn này chỉ quy định nhiều về tổ chức doanh nghiệp, thực hiện
quyền đầu tư, quyền sở hữu trong doanh nghiệp. Các vấn đề trên chưa được giải
quyết bởi pháp luật cạnh tranh. Có thể lý giải tình trạng trên từ nhiều nguyên nhân
khác nhau, song có lẽ từ nhiệm vụ cơ bản của pháp luật kinh tế trong giai đoạn này
là xây dựng các thiết chế cơ bản để hình thành thị trường, nhiều lĩnh vực pháp luật
của thị trường hiện đại chưa được tiếp nhận và xây dựng tại Việt Nam, trong đó có
pháp luật cạnh tranh mà cụ thể là chế định về tập trung kinh tế.
Nền kinh tế của Việt Nam ta trong thời điểm nói trên đang trong quá trình
chuyển đổi và là một nước có nền kinh tế đang phát triển, quy luật tất yếu và đòi hỏi
nội tại của nền kinh tế là quá trình tích tụ kinh tế như là nền tảng cho sự tăng
trưởng. Mặc khác thực tiển cho thấy việc gia tăng sự xuất hiện của các tập đoàn đa

quốc gia tại Việt Nam là hệ quả của quá trình hội nhập ngày một sâu rộng của Việt
Nam vào nền kinh tế thế giới sẽ khiến cho các hoạt động tập trung kinh tế ở quy mô
có khả năng chi phối thị trường xuất hiện trong tương lai ngày càng nhiều. Chính vì
vậy cần phải có biện pháp kiểm soát các hoạt động tập trung kinh tế để tránh tình
trạng hình thành các doanh nghiệp lớn có sức mạnh khống chế thị trường, khung
pháp lý cho phép các cơ quan quản lý nhà nước kiểm soát các hoạt động tập trung
kinh tế là một đòi hỏi cấp thiết từ cả thực tiễn khách quan và chủ quan.
* Giai đoạn sau khi luật cạnh tranh được ban hành năm 2004
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

6

Luật cạnh tranh được Quốc hội Khóa XI kỳ họp lần thứ 6 thông qua ngày 3
tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2005. Ngoài các quy định
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh và tố tụng
cạnh tranh…, Luật cạnh tranh còn quy định về các hình thức tập trung kinh tế, các
biện pháp kiểm soát và nguyên tắc xử lý đối với tập trung kinh tế trên thị trường
Việt Nam. Có thể nói rằng đây là văn bản đầu tiên quy định một cách toàn diện các
vấn đề về cạnh tranh và chính thức đặt các vấn đề về sáp nhập hợp nhất, chuyển
nhượng vốn, cổ phần và liên doanh dưới góc độ của việc bảo vệ thị trường cạnh
tranh.
1.2. Những vấn đề lý luận chung về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
Thuật ngữ “mua bán, sáp nhập doanh nghiệp” thường được gọi tắt là M&A,
trong Luật cạnh tranh gọi chung là hành vi tập trung kinh tế
Đứng ở nhiều góc độ khác nhau thì khái niệm mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
hay tập trung kinh tế sẽ được bình luận khác nhau. Trong kinh tế học và trong khoa
học pháp lý, khái niệm tập trung kinh tế ở Việt Nam được xem xét với ba cách tiếp

cận cơ bản:
Một là, nhìn nhận như là một quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi
của cấu trúc thị trường, tập trung kinh tế trên thị trường được hiểu là quá trình mà
số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua
các hành vi sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của
doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất
1
. Cách nhìn nhận này đã làm rõ
nguyên nhân và hậu quả của tập trung kinh tế đối với cấu trúc thị trường cạnh tranh.
Trên cơ sở đó các nhà hoạch định chính sách có thể phân tích các yếu tố kinh tế để
tìm kiếm bản chất pháp lý của tập trung kinh tế và đề ra những cơ chế điều chỉnh
cho phù hợp.
Hai là, với tư cách là hành vi của các doanh nghiệp, tập trung kinh tế (còn gọi
là tập trung tư bản) được hiểu là tăng thêm tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại
2



1
Lê Viết Thái, chuyên về hành vi tập trung kinh tế, đề tài nghiên cứu về thể chế cạnh tranh trong điều kiện
phát triển thị trường Việt Nam, Viện nghiên cứu thương mại-Bộ thương mại, 2005.
2
Tư bản được hiểu là các giá trị kinh tế trên thị trường được sử dụng để tìm kiếm lại giá trị thặng dư như
vốn, công nghệ trình độ quản lý…
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

7

hoặc một tư bản này thu hút một tư bản khác

3
. Khái niệm này đã không đưa ra các
biểu hiện cụ thể của tập trung kinh tế, nhưng lại cho thấy bản chất và phương thức
của hiện tượng. Theo chủ nghĩa Mác-Lê nin tập trung tư bản là sự tăng thêm quy
mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản có sẵn trong xã hội thành
một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Do cạnh tranh mà dẫn tới sự liên kết tự nguyện hay
sáp nhập các tư bản cá biệt. Và tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát
triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được những
xí nghiệp lớn, sử dụng được công nghệ hiện đại. Bởi lẽ tập trung tư bản và tích tụ là
hai quá trình có mối quan hệ mật thiết và gắn kết chặt chẽ với nhau tạo nên quá
trình tích lũy tư bản. Cả hai quá trình này đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt
nhưng giữa chúng có những điểm khác nhau cơ bản: một là nguồn của tích tụ tư bản
là giá trị thặng dư, do đó tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng
thời làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Còn nguồn của tập trung tư bản là những tư
bản sẵn có trong xã hội dó đó tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá
biệt mà không làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Hai là do nguồn của tích tụ tư
bản là giá trị thặng dư, xét về mặt đó nó phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa tư bản
và lao động, nhà tư bản đã bóc lột sức lao động làm thuê để tăng quy mô của tích tụ
tư bản. Còn nguồn của tập trung tư bản là những tư bản cá biệt sẵn có trong xã hội
do cạnh tranh mà dẫn đến liên kết hay sáp nhập. Tích tụ và tập trung tư bản có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng thêm quy mô và sức mạnh của
tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung gay gắt hơn.
4

Ba là, dưới góc độ pháp luật, Luật Cạnh tranh năm 2004 không quy định thế
nào là tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hành vi được coi là tập trung kinh tế.
Theo đó, khoản 3 Điều 3 khẳng định tập trung kinh tế là hành vi hạn chế cạnh tranh.
Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở
cạnh tranh trên thị trường. Bao gồm các hành vi: Sáp nhập, hợp nhất, mua lại và
liên doanh.

1.2.2. Bản chất của tập trung kinh tế
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hiện tượng tập trung kinh tế bao gồm: tăng
trưởng nội sinh; hiện tượng rút khỏi thị trường của một số doanh nghiệp; hiện tượng
gia nhập thị trường của một số doanh nghiệp; hiện tượng sáp nhập của một số
doanh nghiệp (tăng trưởng ngoại sinh)…Cho dù được nhìn nhận từ nhiều góc độ


3
Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, Tr.870.
4
Giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mac-Lênin, Nxb chính trị quốc gia 2010, tr 250.
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

8

khác nhau và diễn tả bằng những ngôn ngữ pháp lý khác nhau, song các nhà khoa
học đều thống nhất với nhau về bản chất của tập trung kinh tế bằng những nội dung
sau:
Thứ nhất, chủ thể của hành vi mua bán, sáp nhập doanh nghiệp là các doanh
nghiệp hoạt động trên thị trường. Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có
thể là các doanh nghiệp hoạt động trong cùng hoặc không cùng thị trường liên
quan Hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại hay liên doanh chỉ xảy ra khi có nhiều
doanh nghiệp cùng tham gia thực hiện. Có nghĩa là trước khi thực hiện các hành vi
tập trung kinh tế, các doanh nghiệp đã tồn tại và đang hoạt động trên thị trường. Nói
cách khác hành vi mua bán, sáp nhập doanh nghiệp không phải là hành vi đơn
phương của doanh nghiệp. Vì vậy hành vi đầu tư vốn của một cá nhân, của một
doanh ngiệp nào đó có thể tạo ra nhóm kinh doanh nhưng sẽ không là hiện tượng
tập trung kinh tế theo luật cạnh tranh.
Thứ hai, các hiện tượng tập trung kinh tế có thể thấy rằng để tập trung kinh tế

thì đòi hỏi phải có nhiều doanh nghiệp khác nhau tồn tại trên cùng thị trường hoặc
không cùng thị trường. Các doanh nghiệp nói trên đã liên kết khả năng kinh doanh
bằng cách chủ động tích tụ các nguồn lực kinh tế như vốn, lao động, kỹ thuật, năng
lực quản lý, tổ chức kinh doanh… mà chúng đang nắm giữ riêng lẻ để hình thành
một khối thống nhất bằng việc sáp nhập, hợp nhất hoặc phối hợp theo kiểu tập đoàn
theo mô hình liên kết về sở hữu hoặc góp vốn bằng cách mua lại vốn góp của nhau,
liên doanh với nhau. Dấu hiệu này giúp khoa học pháp lý phân biệt tập trung kinh tế
với việc tích tụ tư bản trong kinh tế học. Tích tụ tư bản là tăng thêm tư bản dựa vào
tích lũy giá trị thặng dư, biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản
5
. Có thể thấy
rằng, tích tụ tư bản là quá trình phát triển nội sinh của một doanh nghiệp theo thời
gian bằng kết quả kinh doanh, kết quả làm ăn phát đạt của doanh nghiệp. Một doanh
nghiệp có thể tích tụ tư bản để có được vị trí đáng kể trên thị trường, song để điều
đó xảy ra đòi hỏi một khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó, tập trung kinh tế cũng
có dấu hiệu của sự tích tụ nhưng không từ kết quả kinh doanh mà từ hành vi của
doanh nghiệp.
Thứ ba, Hậu quả của mua bán, sáp nhập doanh nghiệp là việc hình thành các
tập đoàn kinh tế, thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị
thường. Các hình thức sáp nhập, hợp nhất sẽ làm giãm đi số lượng doanh nghiệp
đang hoạt động trên thị trường hình thành nên các tập đoàn kinh tế. Khi hình thành


5
Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, Tr.948.
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

9


các tập đoàn kinh tế và đi vào hoạt động các tập đoàn này sẽ tăng cường đầu tư, mở
rộng quy mô, phạm vi hoạt động, cơ cấu lại kinh doanh đa ngành tập trung vào các
ngành nghề trọng điểm. Tích cực nghiên cứu, triển khai ứng dụng và chuyển giao
khoa học công nghệ mới vào ản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực quản lý, kỹ
thuật, tay nghề của đội ngủ công nhân xây dựng thành các tập đoàn kinh tế mạnh,
có tầm cỡ trong khu vực. Các tập đoàn kinh tế có vai trò tích cực đối với sự phát
triển kinh tế của đất nước, kéo theo các tiến bộ về văn hóa xã hội. Bên cạnh đó khi
các tập đoàn kinh tế lớn mạnh cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế thị
trường khi các doanh nghiệp liên kết lại sẽ làm giảm cạnh tranh gây hạn chế cạnh
tranh trên cùng một lĩnh vực của ngành, khi mà các doanh nghiệp tăng cường liên
kết lại với nhau tập trung kinh tế cao đến một lúc nào đó sẽ hình thành nên các công
ty lớn, các tập đoàn kinh tế có tính độc quyền, thống lĩnh thị trường trong một
ngành, một lĩnh vực từ đây sẽ ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh khi các tập
đoàn kinh tế, các công ty lạm dụng vị trí độc quyền, vị trí thống lĩnh thị trường chèn
ép các đối thủ cạnh tranh khác, các doanh nghiệp nhỏ hơn.
1.2.2. Hình thức mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
Dựa vào vị trí của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế trong các cấp
độ kinh doanh của ngành kinh tế – kỹ thuật, tập trung kinh tế được bao gồm tập
trung theo chiều ngang, tập trung theo chiều dọc hoặc tập trung theo đường chéo
(tập trung hỗn hợp).
* Tập trung kinh tế theo chiều ngang: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc
liên doanh… của các doanh nghiệp trong một thị trường liên quan (sản phẩm và
không gian). Mục tiêu chính của hình thức này là: thực hiện hiệu quả theo quy mô,
thực hiện mục tiêu chiến lược thị trường (khống chế thị trường hoặc tạo rảo cản thị
trường)…
Tập trung kinh tế theo chiều ngang có thể tạo ra những tác động tích cực và
tiêu cực. Theo lý thuyết cạnh tranh thì sự gia tăng tập trung theo chiều ngang sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp hành động giữa các doanh nghiệp và từ đó
dẫn đến hạn chế cạnh tranh theo giá, giảm khả năng sáng tạo, gây nguy cơ thiệt đến
người tiêu dùng. Về nguyên tắc khi số lượng doanh nghiệp hoạt động trên thị

trường càng lớn (hoặc mức độ tập trung kinh tế càng nhỏ) thì nguy cơ để xuất hiện
một thế lực khống chế trên thị trường càng nhỏ. Chính vì vậy khi việc tập trung
kinh tế tạo ra doanh nghiệp có quy lớn vượt qua một mức giới hạn nào đó thì việc
Nhà nước kiểm soát sự tập trung đó, đánh giá tác động của nó đối với thị trường là
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

10

cực kỳ quan trọng, xem khi các doanh nghiệp này tập trung lại với nhau có tác động
tiêu cực đến thị trường không, có hình thành nên doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường, có vị trí độc quyền không để từ đó có thể quyết định cho phép hay không
cho phép các doanh nghiệp này tập trung với nhau.
* Tập trung kinh tế theo chiều dọc: là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại hoặc liên
doanh giữa các doanh nghiệp có quan hệ người mua – người bán với nhau. Mục tiêu
của sự hợp nhất này là thường nhằm làm giảm chi phí giao dịch hoặc thực hiện
những mục tiêu chiến lược thị trường (đảm bảo nguồn cung ứng hoặc nguồn tiêu
thụ, ngăn cản đối thủ cạnh tranh mở rộng thị trường hoặc dựng rào cản gia nhập thị
trường).
* Tập trung kinh tế theo đường chéo (conglomerate): là sự hợp nhất, sáp nhập,
mua lại, liên doanh của các doanh nghiệp không cùng hoạt động trên một thị trường
sản phẩm đồng thời cũng không có mối quan hệ khách hàng với nhau. Mục tiêu của
việc hợp nhất này thường là phân bổ rủi ro vào những thị trường khác nhau hoặc từ
những lý do chiến lược thị trường của các doanh nghiệp khi tham gia tập trung kinh
tế. Lợi thế quy mô thực sự của loại hình hợp nhất này chỉ có thể xảy ra ở những lĩnh
vực như nghiên cứu và phát triển, tổ chức và quản lý.
Từ phân tích ở trên có thể hiểu, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam điều
chỉnh các hành vi mua bán, sáp nhập doanh nghiệp theo chiều ngang.
1.3. Kiểm soát hành vi tập trung kinh tế bằng cơ chế pháp luật
1.3.1. Khái niệm về kiểm soát tập trung kinh tế

Ngày nay kiểm soát tập trung kinh tế đã được coi là một trong những nhiệm vụ
cơ bản của pháp luật cạnh tranh hiện đại. Tất cả các quốc gia đang phát triển về thị
trường đều đặt ra cơ chế phối hợp giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật về doanh
nghiệp để kiểm soát việc tập trung kinh tế. Theo đó, pháp luật về doanh nghiệp sẽ
thừa nhận quyền được tập trung kinh tế của doanh nhân, quy định về thủ tục pháp lý
để họ thực hiện các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại và góp vốn để bảo đảm
trật tự pháp lý trong kinh doanh. Pháp luật cạnh tranh kiểm soát các hiện tượng tập
trung kinh tế có khả năng đe dọa đến trật tự cạnh tranh của thị trường bằng hai cơ
chế, đó là: (1) Cấm đoán các trường hợp tập trung kinh tế làm tổn hại đến tình trạng
cạnh tranh; (2) Kiểm soát các trường hợp có khả năng tổn hại đến cạnh tranh. Pháp
luật cạnh tranh của Việt Nam cũng vậy theo quy định tại mục 3 chương II Luật cạnh
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

11

tranh năm 2004, có thể thấy rằng, các nhà làm luật của Việt Nam đã chia các trường
hợp tập trung kinh tế thành 3 nhóm để kiểm soát khác nhau:
- Nhóm tập trung kinh tế bị cấm.
- Nhóm tập trung kinh tế cần phải kiểm soát.
- Nhóm tập trung kinh tế được tự do thực hiện.
Qua đó ta có thể định nghĩa về kiểm soát tập trung kinh tế như sau: là hoạt
động, sự quản lý của cơ quan nhà nước, theo quy định của luật cho phép hay cấm
các hành vi tập trung kinh tế nhằm kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế trên thị
trường theo khuôn khổ pháp luật, giúp cho thị trường cạnh tranh lành mạnh, công
bằng, các doanh nghiệp yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, đưa nền kinh tế đất
nước ngày càng phát triển.
1.3.2. Vai trò của kiểm soát hành vi tập trung kinh tế
Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp có khả năng gây ảnh hưởng tiêu cực đến cấu
trúc thị trường và suy giảm tính cạnh tranh trên thị trường. Bởi lẽ, khi các doanh

nghiệp thực hiện tập trung kinh tế thì số lượng doanh nghiệp trên thị trường sẽ thay
đổi, kéo theo sự tương quan cạnh tranh trên thị trường cũng bị thay đổi theo. Đồng
thời, trên thị trường có khả năng sẽ hình thành nên các doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh hoặc vị trí độc quyền, từ đó làm triệt tiêu cạnh tranh hoặc hình thành nên các
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Khi
đó các doanh nghiệp có thể cùng nhau phối hợp về giá hoặc thỏa thuận về sản lượng
đầu ra gây hạn chế cạnh tranh gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Trong trường
hợp này, các hành vi tập trung kinh tế này cần phải được kiểm soát để bảo vệ trật tự
cạnh tranh.
Qua đó ta thấy kiểm soát các hành vi mua bán, sáp nhập doanh nghiệp có vai
trò rất quan trọng. Vì nếu không kiểm soát các hành vi này để cho các hoạt động
diễn ra một cách từ do sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế,
hình thành nên các tập đoàn kinh tế độc quyền, có vị trí thống lĩnh thị trường từ đó
nhiều tác động tiêu cực của hành vi tập trung kinh tế sẽ diễn ra mạnh hơn tạo môi
trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp, môi trường cạnh tranh
không công bằng khi đó kẻ mạnh hơn sẽ chèn ép kẻ yếu hơn. Nhưng nếu ta kiểm
soát quản lý được nó đưa các hành vi này vào khuôn khổ của pháp luật kiểm soát
được nó, các hành vi nào bị cấm, các hành vi nào cần kiểm soát các hành vi nào
được tự do thực hiện từ đó nó sẽ có tác động tích cực hơn, giúp cho môi trường
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

12

cạnh tranh trở nên công bằng, môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp cho nền kinh
tế phát triển bền vững, các doanh nghiệp tham gia kinh doanh hạn chế thực hiện các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh.
Khi ta kiểm soát tốt các hành vi tập trung kinh tế thì ngoài việc tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh, nền kinh tế thị trường của ta sẽ thu hút nhiều doanh nghiệp
trong nước và ngoài nước tăng cường đầu tư vào, phát triển sản xuất, đầu tư khoa

học công nghệ - kỹ thuật, trang bị máy móc thiết bị hiện đại, giá cả hàng hóa giãm
xuống có lợi cho người tiêu dùng. Chính vì môi trường cạnh tranh lành mạnh mà
khi các doanh nghiệp tăng cường đầu tư sẽ yên tâm hơn. Bên cạnh đó khi ta kiểm
soát tốt các hành vi tập trung kinh tế nó sẽ mang lại các tác động tích cực đối với
nền kinh tế vì tập trung kinh tế giúp tạo khả năng hợp tác sâu sắc trong kinh doanh,
sẽ giúp cho doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tổng hợp và có thể thực hiện chiến
lược mở rộng kinh doanh, giảm thiểu rủi ro kinh doanh. Ngoài ra, tập trung kinh tế
có thể làm tăng hiệu quả kinh tế theo quy mô và phạm vi, làm giảm chi phí, nâng
cao chất lượng và thúc đẩy sản lượng. Dưới góc độ lợi ích của doanh nghiệp, tập
trung kinh tế giúp doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, nâng cao trình độ
quản lý, chiến lược chiêu thị để mở rộng hoạt động kinh doanh mà không phải tốn
quá nhiều chi phí để xây dựng thêm cơ sở hạ tầng. Trong một số trường hợp, thông
qua việc thực hiện tập trung kinh tế, doanh nghiệp có thể phát triển được hệ mạng
lưới phân phối, kỹ năng quản lý và động lực bán hàng một cách dễ dàng và hiệu quả
hơn.
Qua đó ta thấy vai trò của kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế là rất lớn, nó
có ý nghĩa đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước, nếu ta kiểm soát tốt nó sẽ tạo
môi trường cạnh tranh thuận lợi, các doanh nghiệp trong và ngoài nước yên tâm đầu
tư phát triển sản xuất. Ngược lại nếu các hành vi tập trung kinh tế không được kiểm
soát nó sẽ mang lại những tác động tiêu cực cho nền kinh tế thị trường cụ thể như
các hành vi lợi dụng vị trí thống lĩnh thị trường, độc quyền gây lũng đoạn nền kinh
tế ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.
Như vậy, ngoài việc tạo điều kiện thuận lợi cho những trường hợp tập trung
kinh tế có tác động tích cực đến nền kinh tế thì Nhà nước cần có những biện pháp
hợp lý để kiểm soát những vụ tập trung kinh tế gây tổn hại cho chính sách cạnh
tranh và nền kinh tế. Biện pháp pháp lý, cụ thể là các chính sách và quy định pháp
luật, là một trong những biện pháp đầu tiên mà Nhà nước có thể sử dụng để kiểm
soát hoạt động tập trung kinh tế.
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam


13

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP DOANH
NGHIỆP, THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM
2.1 Quy định của Luật cạnh trạnh về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
2.1.1 Các quy định về hình thức mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
2.1.1.1. Sáp nhập doanh nghiệp
Tại khoản 1 điều 17 Luật cạnh tranh quy định “Sáp nhập doanh nghiệp là việc
một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp bị sáp nhập”.
Ví dụ: Doanh nghiệp A + Doanh nghiệp B  Doanh nghiệp B, sau khi sáp
nhập về mặt pháp lý thì sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập (doanh nghiệp A)
bị chấm dứt, hoạt động của doanh nghiệp A bị chấm dứt, còn doanh nghiệp nhận
sáp nhập (doanh nghiệp B) vẫn tồn tại với quy mô được mở rộng, hoạt động được
mở rộng trên nhiều mặt do được nhận sáp nhập từ doanh nghiệp A.
Theo quy định của luật cạnh tranh chủ thể tham gia sáp nhập là các doanh
nghiệp không có quy định cụ thể doanh nghiệp nào được tham gia doanh nghiệp
nào không được tham gia, nếu theo đúng quy định không thuộc các trường hợp bị
cấm hoặc phải thông báo đối với các trường hợp cần kiểm soát thì được thực hiện
sáp nhập. Nội dung của việc sáp nhập là doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ chuyển toàn
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang doanh nghiệp nhận
sáp nhận và kết quả doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ lớn mạnh hơn còn doanh nghiệp
bị sáp nhập sẽ chấm dứt hoạt động.
2.1.1.2. Hợp nhất doanh nghiệp
Theo quy định luật cạnh tranh thì “Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc
nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của

các doanh nghiệp bị hợp nhất”.
6

Ví dụ: Doanh nghiệp A + Doanh nghiệp B  Doanh nghiệp X, trong đó doanh
nghiệp A, doanh nghiệp B là các doanh nghiệp đã tham gia hợp nhất với nhau. Sau
khi tiến hành hợp nhất hai doanh nghiệp này sẽ chấm dứt hoạt động nghĩa là sẽ
không còn doanh nghiệp A hay doanh nghiệp B nữa chỉ còn tồn tại doanh nghiệp X,
doanh nghiệp X là doanh nghiệp mới được hình thành, sẽ nhận tất cả tài sản, quyền
và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp A, B…Tương tự như hành vi sáp nhập


6
Khoản 2 Điều 17 Luật cạnh tranh.
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

14

doanh nghiệp thì hành vi hợp nhất doanh nghiệp cũng được nêu lên trong Luật cạnh
tranh, nhưng chủ thể của hành vi này cũng chỉ là doanh nghiệp Luật cạnh tranh
chưa quy định rõ ràng đối với chủ thể khi tham gia hành vi sáp nhập doanh nghiệp
là loại doanh nghiệp nào và quy định cụ thể đó được nêu ở trong Luật doanh nghiệp
2005 vì đây là luật chuyên ngành điều chỉnh về các hành vi trên.
Qua phân tích ở trên ta thấy hình thức hợp nhất và sáp nhập doanh nghiệp có
nhiều điểm tương đồng với nhau như: các doanh nghiệp điều chuyển hết tài sản,
quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình khi tham gia vào hai hình thức này và chấm
dứt sự tồn tại của mình. Tuy nhiên giữa chúng vẫn tồn tại sự khác nhau cơ bản đó
là: với hành vi hợp nhất doanh nghiệp thì hai hoặc nhiều doanh nghiệp thỏa thuận
với nhau về việc chia tài sản, thị phần, thương hiệu,… để hình thành nên một doanh
nghiệp hoàn toàn mới với tên gọi mới và chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp

tham gia hợp nhất; đối với hành vi sáp nhập doanh nghiệp sau khi sáp nhập thì
doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ chấm dứt sự tồn tại, riêng doanh nghiệp nhận sáp nhập
vần tồn tại với quy mô được mở rộng ra.
2.1.1.3. Mua lại doanh nghiệp
Theo khoản 3 Điều 17 Luật cạnh tranh quy định: “Mua lại doanh nghiệp là
việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác
đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua
lại”.
Theo đó, quyền kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh
nghiệp bị mua lại theo pháp luật cạnh tranh là trường hợp một doanh nghiệp (doanh
nghiệp kiểm soát) giành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp khác (doanh
nghiệp bị kiểm soát) chiếm được trên 50% quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ
đông, Hội đồng quản trị hoặc ở mức theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của
doanh nghiệp bị kiểm soát đủ để doanh nghiệp kiểm soát chi phối các chính sách tài
chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm soát nhằm thu được lợi ích kinh tế từ
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị kiểm soát. Trong trường hợp này doanh
nghiệp kiểm soát là doanh nghiệp đi mua và doanh nghiệp bị kiểm soát là doanh
nghiệp bị mua. Như vậy, nếu như một doanh nghiệp mua tài sản hoặc cổ phẩn của
doanh nghiệp khác, nhưng không đủ kiểm soát hoặc chi phối toàn bộ hoặc một
ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại thì không được xem là tập trung kinh tế
theo pháp luật cạnh tranh. Ngoài ra, một số trường hợp mua lại doanh nghiệp mà
Luật cạnh tranh không xem là tập trung kinh tế như: doanh nghiệp bảo hiểm, tổ
chức tín dụng mua lại doanh nghiệp khác nhằm mục đích bán lại trong thời hạn dài
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

15

nhất là 1 năm thì không bị coi là tập trung kinh tế nếu doanh nghiệp bị mua lại, hoạc
thực hiện quyền này chỉ trong khuôn khổ bắt buộc để đạt được mục đích bán lại.

Mua lại doanh nghiệp gồm hai trường hợp: mua lại toàn bộ và mua lại một
phần doanh nghiệp. Trường hợp mua lại toàn bộ doanh nghiệp thì người mua trở
thành chủ sở hữu doanh nghiệp cũng như tài sản doanh nghiệp, được hưởng các
quyền và nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp đó; trường hợp mua lại
một phần doanh nghiệp thì không thay đổi chủ sở hữu nhưng được thực hiện dưới
hình thức mua tài sản, cổ phần của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối
hoạt động của doanh nghiệp bị mua đó.
2.1.1.4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp
Tại Khoản 4 điều 17 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định về hành vị liên
doanh giữa các doanh nghiệp như sau: “Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc
hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới”.
Ví dụ: Doanh nghiệp A + Doanh nghiệp B  Doanh nghiệp A, B, C trong đó
doanh nghiệp A, doanh nghiệp B là các doanh nghiệp đã tham gia hoạt động liên
doanh, doanh nghiệp C là doanh nghiệp mới được hình thành. Sau khi tiến hành liên
doanh thì hai doanh nghiệp này vẫn tồn tại độc lập với nhau, còn doanh nghiệp C là
doanh nghiệp mới thuộc sở hữu của A, B.
Liên doanh là dạng liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua việc cùng tham
gia thành lập một doanh nghiệp mới. Chủ thể tham gia hoạt động này là các doanh
nghiệp, nội dung của hoạt động này là các doanh nghiệp cùng nhau góp một phần
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh
nghiệp mới, hệ quả sau khi tiến hành liên doanh các doanh nghiệp tham gia vẫn tồn
tại và tồn tại độc lập với nhau, riêng doanh nghiệp mới hình thành là doanh nghiệp
chung.
Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp và hợp nhất doanh nghiệp cũng hằm
mục đích tạo ra chủ thể pháp lý mới trên thị trường có sức mạnh kinh tế lớn hơn,
song sự khác biệt cơ bản giữa hai hành vi được thể hiện ở chỗ: đối với hành vi hợp
nhất hợp nhất doanh nghiệp, sau khi chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi
ích hợp để hình thành doanh nghiệp mới thì sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp
nhất chấm đứt về mặt pháp lý. Còn đối với hành vi liên doanh, các doanh nghiệp chỉ

góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của hình thành một
doanh nghiệp mới, song các doanh nghiệp góp vốn liên doanh vẫn tồn tại địa vị
pháp lý của mình.
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

16

2.1.2. Kiểm soát mua bán sáp nhập doanh nghiệp (tập trung kinh tế) theo
Luật cạnh tranh
Theo quy định tại Mục 3 Chương II Luật Cạnh tranh năm 2004, ngoài việc quy
định về tập trung kinh tế và các hành vi tập trung kinh tế thì tại đây còn quy định về
các nhóm tập trung kinh tế được tự do thực hiện, nhóm tập trung kinh tế cần kiểm
soát và nhóm tập trung kinh tế bị cấm. Các nhóm tập trung kinh tế được xác định
thông qua thị phần kết hợp như sau:
Thị phần kết hợp
Kiểm soát tập trung kinh tế
>50%
Tập trung kinh tế bị cấm
Từ 30 – 50%
Tập trung kinh tế cần kiểm soát
< 30%
Tập trung kinh tế được tự do thực hiện


2.1.2.1. Nhóm hành vi được tự do thực hiện
Theo quy định của Luật cạnh tranh và Nghị định 116/2005/NĐ-CP, các doanh
nghiệp có quyền tự do thực hiện việc tập trung kinh tế trong những trương hợp sau
đây:
- Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị phần

thấp hơn 30% trên thị trường liên quan. Lúc này việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại
hay liên doanh giữa các doanh nghiệp chỉ đơn giản là các biện pháp cơ cấu lại kinh
doanh hoặc đầu tư vốn bình thường nên chưa có tiềm ẩn nguy cơ đe dọa đến trật tự
cạnh tranh trên thị trường. Luật cạnh tranh đã sử dụng thị phần làm cơ sở để phân
loại nhóm tập trung kinh tế và làm tiêu chí để xác định khả năng gây tác hại của các
trường hợp tập trung kinh tế.
- Doanh nghiệp sau khi tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và
nhỏ thì theo quy định của pháp luật không tín đến thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp tham gia tập trung kinh tế đạt được mức bao nhiêu trên thị trường liên quan
vì đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiến hành tập trung kinh tế sẽ không ảnh
hưởng lớn đến môi trường cạnh tranh. Quy định trên nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp vừa và nhỏ nâng cao năng lực tài chính phát triển doanh ngiệp thông qua tập
trung kinh tế có hiệu quả.
Vậy thế nào là doanh nghiệp nhỏ và vừa, tại Điều 3 nghị định số 56/2009/NĐ-
CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đã định nghĩa doanh nghiệp nhỏ
và vừa như sau: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh
doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy
Bảng 1 : Các nhóm tập trung kinh tế theo thị phần kết
hợp

Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

17

mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong
bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng
nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
Quy





Khu
vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao
động
I. Nông,
lâm nghiệp
và thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến

100 tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
II. Công
nghiệp và
xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến
100 tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
III. Thương
mại và dịch
vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 50
người

từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng
từ trên 50
người đến
100 người

Bảng 2: Xác định doanh nghiệp nhỏ vừa dựa vào tổng nguồn vốn và số lao động

Trong thời kỳ hội nhập kinh tế hiện nay Việt Nam đang dần khẳng định mình
trên nền kinh tế thế giới, sự phát triển không ngừng của nền kinh tế luôn dẫn đến sự
cạnh tranh khốc liệt trên thương trường. Và biện pháp giúp các doanh nghiệp đứng
vững và nâng cao sức cạnh tranh là kết hợp lại với nhau để nâng cao năng lực cạnh
tranh nâng cao năng lực về nguồn tài chính, khi các doanh nghiệp này liên kết lại
nếu không có sự kiểm soát của pháp luật sẽ hình thành nên các công ty độc quyền,
các tập đoàn kinh tế lớn mạnh gây lũng đoạn nền kinh tế. Quy định của pháp luật về
tập trung kinh tế cho phép các doanh nghiệp tự do tham gia tập trung kinh tế có thị
phần thấp hơn 30% trên thị trường liên quan hoặc doanh nghiệp sau khi tập trung
kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngoài ra các hành vi tập trung kinh
tế khác phải thông báo và được sự chấp thuận của cơ quan quản lý cạnh tranh. Qua
đó ta thấy quy định của pháp luật cũng rất hợp lý vì nếu pháp luật không quy định
cụ thể như vậy sẽ làm cho các doanh nghiệp trong nước mất đi tính cạnh tranh công
bằng cũng như các doanh nghiệp lớn chèn ép các doanh nghiệp nhỏ gây tác động
tiêu cực đến nền kinh tế. Mặc dù hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

18

hội nhập các doanh nghiệp trong nước phải đương đầu với các doanh nghiệp hùng

mạnh nước ngoài, các tập đoàn kinh tế lớn, nhưng không vì vậy mà pháp luật mở
rộng cho các doanh nghiệp tự do tập trung kinh tế. Mức quy định sau khi tập trung
kinh tế có thị phần thấp hơn 30% thị trường liên quan cũng là mức quy định trung
bình vừa khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ cải thiện quy mô sản xuất, mở rộng
năng lực kinh doanh vừa cũng kiểm soát các doanh nghiệp lớn tiến hành tập trung
kinh tế hình thành nên các công ty độc quyền, các tập đoàn kinh tế hùng mạnh gây
hạn chế cạnh tranh, lũng đoạn nền kinh tế.
2.1.2.2. Nhóm hành vi cần kiểm soát
Tại điều 20 Luật cạnh tranh quy định: “Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có
thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp
của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi
tiến hành tập trung kinh tế”. Trường hợp thị phần kết hợp của các doanh nghiệp
tham gia tập trung kinh tế thấp hơn 30% trên thị trường liên quan hoặc trường hợp
doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ
và vừa theo quy định của pháp luật thì không phải thông báo.
Như vậy trong trường hợp nêu trên các doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện hành
vi tập trung kinh tế sau khi đã hoàn tất thủ tục thông báo và nhận được trả lời của cơ
quan quản lý cạnh tranh theo quy định của pháp luật.
Qua trên ta thấy pháp luật đã quy định rõ hành vi nào được thực hiện tập trung
kinh tế tự do hành vi nào phải thông báo và được sự cho phép của cơ quan quản lý
cạnh tranh, đó là cách quản lý của pháp luật nước ta, mức tập trung kinh tế có thị
phần chiếm từ 30% đến 50% đây là các doanh nghiệp mà nếu sau khi tiến hành tập
trung kinh tế nó đã có sự tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến sự cạnh tranh gây hạn chế
cạnh tranh của các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường vì vậy pháp luật
đã quy định cần phải thông báo có sự cho phép của cơ quan quản lý cạnh tranh, sự
cho phép này đã được các cơ quản quản lý cạnh tranh phân tích đánh giá tình hình
và sự ảnh hưởng của doanh nghiệp sau khi tập trung kinh tế nếu các hành vi tập
trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan sẽ có
nguy cơ tiềm ẩn sự đe dọa đến thị trường cạnh tranh, vì vậy các hành vi tập trung
kinh tế nói trên cần phải được kiểm soát, sự kiểm soát được thể hiện như sau: phải

có sự thông báo đến cơ quan quản lý cạnh tranh và nhận được trả lời của cơ quan
quản lý cạnh tranh
7



7
Phụ lục 1: Hồ sơ thông báo tập trung kinh tế
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

19

2.1.2.3. Nhóm hành vi bị cấm
Tại điều 18 Luật cạnh tranh quy định trường hợp tập trung kinh tế bị cấm như
sau: Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập
trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp quy định tại
Điều 19 của Luật này hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung
kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.
Điều luật này đã quy định các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm nhằm tạo
khung pháp lý cho các doanh nghiệp thực hiện hành vi tập trung kinh tế một cách
hợp pháp, cũng đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan có thẩm quyền xác
định hành vi tập trung kinh tế trái pháp luật và là cơ sở xử lý vụ việc tập trung kinh
tế theo luật định
8
. Luật cạnh tranh sử dụng tiêu chí thị phần làm cơ sở phân loại
nhóm tập trung kinh tế và là tiêu chí duy nhất để xác định cách thức xử lý. Những
trường hợp tập trung kinh tế mà thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia
chiếm trên 50% trên thị trường liên quan sẽ làm hạn chế cạnh tranh. Theo đó việc
tập trung kinh tế đã hình thành một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nắm giữ

đa số thị phần trên thị trường liên quan và làm cho các doanh nghiệp còn lại chỉ là
số ít trên thị trường. Điều này cho thấy sự thay đổi cơ bản, đột ngột trong tương
quan cạnh tranh và cấu trúc cạnh tranh trên thị trường. Nhà nước quy định việc cấm
các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế khi thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp này chiếm lớn hơn 50% trên thị trường liên quan là hợp lý. Đối với nền kinh
tế nước ta việc thị phần của một doanh nghiệp chiếm trên 50% thị trường liên quan
đã là một doanh nghiệp lớn có khả năng khống chế thị trường. Vì vậy cần quy định
cấm các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế khi thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp này chiếm trên 50% trên thị trường liên quan nhằm mục đích ngăn chặn các
hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại hay liên doanh.
2.1.2.4. Các trường hợp được miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế bị
cấm và thủ tục miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế
2.2.4.1. Các trường hợp miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế bị cấm
Điều 18 của Luật cạnh tranh quy định về trường hợp tập trung kinh tế bị cấm
nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên
50% thị trường liên quan. Về nguyên tắc các trường hợp này bị cấm tuyệt đối, song
pháp luật luôn cân nhắc đến tính hiệu quả của hành vi bằng cách dành ra những
trường hợp ngoại lệ để cho hưởng miễn trừ. Các trường hợp được miễn trừ được
quy định tại Điều 19 của Luật cạnh tranh như sau:


8
Ts. Lê Hoàng Oanh, Bình luận khoa học luật Cạnh tranh, NXB Chính trị quốc gia, 2006, tr 85.
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

20

Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể
hoặc lâm vào tình trạng phá sản. Theo đó, doanh nghiệp đang trong nguy cơ bị giải

thể là doanh nghiệp thuộc các trường hợp giải thể theo quy định của pháp luật hoặc
điều lệ của doanh nghiệp những chưa tiến hành thủ tục giải thể hoặc đang tiến hành
giải thể nhưng chưa có quyết định giải thể của cơ quan có thẩm quyền và doanh
nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản là việc doanh nghiệp không thể thanh toán
được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Như vậy, trong trường hợp này
doanh nghiệp chỉ đang gặp khó khăn về tài chính chứ không đồng nghĩa với việc
doanh nghiệp chấm dứt hoạt động. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho doanh
nghiệp có nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản được khôi phục lại
phát triển thông qua hình thức tập trung kinh tế, góp phần cơ cấu lại doanh nghiệp,
đưa doanh nghiệp ra khỏi tình trạng khó khăn. Miễn trừ tập trung kinh tế trong
trướng hợp này không chỉ phục hồi, hỗ trợ doanh nghiệp mà còn bảo vệ người tiêu
dùng, lợi ích kinh tế.
Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát
triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ. Nền kinh tế Việt Nam đang trong
quá trình hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta phải đương đầu với sự cạnh tranh gay
gắt từ phía các doanh nghiệp nước ngoài. Việc các doanh nghiệp liên kết lại với
nhau để tăng sức cạnh tranh, phát triển năng lực sản xuất, năng lực xuất khẩu là vô
cùng cần thiết. Chính vì vậy pháp luật quy định đối miễn trừ với các trường hợp tập
trung kinh tế bị cấm có tác dụng mở rộng xuất khẩu, hoặc góp phần thúc đẩy kinh tế
xã hội phát triển, tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ là phù hợp với đòi hỏi thực
tiễn hiện nay.
Qua các quy định trên ta thấy vì sao lại có các quy định miễn trừ đối với các
hành vi tập trung kinh tế bị cấm. Việc quy định các hành vi tập trung kinh tế bị cấm
có thể được xét miễn trừ với mục đích hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam trong quá trình chuyển đổi kinh tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc
hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc
tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
2.2 Thực tiễn mua bán, sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập
2.2.1. Tình hình mua bán, sáp nhập doanh nghiệp hiện nay

Đối với hoạt động tập trung kinh tế của các tập doàn, doanh nghiệp nhà nước
thì tính đến năm 2012 đã có 12 tập đoàn kinh tế được thí điểm thành lập, trong đó
có 11 tập đoàn do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập. Các tập đoàn thành
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

21

lập chủ yếu ở các lĩnh vực có tính chiến lược, phát triển kinh tế cao như: Dầu khí,
điện lực, công nghiệp than và khoảng sản, dệt may, công nghiệp đóng tàu, hoạt
động sôi nổi là trong lĩnh vực ngân hàng: NHTM Cổ phần Nông thôn Tây Đô (TP.
Cần Thơ) sáp nhập vào NHTM Cổ phần Phương Đông (TP. Hồ Chí Minh), NHTM
Cổ phần Phương Nam sáp nhập với NHTM Cổ Phần Châu Phú (An Giang), NHTM
Cổ phần Đông Á mua lại NHTM Cổ phần Tứ Giác Long Xuyên, NHTM Cổ phần
Thương Tín sáp nhập với NHTM cổ phần Thạnh Thắng (TP. Cần Thơ), NHTM Cổ
phần Nông thôn Tân Hiệp (Kiên Giang) sáp nhập với NHTM Cổ phần Đông Á (TP.
Hồ Chí Minh)
9
… Bên cạnh đó các doanh nghiệp nhà nước cũng thực hiện sáp nhập
để hoạt động có hiệu quả hơn như sáp nhập EVN Telecom và Viettel, chuyển giao
vốn Jetstar Pacific sang Vietnam Airlines quản lý, sáp nhập 3 Tổng công ty dịch vụ
cảng hàng không tại ba miền quản lý.
10
Đây cũng là những trường hợp miễn trừ tập
trung kinh tế bị cấm (thị phần kết hợp trên 50%) được Thủ tướng Chính phủ quyết
định.
Theo báo cáo Tập trung kinh tế Việt Nam năm 2012 thì giá trị giao dịch
M&A
11
tại Việt Nam có xu hướng tăng mạnh trong những năm gần đây. Theo đó,

năm 2009 có 295 giao dịch với tổng giá trị 1,14 tỷ USD, năm 2010 có 245 giao dịch
với tổng giá trị là 1,75 USB và trong năm 2011 có 266 giao dịch đạt kỷ lục là 6,26
tỷ USD, chỉ trong quý 1 năm 2012 đã có trên 60 giao dịch với giá trị gần 2 tỷ USD.
Trong 5 năm gần đây thì tăng trưởng của hoạt động M&A đạt mức bình quân
là trên 30%. Mặc dù kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nhưng các giao dịch M&A vẫn
diễn ra sôi nổi. Hiện các ngành công nghiệp, dịch vụ tài chính, hàng tiêu dùng,
nguyên vật liệu… là những ngành hàng có giao dịch M&A nhiều trong năm qua và
6 tháng đầu năm 2013. Trong các giao dịch thì có khoảng 65% giao dịch liên quan
đến nhà đầu tư ở nước ngoài, số lượng nhà đầu tư, dẫn đầu là các nhà đầu tư Nhật
Bản, tiếp đến là Singapore, Mỹ. Tính theo giá trị, nhà đầu tư Nhật Bản dẫn đầu, tiếp
đến là Thái Lan, Indonesia. Cuối năm 2013, hoạt động mua bán - sáp nhập (M&A)
tại Việt Nam sẽ sôi động hơn rất nhiều và Việt Nam đang trở thành điểm nóng, thu
hút sự quan của các nhà đầu tư nước ngoài trong các thương vụ M&A sắp tới, đặc
biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản, ASEAN. Đây là nhận định của các chuyên gia quốc


9
Đặng Thị Quỳnh Anh, Xu hướng mua bán và sáp nhập Ngân hàng ở Việt Nam, Tạp chí Công nghệ Ngân
hàng, 2008, Số 33, Tháng 12/2008, Tr.27.
10
Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Thành lập tổng công ty hàng không Việt Nam,
/>d=119&companyId=1409 [truy cập ngày 20/02/2015].
11
M&A: (là từ viết tắt của cụm từ tiếng Anh mergers and acquisitions có nghĩa là mua bán và sáp nhập) được
hiểu là việc mua bán và sáp nhập các doanh nghiệp trên thị trường.
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

22


tế đưa ra tại Diễn đàn thường niên về M&A Việt Nam 2013, tổ chức ngày 8/8/2013
tại thành phố Hồ Chí Minh.



















Biểu đồ:
12
Số lượng và giá trị tập trung kinh kế M&A từ năm 2003 – Quý I/2012
2.2.2. Những tồn tại và hướng giải quyết
* Những tồn tại về mặt pháp lý
Thứ nhất, Luật cạnh tranh chưa đề cập đến việc kiểm soát đối với tập trung
kinh tế theo chiều dọc, tập trung kinh tế chéo, đó là việc tập trung kinh tế giữa hai
doanh nghiệp không cùng hoạt động trên thị trường liên quan. Dạng tập trung kinh
tế này có thể xảy ra ở tương lai cùng với sự đa dạng các doanh nghiệp trên thị

trường và có thể làm hạn chế cạnh tranh nhất định hoặc làm tăng sự thỏa thuận giữa
các doanh nghiệp sau khi tiến hành tập trung kinh tế.
Thứ hai, các quy định mang tính khái quát tại Mục 3 Chương II Luật cạnh
tranh và Mục 5 Chương II Nghị định 116/2005/NĐ – CP vẫn chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể, chi tiết và Luật cạnh trạnh chưa có những quy định về việc trao
quyền cho cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xây dựng nội dung thẩm tra trong
thủ tục thông báo, thủ tục miễn trừ các trường hợp tập trung kinh tế và quy chế về


12
Nguồn: Báo cáo tập trung kinh tế năm 2012 của Cục quản lý cạnh tranh.
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

23

kiểm soát tập trung kinh tế. Khung pháp lý chưa này hoàn thiện nên doanh nghiệp
không thể nhận biết được phạm vi của các quyền liên quan đến hoạt động sáp nhập,
mua lại, hợp nhất,… mà doanh nghiệp muốn thực hiện.
Thứ ba, hệ thống pháp luật liên quan đến tập trung kinh tế bao gồm nhiều quy
định thuộc nhiều chế định pháp luật khác nhau như pháp luật về doanh nghiệp, pháp
luật về đầu tư, pháp luật về chứng khoán,… nhưng vẫn chưa có khung pháp lý quy
định về cơ chế phối hợp giữa cơ quan thực hiện kiểm soát tập trung kinh tế và các
cơ quan nhà nước khác cơ liên quan trong đăng ký kinh doanh, thủ tục đầu tư,…
nên việc thực hiện khó khăn trên thực tế.
Thứ tư, chưa có khái niệm thống nhất hoặc những văn bản hướng dẫn cụ thể
về những hành vi tập trung kinh tế, nhất là về hành vi mua lại doanh nghiệp thuộc
các lĩnh vực pháp luật có liên quan như Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp,… Bên
cạnh đó, pháp luật về đầu tư chỉ dẫn chiếu đến việc áp dụng Luật cạnh tranh mà
chưa có quy định phối hợp thực hiện cụ thể, hợp lý. Thiết nghĩ cần có những quy

định sửa đổi, bổ sung cho hoàn chỉnh, phù hợp, thống nhất các quy định với nhau.
* Những tồn tại về thực tiễn áp dụng
Bên cạnh những thực trạng còn tồn tại trong quy định của hệ thống pháp luật
thì thực tiễn áp dụng vẫn còn những khó khăn nhất định trong hoạt động kiểm soát
hành vi tập trung kinh tế cần được hoàn thiện như sau:
Thứ nhất, thực tế cho thấy dù số lượng giao dịch tập trung kinh tế là khá lớn
và tăng mạnh trong các năm vừa qua, quy mô của nhiều giao dịch cung không nhỏ,
nhưng số lượng các giao dịch thông báo đến Cục quản lý cạnh tranh còn thấp, một
phần là do các doanh nghiệp đã thực hiện việc tập trung kinh tế trên các thị trường
có thị phần kết hợp không cao (dưới kiếm soát 30%), nhưng quy định về nghĩa vụ
về thông tin chính xác về thị phần của các bên tham gia tập trung kinh tế là khó
khăn cho các doanh nghiệp hiện nay. Bởi vì, doanh nghiệp chỉ có thể biết và chịu
trách nhiệm về doanh số của mình mà không có nghĩa vụ nắm doanh số của các
doanh nghiệp khác, yêu cầu doanh nghiệp tìm hiểu thông tin liên quan đến thị
trường và thị phần doanh nghiệp khác gây khó khăn cho các doanh nghiệp muốn
thực hiện thủ tục thông báo hoặc tham vấn ý kiến Cục quản lý cạnh tranh.
Thứ hai, hạn chế khi thực hiện đánh giá tập trung kinh tế dựa trên tiêu chí thị
phần. Thủ tục thông báo chỉ xác định lại về thị phần kết hợp của các doanh nghiệp
tham gia tập trung kinh tế mà chưa là quá trình đánh giá tác động của tập trung kinh
tế. Cho thấy việc kiểm soát tập trung kinh tế chưa thực hiện hiệu quả, bởi vì thị
trường luôn vân động không ngừng trong các hoạt động mua lại, sáp nhập doanh
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

24

nghiệp,…thủ tục thông báo được tiến hành trước khi tập trung kinh tế nên hậu quả
cạnh tranh có thể chưa xảy ra.
Thứ ba, khó khăn của các cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc thu thập các
thông tin, dữ liệu. Hiện nay ngoài các cơ quan quản lý cạnh tranh có chức năng

kiểm soát các hoạt động tập trung kinh tế thì các cơ quan quản lý chuyên ngành
khác cũng có chức năng kiểm soát việc mua lại, sáp nhập,…như Bộ Kế hoạch và
đầu tư, Sở kế hoạch và đầu tư, Ủy ban chứng khoán nhà nước, Ngân hàng nhà
nước,… trong kiểm soát tập trung kinh tế các cơ quan khó khăn hoặc thực hiện
không đầy đủ thu thập, nắm bắt thông tin dữ liệu. Hiện nay, Cục quản lý cạnh tranh
chủ yếu dựa trên các nguồn thông tin từ phía doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh
tế phương tiện thông tin truyền thông trong nước và quốc tế,…
* Hướng giải quyết
- Thứ nhất:
Việt Nam ta đang trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, từ đó cộng đồng doanh nghiệp cũng như các nhà hoạch định chính
sách có nhận thức đối với vấn đề cạnh tranh còn khiêm tốn. Mặt khác từ kinh
nghiệm thực tiễn cho thấy mối quan hệ giữa nhu cầu phát triển năng lực kinh doanh
và khả năng kiểm soát thị trường đã gây những lúng túng nhất định rong việc hoạch
định chiến lược phát triển kinh tế và đảm bảo sự cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy
pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế cần được hoàn thiện và vận hành theo
những nguyên tắc sau: Pháp luật cần có những chuẩn mực hợp lý để phân tác từng
trường hợ tập trung kinh tế gây tổn hại thực sự cho thị trường cạnh tranh và những
trường hợp có tác dụng tích cực cho nền kinh tế; Các thủ tục cần được thực hiện
không được lạm dụng để gây khó khăn cho doanh nghiệp, không cản trở những
chiến lược, kế hoạch kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp.
Thực trạng cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động trên thị
trường có quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Tình trạng này không những làm năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp Việt nam vốn đã thấp nay càng bị yếu thế trong cuộc
cạnh tranh xu thế hội nhập kinh tế quốc tế mà còn làm giảm hiệu quả đầu tư, phát
triển kĩ thuật, công nghệ do yếu tố quy mô. Thế nên, nhu cầu tích tụ, tập trung guồn
vốn là tất yếu và cần thiết trong điều kiện hiện nay và tập trung kinh tế được coi là
một trong những con đường ngắn nhất để giải quyết vấn đề khó khăn trên. Bằng
cách tích tụ hoặc liên kết các nguồn lực đang tồn tại riêng lẽ thành một khối hống
nhất do một doanh nghiệp hoặc một tập đoàn quản lý chung, tập trung kinh tế đã tạo

ra khả năng đầu tư lớn hơn với sức mạnh tổng hợp để giải quyết nhiều vấn đề được
Mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ góc độ luật cạnh tranh và thực tiễn tại Việt
Nam

25

đặt ra từ thị trường mà từng doanh nghiệp khó có thể thực hiện được. Để cải thiện
môi trường kinh doanh theo hướng trên, các nhà hoạch định chính sách cũng cần
nhìn nhận theo hướng khách quan và tích cực, nghĩa là hỗ trợ và tạo điều kiện thuận
lợi tối đa cho các doanh nghiệp, những chủ thể chính trên thị trường, có khả năng
tiếp cận, gia nhập thị trường không gặp trở ngại bởi những rào cản về mặt hành
chính, Theo đó, các thủ tục cần thiết phải được minh bạch, công khai, không tạo nên
sự “ khó hiểu” cho doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp triển khai kịp
thời những kế hoạnh, chương trình kinh doanh bắt nhịp được yêu cầu của thị trường
mà không bị cản trở bởi độ trễ của thủ tục.
- Thứ hai:
Cần thống nhất và làm rõ các khái niệm về những hành vi mua bán sáp nhập
doanh nghiệp, đặc biệt là quan niệm về hành vi mua lại doanh nghiệp giữa các lĩnh
vực pháp luật có liên quan như luật cạnh tranh, luật doanh nghiệp, luật đầu tư
Chẳng hạn quy định về sáp nhập và hợp nhất: Luật doanh nghiệp không quy định cụ
thể, rõ ràng những loại hình doanh nghiệp nào có thể tiến hành hợp nhất, sáp nhập
mà chỉ quy định chung chung là cùng loại, như vậy cùng loại hình kinh doanh, hay
cùng ngành nghề… Đối với luật cạnh tranh không sử dụng khái niệm cùng loại
nghĩa là tất cả các loại hình doanh nghiệp điều có thể tiến hành sáp nhập, hợp nhất
với nhau. Như vậy quy định về sáp nhập, hợp nhất trong luật doanh nghiệp và luật
cạnh tranh không đồng nhất với nhau, gây khó khăn cho cơ quan chức năng cũng
như các doanh nghiệp trong qua trình tiến hành hoạt động sáp nhập, hợp nhất không
biết áp dụng theo luật nào.
Trong pháp luật đầu tư chỉ có một quy định đề cập đến vấn đề kiểm soát tập
trung kinh tế dưới góc độ của luật cạnh tranh: “Khi sáp nhập, mua lại công ty, chi

nhánh tại Việt Nam phải tuân thủ các qui định của luật doanh nghiệp về điều kiện
tập trung kinh tế và pháp luật về cạnh tranh”
13
. Theo qui định trên ta thấy pháp luật
đầu tư chưa có được những đánh giá chính xác về ảnh hưởng của các hình thức đầu
tư đến thị trường cạnh tranh. Với qui định nói trên, dường như pháp luật đầu tư chỉ
coi hiện tượng sáp nhập, mua laị công ty, chi nhánh tại Việt Nam là những hiện
tượng có liên quan đến tập trung kinh tế. Trong khi đó, phần lớn các hình thức đầu
tư được ghi nhận đều có thế được sử dụng như biện pháp tập trung kinh tế như liên
doanh thành lập doanh nghiệp giữa doanh nghiệp có vốn nước ngoài với doanh
nghiệp có vốn trong nước. Giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau và các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với nhau, hình thức mua cổ phần, mua vốn


13
Khoản 2 Điều 10 Nghị Định 108/2006/NĐ-CP Hướng dẫn Luật đầu tư.

×