Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT chi nhánh huyện Vụ Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.93 KB, 38 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang trên đà phát triển với hơn 80% dân
số sản xuất nông nghiệp, thu nhập hàng năm chiếm 30% thu nhập quốc dân.Trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề phát triển nông
nghiệp, xây dựng nông thôn mới và đề ra các chủ chương, chính sách đúng đắn. Nhờ
đó nông nghiệp nước ta đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đã có sự phát triển mạnh mẽ
và thu được những thắng lợi đáng khích lệ đó là: Bộ mặt nông thôn ngày càng đổi
mới đời sống nhân dân ngày một nâng cao.
Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) thì
nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ quan trọng mang lại lợi nhuận lớn cho ngân
hàng.Tuy nhiên đây cũng là hoạt động chứa đựng rủi ro lớn. Việc nâng cao chất
lượng hoạt động đầu tư cho vay luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với các Ngân
hàng thương mại. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn( NHNo&PTNT
hoăc NHNo ) Việt Nam đã xác định “ Mở rộng tín dụng phải gắn liền với việc nâng
cao chất lượng tín dụng. Coi chất lượng tín dụng là sự nghiệp sống còn đối với
NHNo&PTNT Việt Nam”.
Vụ Bản là huyện nông nghiệp năm 2006 có 10101 ha đất nông nghiệp, dân số
toàn huyện là : 125.019 người, trong đó hộ sản xuất nông nghiệp chiếm 84,72% tổng
số hộ. Thực tế này khẳng định: Địa bàn nông nghiệp, nông thôn huyện Vụ Bản là thị
trường chính và đáng tin cậy của NHNo&PTNT huyện Vụ Bản.
Hoạt động tín dụng của NHNo huyện Vụ Bản trong những năm vừa qua đang
được mở rộng và phát triển đã ảnh hưởng lớn đến việc kinh doanh của ngành và phát
triển kinh tế của địa phương nói chung, nhất là lĩnh vực kinh tế hộ nói riêng. Đồng
thời nhận thức được vai trò của công tác đầu tư cho vay hộ sản xuất đối với hoạt
động kinh doanh ngân hàng, NHNo&PTNT huyện Vụ Bản đã và đang thực hiện
nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác này. Tuy nhiên công tác
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
đầu tư cho vay hộ sản xuất vẫn đang còn gặp nhiều tồn tại cần được quan tâm, khắc
phục, nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn để phát triển, mở rộng mạnh cả tín dụng về số
lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu vốn cho chương trình phát triển kinh tế


huyện nhà.
Từ nhận thức trên, và qua thời gian thực tập tại NHNo & PTNT huyện Vụ
Bản, Em chọn đề tài nghiên cứu "Hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất tại
NHNo & PTNT chi nhánh huyện Vụ Bản" để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình,
với mục đích đưa ra một số giải pháp góp ý để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư cho
vay đối với hộ sản xuất.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tổng hợp, hệ thống hoá các vấn đề cơ bản thuộc lý luận về hộ sản xuất,
về hoạt động cho vay hộ sản xuất. Nhằm xem xét đánh giá thực trạng vấn đề đầu tư
vào hoạt động cho vay hộ sản xuất của NHNo & PTNT huyện Vụ Bản trong những
năm qua từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra những giải pháp để nâng
cao hiệu quả hoạt động đầu tư cho vay hộ sản xuất nói chung và cho vay hộ sản xuất
ở Vụ Bản nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với tính chất của vấn đề nghiên cứu nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu
những vấn đề thực tiễn cụ thể trong đầu tư vào hoạt động cho vay đối với hộ sản
xuất ở chi nhánh NHNo & PTNT huyện Vụ Bản trong 3 năm ( 2005 - 2006 –
2007)
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp, phân tích thống kê, so sánh đánh giá.
- Kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
5. Nội dung khái quát của chuyên đề
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất của
NHNo & PTNT chi nhánh huyện Vụ Bản- Nam Định
Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Vụ bản – Nam định.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm hộ sản xuất (HSX)
1.1.1. Các khái niêm
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học: Hộ sản xuất là tất cả những người
cùng sống chung trong mái nhà, nhóm người đó bao gồm những người cùng huyết
tộc và cùng sản xuất,
Theo các nhà kinh tế học Việt Nam: Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ trực
tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh.
Theo điều 106 Bộ luât dân sự khẳng định: “ Hộ sản xuất mà các thành viên có
tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật
quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này “.
Như vậy hộ sản xuất là một chủ thể trong nền kinh tế quốc dân. Hộ sản xuất
có quyền tự chủ trong việc hạch toán kinh doanh, tự xây dựng phương án sản xuất và
tổ chức sản xuất. Hoạt động kinh tế của hộ sản xuất chủ yếu trong các ngành nông,
lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực kinh tế khác. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, kinh tế hộ sản xuất đã và đang phát triển, tạo ra những thay đổi lớn trong bộ
mặt ở nông thôn Việt Nam.
Trong điều kiện nền kinh tế nông nghiệp được tổ chức lại để hình thành mô
hình sản xuất mới thích ứng với cơ chế thị trường thì kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp
vẫn được coi là hình thức kinh tế có sức cuốn hút to lớn để tạo điều kiện mới cho sản
xuất phát triển. Bởi sản xuất hàng hóa đòi hỏi các hộ sản xuất cũng phải cạnh tranh
với nhau. Do đó họ phải tìm mọi biên pháp tiết kiệm chi phí để hạ giá thành, đa dạng
hóa sản phẩm, tăng năng suất lao động để có lợi nhuận ngày càng tăng trong các hộ
sản xuất.
Trong những năm gần đây, hộ sản xuất chẳng những vừa là người sản xuất và
cung cấp sản phẩm hành hóa cho thị trường mà còn vừa là người tiêu dùng đông đảo
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
nhất đối với các mặt hàng trên thị trường do ngành kinh tế khác sản xuất ra. Vì thế hộ

sản xuất là yếu tố quyết định sản xuất và tiêu thụ hàng hóa trên thị trường.
Trên góc độ ngân hàng hộ sản xuất là một thuật ngữ được dùng trong hoạt
động cung ứng vốn tín dụng cho hộ sản xuất gia đình để làm kinh tế chung của hộ.
Theo văn bản 499A/NHNo-1993 của Tổng Giám Đốc NHNo&PTNT Việt Nam thì “
Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh là
chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh” để có cơ sở xây dựng chính sách tin
dụng cho phù hợp với từng loại hộ, từ đó đầu tư vốn có hiệu quả.
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết ta cần thấy rằng
hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xuất nông
nghiệp trên thế giới. Có quan điểm cho rằng hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế mà các
thành viên đều dựa trên cơ sở kinh tế chung. Quá trình sản xuất của hộ được tiến
hành một cách độc lập và điều quan trọng là các thành viên của hộ có cùng huyết
thống, thường cùng chung sống trong một ngôi nhà, có sinh hoạt chung với nhau. Đối
với NHNo&PTNT Việt Nam, hộ sản xuất được hiểu là một đơn vị kinh tế tự chủ,
trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh
doanh.
Kinh tế hộ sản xuất là hình thức kinh tế chủ yếu của Việt Nam. Do đặc điểm
của nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, vì thế hoạt động kinh tế hộ
sản xuất phần lớn được thực hiện trong lĩnh vực nông nghiệp. Quá trình hình thành
và phát triển của hộ sản xuất bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển của kinh tế hộ
gia đình, hộ nông dân nên nhiều khi kinh tế hộ sản xuất được hiểu như kinh tế hộ gia
đình sản xuất nông nghiệp.
1.1.2. Phân loại hộ sản xuất
Nhìn chung có nhiều cách đánh giá và phân loại hộ khác nhau như :
- Theo tiêu trí thu nhập bình quân trên đầu người hàng tháng, hàng năm thì có:
Hộ đói, hộ nghèo, hộ trung bình, hộ khá và hộ giàu.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
- Theo tính chất của sản xuất kinh doanh thì có: Hộ sản xuất nông nghiệp, hộ
sản xuất tiểu thủ công nghiệp, hộ ngư nghiệp, hộ sản xuất diêm nghiệp, hộ làm dịch
vụ, hộ buôn bán nhỏ…

- Căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh thì có thể phân loại hộ sản xuất
thành 3 loại:
+ Loại thứ nhất: Là loại hộ sản xuất hàng hoá hoặc kinh doanh theo luật định.
Loại hộ này có vốn, có kỹ năng lao động, biết tiếp cận môi trường kinh doanh, biết
tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật… Nhưng trong quá trình sản xuất kinh
doanh, nâng cao năng lực sản xuất, đầu tư cải tiến đổi mới công nghệ… nói chung là
do yêu cầu của việc mở rộng sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng và chiều sâu. Đối
với loại hộ này thì việc ngân hàng cho vay để bổ xung phần vốn thiếu, tạo điều kiện
cho hộ mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thêm sản phẩm hàng hoá cho xã hội, đồng
thời góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là
việc cần thiết, đúng hướng và có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
+Loại thứ hai: Là loại hộ sản xuất có tính chất tự cung, tự cấp hoặc buôn bán
nhỏ. Loại hộ này có sức lao động, chịu khó lao động. Họ khao khát vươn lên làm
giàu nhưng do thiếu nhiều điều kiện: Như do thiếu tư liệu sản xuất, ít được tiếp xúc
với khoa học kỹ thuật tiên tiến, lại cư trú ở những nơi môi trường kinh doanh chưa
phát triển, ít có giao lưu kinh tế… Và một trong những điều kiện cơ bản là họ thiếu
vốn để sản xuất. Loại hộ này chiếm đa số trong nông thôn hiện nay thì việc đầu tư
vốn của ngân hàng và các tổ chức tài chính, tín dụng khác trong nước và quốc tế để
giúp họ có điều kiện tăng năng xuất lao động, mở rộng ngành nghề, tăng thu nhập…
là việc làm không thể thiếu giúp họ có cơ hội ổn định cuộc sống và dần dần vươn lên,
sản xuất có dư thừa sản phẩm để bán (sản xuất hàng hoá).
+ Loại thứ ba: Là loại hộ không có sức lao động do ốm đau, bệnh tật kinh niên, tuổi
cao sức yếu, không còn khả năng lao động do hậu quả của chiến tranh. Đối với loại
hộ này giải quyết bằng các chính sách cứu tế, trợ cấp xã hội của ngân sách Nhà nước
và các quỹ từ thiện của cộng đồng…là thuộc trách nhiệm của Nhà nước và cộng
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
đồng. Xã hội không những giúp họ về vật chất mà còn động viên cả tinh thần để họ
có cuộc sống hoà nhập cộng đồng.
1.2. Đặc điểm kinh tế hộ sản xuất
Hộ sản xuất Việt Nam giữ vị trí quan trong trong nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam.

Đặc điểm của hộ sản xuất Việt Nam là gắn bó, có tính chất truyền thống cả 2 mặt vật chất và
tinh thần, có quyền lợi cùng hưởng có khó khăn cùng chịu. Sản xuất của hộ nông dân Việt
Nam sau bao năm chiến tranh không phát triển được, vẫn còn là sản xuất nhỏ, tự cung, tự
cấp, năng xuất lao động thấp, sản xuất còn lệ thuộc vào thiên nhiên nhiều. Việc chế biến sản
phẩm và phát triển các ngành nghề phụ còn yếu.
Ở nước ta do đặc điểm tự nhiên của từng vùng, từng miền nên tập quán sinh
hoạt, công tác, cách thức tổ chức sản xuất của các hộ gia đình cũng rất đa dạng,
phong phú. Song dù ở vùng nào, miền nào thì tựu chung lại kinh tế của hộ sản xuất
cũng có những đặc điểm cơ bản sau:
- Chủ hộ là người lao động trực tiếp, làm việc hoàn toàn tự giác và có trách
nhiệm cao.
- Sản xuất của hộ khá ổn định, vốn luân chuyển chậm so với các ngành khác,
vì đối tượng của sản xuất là cây, con, sinh trưởng và phát triển theo một chu kỳ nhất
định và thường là thời gian khá dài.
- Sản xuất mang tính thời vụ là chủ yếu xong cùng một lúc có thể sản xuất,
nuôi trồng nhiều loại cây, con khác nhau tiến hành làm các ngành nghề khác nhau vì
chu kỳ sinh trưởng và phát triển của từng loại cây, con khác nhau, chu kỳ kinh doanh
các ngành nghề không giống nhau, vì thế chi phí phải bỏ ra thường là không cao lắm
và dàn trải tương đối đều trong năm, đồng thời cũng có thu nhập đều trong năm. Đây cũng
là đặc điểm quan trọng tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển đa dạng.
- Trình độ sản xuất của các hộ chủ yếu là thủ công (máy móc tuy đã có xong ít và
đơn giản) trình độ tổ chức sản xuất nói chung ở mức độ chưa cao, phạm vi chưa rộng, người
lao động làm việc theo tính chất truyền thống là chính, thái độ lao động bị chi phối bởi tình
cảm, đạo đức, phong tục, tập quán của địa phương…
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
- Sản xuất nông nghiệp lệ thuộc vào thời tiết, khí hậu. Người sản xuất trong ngành
nông nghiệp chưa thể khắc phục được những bất lợi của thiên nhiên đem đến cho mình. Mặt
khác mặc dù sản phẩm nông nghiệp là tối cần thiết cho cuộc sống con người. Song con
người không thể tiêu thụ nó nhiều hơn mức mà sức khoẻ, sinh lý cho phép. Do vậy khi sản
phẩm xuất hiện nhiều trên thị trường thì giá cả hạ rất nhanh, khi thiếu hụt thì giá cả tăng rất

nhanh. Do vậy sản xuất nông nghiệp là một ngành sản xuất có rủi ro lớn. Rủi ro do bị phụ
thuộc vào thiên nhiên, rủi ro về giá cả.
- Hộ sản xuất nông nghiệp với quy mô sản xuất nhỏ chủ yếu là sản xuất tự cấp tự
túc nên việc tích tụ vốn cho sản xuất còn hạn chế . Do đó trong sản xuất kinh doanh thường
thiếu vốn, nhất là vốn để đầu tư mở rộng sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị.
1.3. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thi trường của nước ta hiện nay
1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò của hộ sản xuất đối với nền
kinh tế của nước ta hiện nay
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, nông dân sản
xuất dưới hình thức tập thể, quán triệt quan điểm hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ.
Nhưng vì lúc đó chưa có đủ điều kiện để tổ chức quản lý sản xuất nông nghiệp tập
thể với quy mô lớn, nên đã dẫn đến tình trạng hợp tác xã chưa phải là nhà, xã viên
chưa thực sự làm chủ, lao động hời hợt, năng xuất thấp kém, sản xuất đình đốn, tình
trạng trì trệ trong sản xuất kéo dài hàng chục năm. Thu nhập từ kinh tế tập thể của
mỗi gia đình không đảm bảo nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Bên cạnh đó thì kinh tế
gia đình, kinh tế tư nhân, cá thể bị kinh tế tập thể chèn ép, bị cơ chế chính sách rằng
buộc vì bị coi là mầm mống nảy sinh của chủ nghĩa tư bản.
Từ năm 1982 chỉ thị 100 của Ban Bí thư ra đời đã khẳng định mô hình sản
xuất nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã là chưa phù hợp với điều kiện nước ta lúc
đó. Đồng thời Đảng ta cũng đã xác định muốn đưa nền kinh tế phát triển với một
nước nông nghiệp như nước ta thì nông nghiệp phải là “Mặt trận hàng đầu”, tiếp đó
là nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã xác định hộ sản xuất là đơn vị kinh tế cơ bản trong nền
kinh tế nông nghiệp nước ta. Từ đó kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân, cá thể được khôi phục.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Tháng 12/1986, Nghị quyết đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa nền kinh tế của đất nước ra khỏi khủng hoảng, đi vào
thế ổn định và phát triển. Đảng chủ chương coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
trong lĩnh vực kinh tế thì đổi mới nông nghiệp là khâu đột phá.
Việc chủ trương chuyển từ tập thể hoá sang chủ trương thừa nhận hộ gia đình nông
dân là đơn vị kinh tế tự chủ, đã có tác động khơi dậy những tiềm năng to lớn của hơn 12

triệu hộ gia đình nông dân để không ngừng đẩy mạnh sản xuất phát triển.Tạo ra bước phát
triển mạnh mẽ, sôi động, sử dụng có hiệu quả hơn đất đai, lao động, tiền vốn, công nghệ và
lợi thế sinh thái từng vùng. Kinh tế hộ nông thôn và một bộ phận kinh tế trang trại đang trở
thành lực lượng sản xuất chủ yếu về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất các ngành nghề thủ công phục vụ tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu. Bởi vì kinh tế hộ có quy mô nhỏ nhưng lại rất linh hoạt, tận dụng được tối đa
nguồn tài nguyên, đất đai, sức lao động, tiền vốn… kinh tế hộ dễ thích ứng với nền kinh tế
thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao vì chi phí cho các khâu trung gian ít, mặt khác do
quy mô nhỏ nên dễ dàng điều chỉnh cơ cấu để phù hợp với nhu cầu thị trường. Đồng thời
kết hợp với các chính sách vĩ mô của Nhà nước. Kinh tế hộ có điều kiện phát triển không
ngừng và bền vững, là điều kiện để chuyển dịch nền nông nghiệp tự nhiên sang nền nông
nghiệp hàng hoá có quy mô lớn.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng với chủ trương công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn thị hộ sản xuất nông nghiệp được khẳng định và đặt lên vị trí hàng đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3.2. Vai trò cụ thể của hộ sản xuất đối với nền kinh tế của nước ta
Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 80% dân số sống ở nông thôn, trình độ
lao động còn hạn chế. Từ khi chuyển nền kinh tế từ quản lí tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, khu vực kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, song cũng bị co
hẹp cả về quy mô và số lượng. Do đó lực lượng lao động trong khu vực đã giảm đáng kể.
Nền kinh tế mở, các công ty liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng lên nhanh
chóng nhưng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp này còn đòi hỏi người lao
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
động phải có năng lực và kiến thức kĩ thuật, công nghệ. Như vậy để sử dụng hợp lí nguồn
lao động dồi dào, giải quyết tốt việc làm cho người lao động ở nông thôn hiện nay là một
vấn đề hết sức cấp bách. Và điều đó chỉ có thể được giải quyết bằng việc phát triển kinh tế
hộ sản xuất. Đó là hướng đi đúng mà Đảng và nhà nước đã lựa chọn. Kinh tế hộ sản xuất
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết tốt công ăn việc làm ở nông
thôn.
Từ khi chuyển đổi cơ chế quản lí trong nông nghiệp theo cơ chế thị trường hộ sản

xuất được công nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, được Nhà nước giao quyền sử dụng đất và
quản lí đất đai lâu dài, đã có tác động thúc đẩy các hộ sản xuất khai thác có hiệu quả nguồn
lực đất đai và tài nguôn thiên nhiên tại chỗ tăng vòng quay sử dụng đất, đầu tư thâm canh
tăng độ phi nhiêu của đất, tăng nâng suất cây trồng, mở rộng khai hoang phục hóa tăng diện
tích canh tác, tăng sản lượng cây trồng. Sản lượng lương thực của cả nước đã tăng từ 17,5
triệu tấn ( năm 1987) lên 34,3 triệu tấn (năm 1999) tức tăng gần gấp đôi sau 13 năm. Từ chỗ
trung bình mỗi năm Nhà nước ta phải nhập khẩu trên dưới một triệu tấn lương thực thời kỳ
trước đổi mới, đến năm 1989 Việt Nam đã xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo đến năm 1999 lượng
xuất khẩu gạo đã tăng lên 4,5 triệu tấn và từ đó đến nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu
gạo lớn đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan, ngoài ra kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng như
chè, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu.... và các mặt hàng thủ công có nguyên liệu từ nông nghiệp đã
góp phần không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta.. Từ những nhận định đến
thực tế như trên đối với Việt Nam đã có thể khẳng định rằng kinh tế hộ sản xuất đang giữ
một vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong nông nghiệp nói riêng trong nền kinh tế nước ta
nói chung .
Cũng như các thành phần kinh tế khác, hộ sản xuất là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ
song với quy mô nhỏ bộ máy quản lí gọn nhẹ, năng động nên đã dễ dàng nắm bắt được sự
thay đổi của thị trường, kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh cho phù hợp, đồng
thời lại được nhà nước có chính sách hộ trợ phát triển.
Các hộ sản xuất tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực với
những điều kiện khác nhau và trong nền kinh tế thị trường mức độ cạnh tranh ngày càng
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
tăng. Do đó giữa các hộ sản xuất thường có sự phân công lao động theo hướng ai giỏi nghề
gì, có điều kiện tư nhiên, kĩ thuât, tiền vốn để sản xuất được mặt hàng nào thì làm nghề đó,
sản xuất mặt hàng đó. Vì vậy sẽ có điều kiện tập trung được tiền, vốn nhân lực, vật lực triển
khai có hiệu quả các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất nâng cao năng suất và chất lượng
sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
Tóm lai: Hộ sản xuất là một tổ chức kinh tế năng động hiệu quả, có khả năng thích
ứng với cơ chế thi trường cao, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phân công lao động
dẫn tới chuyên môn hóa từ đó tạo khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có

lợi. Như vậy ở mỗi thời điểm, mỗi thời kì đều có những chủ trương, phương hướng nhất
định để khẳng định vai trò to lớn của kinh tế hộ sản xuất. Những chủ trương của Đảng và
Nhà nước trên đây đối với kinh tế hộ sản xuất đang được thực hiện tạo điều kiện cho sự phát
triển vững mạnh của hình thức kinh tế này.
1.3. Tầm quan trọng của tin dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản
xuất
1.3.1. Khái quát về hoạt đồng tín dụng của ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là sự
chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định, có hoàn
trả đầy đủ cả vốn và lãi.
Điều 20 luật các tổ chức tín dụng qui định.
“Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn
vốn huy động để cấp tín dụng”.
“Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như: tín dụng thương
mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước.
Tín dụng ngân hàng là sự tin tưởng lẫn nhau trong quan hệ đi vay và cho vay
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
giữa các Ngân hàng với chủ thể kinh tế khác nhau trong xã hội, được thực hiện dưới
hình thức chủ yếu bằng tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Với đặc điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng ngân hàng có khả năng đầu tư
vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất lưu thông hàng hoá. Vì vậy, tín dụng ngân hàng
ngày càng trở thành một hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng
hiện có.
1.3.2. Tầm quan trọng của tín dụng ngân hàng với sự phát triển kinh tế hộ sản
xuất
Với thị trường nông thôn rộng lớn trên khắp đất nước, với đặc điểm kinh tế
của hộ nông dân đa dạng, phong phú như đã nêu ở phần trên. Đặc biệt xuất phát từ

vai trò quan trọng của kinh tế hộ trong nền kinh tế nước ta. Nên tín dụng ngân hàng
ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển nền kinh tế hộ sản
xuất cụ thể là:
- Góp phần chuyển dich cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp: Tín dụng ngân
hàng là kênh cung cấp vốn chủ yếu và quan trọng nhất cho kinh tế hộ, nó có vai trò
rất to lớn trong tiến trình phát triển nông nghiệp nông thôn mà trước hết là tác động
vào phát triển lương thực, nuôi trồng thuỷ sản, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi
trong nông nghiêp, mở mang thêm ngành nghề phá thế độc canh tạo ra nhiều sản
phẩm hàng hoá. Nhiều hộ đã tổ chức sản xuất dưới hình thức trang trại và ứng dụng
tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp. Nhiều vùng chuyên canh mới ra đời thay
thế những cây trồng vật nuôi kém hiệu quả.
- Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất: nó đảm bảo
quá trình sản xuất liên tục, góp phần khai thác tiềm năng, tài nguyên, đất đai, lao
động; Tiềm năng tài nguyên, đất đai nước ta còn rất lớn, nếu được đầu tư tín dụng
hợp lý, kết hợp với chính sách vĩ mô thích hợp chắc chắn sẽ phát huy được hiệu quả
cao, đặc biệt là lực lượng lao động hiện đang còn dư thừa chủ yếu là ở nông thôn.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
vốn trong sản xuất nông nghiệp: Quá trình sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
trường đòi hỏi người sản xuất phải nâng cao năng xuất lao động, hạ giá thành sản
phẩm. Muốn vậy phải không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, cải tiến
máy móc thiết bị, ứng dụng công nghệ mới những hoạt động này đòi hỏi phải có 1
khối lượng vốn lớn thường vượt quá khả năng của hộ sản xuất. Nhờ có vốn tín dụng
Ngân hàng các hộ sản xuất có đủ vốn để mở rộng sản xuất, tập trung ruộng đất, đầu
tư máy móc thiết bị, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận từ đó thúc đẩy quá trình
tích tụ vốn, tăng quy mô vốn tự có.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn:
Một trong những đặc điểm quan trong của sản xuất nông nghiệp là sản xuất mang
tính chất thời vụ, khi chưa tới vụ thu hoạch, chưa có sản phẩm hàng hoá để bán nên
chưa có thu nhập song hộ nông dân vẫn cần vốn để đầu tư cho sản xuất và chi tiêu

cho những khoản sinh hoạt tối thiểu. Chính điều này đã tạo điều kiện cho tệ nạn cho
vay nặng lãi, tình trạng bán lúa non phát triển. Tín dụng ngân hàng ngày càng mở
rộng với chính sách đầu tư trực tiếp tới hộ sản xuất đã đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu
vốn cho sản xuất, hạn chế và đẩy lùi tệ nạn cho vay nặng lãi, góp phần làm giàu cho
các hộ sản xuất, tăng thêm của cải cho xã hội, củng cố lòng tin của dân đối với Đảng
và Nhà nước.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần ổn định an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn: Thông qua việc cho vay mở rộng, phát triển sản xuất, phát
triển ngành nghề trong nông thôn đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động từ đó nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân sẽ góp phần đẩy
lùi các tai tệ nạn xã hội, hạn chế 1 bộ phận lao động nông nhàn vào thành thị tìm
kiếm việc làm, từ đó giảm sức ép đối với khu vực thành thị. Người dân tin tưởng vào
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
- Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở địa
phương: Tín dụng ngân hàng đầu tư vốn tạo điều kiện để phát triển nhiều ngành
nghề mới trong nông thôn, tạo công ăn việc làm, thu hút lực lượng lao động dôi thừa
trong nông thôn.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
- Góp phần đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn: Tín
dụng góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng,tạo điều kiện cho nông dân tiếp thu và ứng
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo điều kiện giao lưu hàng hoá …
Tóm lại: Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu đối với
kinh tế hộ sản xuất, hay nói cách khác hộ sản xuất không thể mở rộng sản xuất kinh doanh,
không thể tạo ra kinh tế hàng hoá, trong nông nghiệp nếu không có sự đầu tư của tín dụng
ngân hàng.
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT CỦA NHNo &
PTNT HUYỆN VỤ BẢN TRONG THỜI GIAN QUA

2.1. Đặc điểm của các hộ sản xuất ở huyện Vụ Bản
Vụ Bản là huyện nằm dọc theo quốc lộ 10 có:
- Phía Đông giáp thành phố Nam Định
- Phía Tây giáp huyện ý yên.
- Phía Nam giáp huyện Nam trực.
- Phía Bắc giáp Huyện Mỹ lộc.
* Huyện Vụ Bản có 18 đơn vị hành chính gồm 17 xã, 01 thị trấn nằm ở trung
tâm huyện. Nhìn chung tương đối phát triển song hệ thống điện, đường giao thông
nông thôn của huyện đã được xây dựng xong nhưng chưa được hoàn chỉnh.
Trong những năm gần đây Vụ Bản đã đạt được những thành tựu đáng kể như:
đường quốc lộ 10 được nâng cấp mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông Vụ
Bản với các tỉnh Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh do đó kinh tế thương mại của
Vụ Bản tăng trưởng khá, tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm ăn của các hộ sản xuất
ở địa phương.
* Vụ Bản tính đến năm 2006 có tổng diện tích tự nhiên của huyện là 14.038 ha
trong đó diện tích đất nông nghiệp là 10.096 ha.Tổng dân số trong huyện là 126.784
người.Trong đó hộ sản xuất nông nghiệp khoảng 28.330 hộ chiếm 85% tổng số hộ,
với đặc thù kinh tế thuần nông, với lợi thế là cây lúa và các loại cây hoa màu khác
như lạc, đậu tương... và vật nuôi là con:(Lợn, con bò) là chủ yếu.
Hộ sản xuất ở huyện Vụ Bản cũng mang những đặc tính của hộ sản xuất nói
chung như đã nêu ở trên. Ngoài ra còn có một số đặc trưng khác có thể kể ra ở đây
Phạm Thị Hồng Mai Lớp: Kinh tế đầu tư 47A

×