Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

nghiên cứu sự kháng thuốc của vi khuẩn vibrio parahaemolyticus phân lập từ ao nuôi tôm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.95 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN


LÊ KIỀU XUYÊN



NGHIÊN CỨU SỰ KHÁNG THUỐC CỦA VI KHUẨN
Vibrio parahaemolyticus PHÂN LẬP TỪ AO NUÔI TÔM




LUẬN VĂN ĐẠI HỌC
NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN




2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN


LÊ KIỀU XUYÊN


NGHIÊN CỨU SỰ KHÁNG THUỐC CỦA VI KHUẨN
Vibrio parahaemolyticus PHÂN LẬP TỪ AO NUÔI TÔM




LUẬN VĂN ĐẠI HỌC
NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN


CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGs. Ts. TỪ THANH DUNG


2014
1

NGHIÊN CỨU SỰ KHÁNG THUỐC CỦA VI KHUẨN
Vibrio parahaemolyticus PHÂN LẬP TỪ AO NUÔI TÔM
Lê Kiều Xuyên và Từ Thanh Dung
Bộ môn Bệnh học thủy sản, khoa Thủy Sản, trường Đại học Cần Thơ
Email:
ABSTRACT
Acute hepatopancreatic necrosis disease (AHPND) are considered as a
dangerous disease on shrimp. In Vietnam, the disease appeared in 2011 and
caused significant damage to shrimp farming in the Mekong Delta. Pathogen
Vibrio parahaemolyticus bacteria infected by phage. In this study have 38
bacterial strains, which were isolated from water samples, hepatopancreatic
and gut of shrimps displayed sign of AHPND in the province Ca Mau, Soc
Trang, Bac Lieu and Tra Vinh. The purpose of this study is to assess the
antimicrobial susceptibility of Vibrio parahaemolyticus. All isolates were
screened against 13 antibiotics of 12 strains of bacteria by disk diffusion
method. The results showed that Vibrio parahaemolyticus isolates were still
resistant to: amoxicillin, cephalexin, and all stre sensitive streptomycine, but

still susceptible to: norfloxacin, rifampicin, doxycycline, flumequine. In
particular, all 12 isolated in this study displayed multi-drug resistance on 13
antibiotics.
Title: Tudies of bacterial resistance Vibrio parahaemolyticus isolated from
shrimp ponds.
Keyword: Vibrio parahaemolyticus, shrimp, antimircobial susceptibility.
TÓM TẮT
Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) được coi là một căn bệnh nguy hiểm
trên tôm. Ở Việt Nam, bệnh đã xuất hiện trong năm 2011 và gây ra thiệt hại
đáng kể cho nghề nuôi tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tác nhân gây bệnh
là vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus bị nhiễm bởi thể thực khuẩn. Trong
nghiên cứu này có 38 chủng vi khuẩn được phân lập từ mẫu nước, gan tụy và
ruột tôm có dấu hiệu bệnh AHPND ở các tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu
và Trà Vinh. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá sự nhạy cảm thuốc
kháng sinh của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus. Nghiên cứu kiểm tra kháng
sinh đồ với 13 loại kháng sinh trên 12 chủng vi khuẩn bằng phương pháp đĩa
khuếch tán. Kết quả kháng sinh đồ cho thấy đa số các chủng vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus kháng cao các kháng sinh như: amoxicillin, cephalexin và
kháng hoàn toàn với streptomycin. Tuy nhiên vẫn còn nhạy với: norfloxacin,
2

rifampicin, doxycycline, flumequine. Đặc biệt, tất cả 12 chủng vi khuẩn
nghiên cứu đều thể hiện sự đa kháng thuốc trên 13 loại kháng sinh.
1. GIỚI THIỆU
Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là ngành có những đóng góp đáng kể trong nền
kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong đó, nuôi tôm biển là một trong
những nghề quan trọng nhất. Do có giá trị thương mại cao trên thị trường xuất
khẩu, nên nghề này không chỉ góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện kinh tế
cho người dân mà nó còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, từ đầu năm 2011, sự xuất hiện của hội chứng hoại tử gan tụy cấp

tính (Acute hepatopancreatic necrosis disease-AHPND) đã gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nghề nuôi tôm trong toàn vùng với thiệt hại hơn 98.000 ha
và hơn 46.000 ha diện tích nuôi tôm trong năm 2012 tập trung ở một số tỉnh
Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang
Theo Lightner (2013) tác nhân gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính là vi khuẩn
Vibrio parahaemolyticus bị nhiễm bởi thể thực khuẩn, làm tôm nhiễm bệnh ở
giai đoạn 15-40 ngày sau khi thả. Ở nước ta, khi dịch bệnh xảy ra, người dân
thường sử dụng thuốc kháng sinh để điều trị bệnh cho tôm nuôi. Việc sử dụng
thuốc kháng sinh không đúng loại, liều lượng sẽ dẫn đến việc tạo ra các dòng
vi khuẩn kháng thuốc. Sự kháng thuốc có thể là do sự phát sinh ra cơ chế miễn
dịch trong hệ di truyền của vi khuẩn. Do đó, sự kháng thuốc có thể được
chuyển từ loài vi khuẩn này sang loài vi khuẩn khác (Từ Thanh Dung, 2005).
Hiện nay, sự kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh đang là mối đe dọa rất lớn
cho nghề nuôi tôm và cũng là mối quan tâm lớn của cộng đồng, vì vi khuẩn
một khi đã kháng thuốc không chỉ gây khó khăn cho công tác phòng trị bệnh
mà còn nghiêm trọng hơn, chúng có thể truyền các gen kháng thuốc này sang
các loài vi khuẩn khác và cho cả con người. Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu sự
kháng thuốc của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus phân lập từ ao nuôi
tôm” được thực hiện. Mục tiêu của đề tài là tìm ra loại kháng sinh đặc hiệu để
điều trị bệnh do vi khuẩn V. parahaemolyticus gây ra trong ao nuôi tôm. Đồng
thời, cung cấp thông tin cho các nhà quản lý thủy sản kiểm soát chặt chẽ việc
lưu hành thuốc kháng sinh trên thị trường.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nguồn tôm
Nguồn tôm có dấu hiệu bệnh AHPND được thu tại 18 ao nuôi tôm sú và tôm
thẻ ở các tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Trà Vinh, mỗi ao thu 5 mẫu
3

tôm với các dấu hiệu bệnh lý như tôm bỏ ăn, bơi chậm chạp và tắp mé, gan tụy
nhạt màu, teo, dai và ruột rỗng (Bảng 1).

Bảng 1: Số mẫu tôm thu được ở các tỉnh
STT
Tỉnh
Số ao
Số mẫu tôm
1
Cà Mau
10
50
2
Sóc Trăng
1
5
3
Bạc Liêu
1
5
4
Trà Vinh
6
30

Tổng
18
90
2.2. Nguồn vi khuẩn
Các chủng vi khuẩn được phân lập trên tôm sú, tôm thẻ và mẫu nước tại
những ao nuôi tôm có dấu hiệu bệnh AHPND ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu,
Cà Mau. Thời gian từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2014 (Bảng 2).
Bảng 2: Số chủng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus phân lập ở các tỉnh

STT
Tỉnh
Số chủng vi khuẩn
Ghi chú mẫu nước
Trên tôm
Trên nước
1
Cà Mau
1
16

2
Sóc Trăng
7
0
Không thu được
3
Bạc Liêu
3
0
Không phân lập được
vi khuẩn V.parahaemolyticus
4
Trà Vinh
11
0
Không thu được

Tổng
38


2.3. Phân lập và định danh vi khuẩn
Vi khuẩn V. parahaemolyticus được phân lập trên tôm (gan tụy, ruột) và nước
ở các tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Trà Vinh cấy trên trên môi trường
CHROMagar™ Vibrio chọn ra các chủng vi khuẩn bắt màu tím tách ròng lại
Tryptic soy agar (TSA) có bổ sung 1,5% NaCl (Merck, Darmstadt, Germany)
ủ ở nhiệt độ 28
0
C trong 24 giờ. Vi khuẩn được phân lập dựa theo tài liệu
hướng dẫn của Frerichs và Millar (1993). Vi khuẩn được kiểm tra các đặc
điểm sinh lý, sinh hóa (tính di dộng, nhuộm Gram, oxidase, catalase, O-F test)
theo cẩm nang Cowan và Steel’s (Barrow and Feltham, 1993), trước khi định
danh bằng bộ kit API 20E (bioMerieux, France), (Buller, 2004).
2.4. Kiểm tra kháng sinh đồ
Bảng 3: Số chủng vi khuẩn V. parahaemolyticus chọn làm kháng sinh đồ



4

STT
Tỉnh
Số chủng vi khuẩn
Trên tôm
Trên nước
1
Cà Mau
1
2
2

Sóc Trăng
5
0
3
Bạc Liêu
2
0
4
Trà Vinh
2
0

Tổng
12
Kiểm tra kháng sinh đồ được thực hiện theo tiêu chuẩn của Clinical and
Laboratory Standards Institute (CLSI) (2011), trên môi trường Mueller-Hinton
Agar (MHA, Meck, Darmstadt, Germany) bổ sung 1,5% NaCl với 13 loại
kháng sinh là doxycycline (30µg), florfenicol (30µg), gentamicin (10µg),
trimethoprim+sulfamethoxazole (25µg), norfloxacin (10µg), streptomycin
(10µg), enrofloxacin (5 µg), cephalexin (30µg), amoxicillin (25µg), neomycin
(30µg), flumequine (30µg), cephazoline (30µg), rifampicin (30µg), (Oxoid,
UK).
Chỉ số đa kháng MAR (Multi-antibiotic resistant index): Chỉ số đa kháng
kháng sinh của vi khuẩn được tính toán dựa trên công thức của Sarter et al.
(2007).
MAR = X / (Y x Z)
X = tổng số trường hợp kháng kháng sinh ở mỗi tỉnh
Y = tổng số kháng sinh sử dụng trong nghiên cứu
Z = tổng số chủng vi khuẩn phân lập được ở mỗi tỉnh
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Dấu hiệu bệnh lý
Tôm bệnh hoạt động chậm chạp, bỏ ăn, lờ đờ và tắp mé. Khi tách bỏ lớp giáp
đầu ngực, quan sát thấy gan tụy teo, dai, nhạt màu và ruột rỗng (Hình 1).

Hình 1: Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) có dấu hiệu nhiễm
bệnh hoại tử gan tụy (A, B). Gan tụy teo, dai, màu nhợt nhạt, ruột
không có thức ăn.
A
B
5

Các dấu hiệu ghi nhận được tương tự trong mô tả của Lightner et al. (2012) và
Flegel et al., (2012) về các dấu hiệu bệnh lý của tôm khi mắc phải hội chứng
hoại tử gan tụy cấp tính. Lightner (2012) cho biết tôm hoại tử gan tụy ở mức
độ ao nuôi thường có một số các dấu hiệu như tôm chết đáy, bỏ ăn, gan tụy
teo, dai, nhạt màu, ruột rỗng và có hiện tượng mềm vỏ. Tôm nuôi có thể chết
đột ngột với tỉ lệ cao trong thời gian ngắn sau khi xuất hiện các dấu hiệu bệnh
đặc biệt khoảng sau từ 2 -3 ngày (Lê Hồng Phước và ctv, 2012).
3.2. Kết quả phân lập vi khuẩn
Trên môi trường Thiosunfate Citrate Bile Salt Sucrose (TCBS) khuẩn lạc có
màu xanh,những khuẩn lạc này khi được cấy truyền sang đĩa môi trường
Tryptic soy agar (TSA) (có bổ sung 1.5% NaCl) thì khuẩn lạc phát triển có
màu kem hoặc màu trắng đục với hình dạng và kích thước khuẩn lạc tương tự
như trên môi trường CHROMagar™ Vibrio (Hình 2). Đặc điểm chung của các
chủng phân lập được đều là vi khuẩn Gram âm, hình que có khả năng di động,
phản ứng dương tính với oxidase, catalase, có khả năng lên men đường trong
điều kiện kị khí và hiếu khí. Dựa vào đặc điểm hình thái, sinh lý, sinh hóa và
kết quả kiểm tra bằng kít API 20E các chủng vi khuẩn này được định danh là
vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.




Hình 2: Kết quả phân lập vi khuẩn và kiểm tra sinh hóa.
A: Đĩa vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus phân lập trên CHROMagar™ Vibrio
B: Đĩa vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus thuần trên TSA
+

C: Vi khuẩn Gram âm, que ngắn (100X)
D: Vi khuẩn phát triển trên TCBS
A
B

V.parahaemolyticus
C
D
6

Bảng 4: Đặc điểm sinh lý, sinh hóacủa các chủng V.parahaemolyticus.
Chỉ tiêu
Chủng vi khuẩn
ATCC 43996
(Buller, 2004)
ST45.2RTR
TV6TD
Nhuộm Gram
-
-
-
Hình dạng
Que ngắn

Que ngắn
Que ngắn
Phát triển trên TCBS
Xanh
Xanh
Xanh
Di động
+
+
+
Sinh catalase
+
+
+
Sinh oxidase
+
+
+
Phản ứng lên men yếm khí
+
+
+
Phản ứng lên men hiếu khí
+
+
+
Sinh beta – galactosidaza
-
-
-

Agrinine
-
-
-
Lysine
+
+
+
Ornithine
+
+
+
Sử dụng Citrate
+
+
+
Sinh H2S
-
-
-
Sinh ureaza
-
-
+
Sinh tryptophane
-
-
-
Sinh indole
+

+
+
Acetoin production
+
+
+
Sinh Gelatinaza
+
+
+
Sử dụng đường Glucose
+
+
+
Manitol
+
+
+
Inositol
-
-
-
Sorbotol
-
-
-
Rhamnose
-
-
-

Sucrose
-
-
-
Melibiose
-
-
-
Amygdalin
-
-
+
Arabinose
+
+
-

Ghi chú: (+) dương tính, (-) âm tính
Kết quả định danh bằng bộ kít API 20E cho thấy đặc điểm sinh lý, sinh
hóa của 2 chủng V. parahaemolyticus trong nghiên cứu giống với chủng vi
khuẩn V. parahaemolyticus của Buller (2004), trừ chỉ tiêu sử dụng citrate và
acetoin production kết quả kiểm tra là dương tính so với kết quả của Buller
(2004) là âm tính.








7

3.3. Kết quả kháng sinh đồ
Bảng 5: Tỷ lệ % kháng và nhạy của các chủng vi khuẩn V. parahaemolyticus
Thuốc kháng sinh
Kháng (%)
Nhạy trung bình (%)
Nhạy (%)
β-lactamin



Amoxicillin (25µg)
91,7
0
8,3
Cephalexin (30µg)
83,3
8,3
8,3
Cephazolin (30µg)
50
41.7
8,3
Aminoglycosides



Gentamycin (10µg)
41,7

33,3
25
Neomycin (30µg)
58,3
41,7
0
Streptomycin (10µg)
100
0
0
Fenicol



Florfenicol (30µg),
0
0
100
Quinolon



Enrofloxacin (5 µg)
8,3
8,3
83,3
Norfloxacin (5µg)
0
8,3
91,7

Flumequine (30µg)
8,3
0
91,7
Tetracyclin



Doxycycline (30µg),
8,3
8,3
83,3
Rifampicine (30µg)
0
0
100
Trimethoprim+sulfamethoxazole
(25µg)
25
0
75
Kết quả kháng sinh đồ cho thấy đa số các chủng vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus kháng với các kháng sinh thuộc nhóm β-lactamin kháng
hoàn toàn với streptomycin, kháng tương đối cao với amoxicillin (91,7%),
cephalexin (83,3%). Nhạy hoàn toàn với florfenicol, rifampicin, nhạy tương
đối cao với norfloxacin (91,7%), flumequine (91,7%), enrofloxacin (83,3%),
doxycycline (83,3%).
3.4. Hiện tượng đa kháng thuốc của vi khuẩn



Hình 3: Tỷ lệ % các chủng vi khuẩn V. parahaemolyticus đa kháng thuốc kháng sinh

8

Điểm nổi bật ở nghiên cứu này là 12 chủng vi khuẩn đều đa kháng thuốc. Vi
khuẩn V. parahaemolyticus đa ít nhất 3 loại kháng sinh và nhiều nhất là 8 loại
kháng sinh. Trong đó đa kháng với 3, 4 và 6 loại kháng sinh chiếm tỷ lệ cao
nhất và cùng bằng (25%).
Chỉ số đa kháng (MAR): Chỉ số đa kháng của 4 tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc
Liêu, Trà Vinh được trình bày ở (Bảng 6). Chỉ số MAR của 4 tỉnh đều cao
hơn 0,2, cho thấy 14 kháng sinh trong nghiên cứu này đã được sử dụng thường
xuyên để điều trị bệnh cho tôm nuôi ở 4 tỉnh trên.
Bảng 6: Chỉ số đa kháng của vi khuẩn V. parahaemolyticus
Tỉnh
Cà Mau
Sóc Trăng
Bạc Liêu
Trà Vinh
MAR
0,4
0,3
0,5
0,3
3.5. Thảo luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số các vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng
rất cao với các kháng sinh thuộc nhóm nhóm β-lactam như amoxicillin
(91,7%), cephalexin (83,3%). Theo Lê Đăng Hà (2011), nhóm kháng sinh này
sử dụng qua đường thức ăn, trị vi khuẩn đường ruột và hiệu quả được loại bỏ
nhanh chóng, không dùng thuốc này đối với bệnh phẩy khuẩn.
Streptomycin, gentamycin và neomycin là 3 kháng sinh thuộc nhóm

aminoglycosides. Trong nghiên cứu này V. parahaemolyticus kháng hoàn toàn
với streptomycine, kháng tương đối với neomycine (58,3%) và gentamycine
(41,7%). Các kháng sinh thuộc nhóm aminoglycosides không hấp thụ qua
đường ruột nên chỉ có thể sử dụng qua đường tiêm trong y học và thú y, vì vậy
chúng rất ít được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản (Bùi Kim Tùng, 2001).
Trong khi đó, các dòng vi khuẩn trong nghiên cứu này nhạy hoàn toàn với
florfenicol. Theo nghiên cứu của Quang Trong Phat, (2013) thì V.
parahaemolyticus nhạy cao với florfenicol (91,7%). Florfenicol là kháng sinh
được ứng dụng rộng rãi trong ngành thú y và trong NTTS ở châu Á từ những
thập niên 1980 (Keyes et al., 2000). Tuy nhiên, chỉ sử dụng kháng sinh này
điều trị cho động vật thủy sản khi thật sự cần thiết và tuân thủ các nguyên tắc
sử dụng kháng sinh.
Tuy các chủng vi khuẩn trong nghiên cứu còn nhạy với nhóm quinolone
nhưng thế hệ I của nhóm kháng sinh này như: flumequine có hoạt tính với vi
khuẩn Gram âm. Tuy nhiên các kháng sinh thế hệ II như: enrofloxacin và
norfloxacin hoạt tính dựa vào sự trao đổi chất của ADN làm thay đổi cấu trúc
tế bào vi khuẩn có thể dẫn đến các thể đột biến kháng thuốc (Lê Đăng Hà,
2011). Mặt khác, enrofloxacin là kháng sinh nằm trong danh mục cấm sử dụng
9

trong nuôi trồng thủy sản của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
(Thông tư 03/2012/TT BNNPTNT) do thuốc có khả năng tồn lưu một thời
gian dài trên động vật thủy sản. Vì vậy, trong trường hợp khẩn cấp có thể sử
dụng kháng sinh flumequine để điều trị không nên sử dụng enrofloxacin và
norfloxacin để tránh sự kháng thuốc xảy ra.
Doxycycline là kháng sinh thuộc thế hệ mới nhất của nhóm tetracycline.
Nhóm tetracycline được sử dụng trong nuôi thủy sản bằng cách trộn vào thức
ăn hoặc tắm (Từ Thanh Dung, 2008). Trong nghiên cứu này các chủng
V.parahaemolyticus nhạy rất cao với doxycycline (91,7%) tương tự với nghiên
cứu của Diep The Tai et al. (2010), vi khuẩn thể hiện tính nhạy với

doxycycline đến 93,08% và của Quang Trong Phat (2013) có 91,7% chủng
V.parahaemolyticus nhạy với doxycycline.
Các chủng vi khuẩn qua khảo sát nhạy hoàn toàn với rifampicin, với
trimethoprim+sulfamethoxazole nhạy 75% và đã có 25% kháng. Theo
Nguyễn Phước Tương và Trần Diễm Uyên (2000), trimethoprim là nhóm
kháng khuẩn tổng hợp tương tự như kháng sinh. Nhóm kháng sinh này có tác
dụng kìm khuẩn, ức chế enzyme dihydroflolate-reductase của vi khuẩn,
thường phối hợp với sulfamethoxazole. Sự kết hợp này có tác dụng hiệp đồng,
làm giảm sự xuất hiện kháng thuốc và ức chế hai giai đoạn kế tiếp nhau trong
quá trình tổng hợp acid folic của vi khuẩn (Lê Đăng Hà, 2011). Kết quả
nghiên cứu của Panawala et al. (2005), cho thấy V. parahaemolyticus ở Sri
Lanka trên nước và trên tôm nhạy 100% với trimethorime+sulfamethoxazol.
Nghiên cứu của Quang Trong Phat (2013) có 75% chủng nhạy với
trimethoprim+sulfamethoxazole. Qua các nghiên cứu cho thấy vi khuẩn kháng
với nhóm kháng sinh này ngày một tăng nhưng việc tìm ra loại thuốc mới
không kịp để khống chế vi khuẩn vì vậy vi khuẩn sẽ kháng lại kháng sinh này
dẫn đến điều trị không hiệu quả.
Trong nghiên cứu này, 12 chủng vi khuẩn đều đa kháng. Hiện tượng đa kháng
thuốc trên vi khuẩn phân lập từ các hệ thống nuôi thủy sản ở ĐBSCL cũng
được Đặng Thị Hoàng Oanh và ctv. (2005) đề cập với khoảng 59% dòng vi
khuẩn (196 dòng) nghiên cứu kháng với 4 hay 5 loại kháng sinh thử nghiệm.
Ngoài ra, theo Miranda and Zemelman (2002) có 74 chủng vi khuẩn phân lập
trên cá hồi nước ngọt tại các trang trại nuôi thủy sản ở Chile có hiện tượng
kháng đồng thời với 6 – 10 loại thuốc kháng sinh.
Bên cạnh sự đa kháng thuốc thì các vi khuẩn V. parahaemolyticus chỉ số đa
kháng (MAR) của 4 tỉnh khảo sát đều lớn hơn 0,2 điều này cho thấy người
nuôi đã sử dụng rất thường xuyên các loại kháng sinh này để điều trị cho tôm
10

nuôi.Theo Lê Đăng Hà (2011), cho rằng việc sử dụng kháng sinh quá rộng rãi

làm xuất hiện vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh. Sự xuất hiện vi khuẩn kháng
thuốc nhanh hơn là tìm ra những thuốc mới có hiệu lực với các vi khuẩn đó.
Hậu quả của vi khuẩn kháng thuốc sẽ làm cho điều trị các bệnh không hiệu
quả, nguy cơ tử vong nhiều hơn, tốn phí trong điều trị, đồng thời có thể xuất
hiện những ổ dịch do vi khuẩn kháng thuốc.
Trong nuôi trồng thủy sản sự hiểu biết của người nuôi về thuốc kháng sinh còn
hạn chế về nhiều mặt. Vì vậy, việc sử dụng kháng sinh không đúng cách dẫn
đến điều trị không có hiệu quả là điều không thể tránh khỏi. Thuốc kháng sinh
sử dụng hiệu quả trong trường hợp trị bệnh nhiễm khuẩn giúp động vật thủy
sản hồi phục lại chức năng sinh lý bình thường và nâng cao tỷ lệ sống nếu sử
dụng đúng liều và đúng lúc. Sử dụng bừa bãi sẽ gây khó khăn cho việc điều trị
về sau, dễ bị bội nhiễm, đôi khi dẫn đến tử vong. Trị liệu bằng kháng sinh
được coi như sự trợ giúp nhất thời khi khả năng chống bệnh suy giảm, vì thế ta
nên tăng cường các biện pháp phòng bệnh hơn là phải trị bệnh ( Bùi Kim Tùng
và ctv., 2001).
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Kết luận
Kết quả phân lập được 38 chủng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus trong ao
nuôi tôm sú và tôm thẻ.
Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ trên 12 chủng vi khuẩn kháng hoàn toàn với
streptomycine, kháng cao với amoxicillin, cephalexin, kháng tương đối cao
với cephazolin, gentamycin, neomycin. Nhạy hoàn toàn với florfenicol và
rifampicin. Nhạy cao với các kháng sinh như norfloxacin, flumequine và nhạy
tương đối cao với trimethoprim+sulfamethoxazole, enrofloxacin ,
doxycycline. Trong trường hợp cấp thiết có thể sử dụng flumequine,
doxycycline, florfenicol để trị bệnh do V. parahaemolyticus gây ra.
Chỉ số đa kháng (MAR) trên 4 tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh
đều lớn hơn 0,2.
Trong 12 chủng vi khuẩn khảo sát đều thể hiện tính đa kháng ít nhất là 3 loại
kháng sinh, nhiều nhất là 8 loại kháng sinh. Đa kháng với 3, 4 và 6 loại kháng

sinh chiếm tỷ lệ cao nhất.



11

Đề xuất
Bên cạnh nghiên cứu này cần có những nghiên cứu sâu hơn về cơ chế kháng
thuốc của vi khuẩn V. parahaemolyticus.
Cần thử nghiệm nhiều loại thuốc kháng sinh để khảo sát tính kháng thuốc một
cách toàn diện.
LỜI CẢM TẠ
Để hoàn thành đề tài tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến anh Nguyễn
Bảo Trung, chị Huỳnh Thị Diễm Trang, chị Đặng Phạm Hòa Hiệp, anh Hồ
Văn Tuấn đã giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn sự hỗ trợ thu mẫu trong thời gian thực hiện đề tài từ Công ty
Vibo và các bạn trong tập thể lớp Bệnh học Thủy Sản K37 đã tận tình giúp đỡ
tôi trong thời gian thực hiện đề tài.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Barrow, I.G and R.K.A. Feltham (Editor), 1993. Cowan and Steel’s manual for the
identification of medical bacteria, 3
th
edn. Cambridge University Press. 351pp.
Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông thôn, 2012. Thông tư số 03/2012/TTBNNPTNT ban
hành ngày 16/01/2012 về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư số 15/2009/TT – BNN ngày
17/3/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành Danh mục thuốc,
hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng, hạn chế sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thủy
sản. Ngày cập nhật: 21/11/2014.
Bùi Kim Tùng, Bùi Kim Hoàng và Bùi Kim Tân, 1997. Thuốc kháng sinh. Sở khoa học công

nghệ và môi trường tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, 287 trang.
Bùi Kim Tùng, Bùi Kim Hoàng và Bùi Kim Tân, 2001. Thuốc kháng sinh. Sở Khoa học
Công nghệ và Môi trường tinhr Bà Rịa-Vũng Tàu. 255 trang.
Buller, B.N, 2004. Bacteria from fish and Other Aquatic Animals- A Practical Identification
Manual. CABI Publishing. 390pp.
Clinical and Laboratory Standard Institute (CLSI), 2011. Methods for broth dilution
susceptibility testing of bacteria isolated from aquatic animals; informational
supplement, M49- A, Clinical and Laboratory Standards Istitute, Wayne, NJ.
Đặng Thị Hoàng Oanh, Nguyễn Thanh Phương, Temdoung Somsiri, Supranee Chinabut,
Fatinah Yussoff, Mohamed Shariff, Kerry Bartie, Geert Huys, Mauro Giacomini,
Stefania Berton, Jean Swings and Alan Teale, 2005. Xác định tính kháng thuốc kháng
sinh của vi khuẩn phân lập từ các hộ nuôi thủy sản ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Việt
Nam. Tạp chí Nghiên Cứu Khoa Học - Đại học cần Thơ. 4: 2005, 136-144.
Diep The Tai, Au Vinh Thuy, Nguyen Thi Ngoc Nhi, Nguyen Thi Kim Ngoc and Nguyen
Thi Phuong Lan, 2010. Virulence and antimicrobial resistance characteristics of Vibrio
parahaemolyticus isolated from environment, food and clinical samples in the south of
Vietnam. Institut Pasteur International Network Annual Scientific Meeting .Volume 5
Supplement 1.
12

Flegel, W. T., 2012. Historic emergence, impact and current status of shrimp pathogens in
Asia. Journal of Invertebrate Pathology 110: 166-173.
Frerichs, G Nicolas and Millar, Stuart D. (1993). Manual for the isolation and
identification of fish bacterial pathogens.
Keyes, K., C. Hudson and J.J. Maurer, 2000. Detection of florfenicol resistance genes in
Escherichia coli isolated from sick chickens. Antimicrobial Agents and
Chemotherapy, 44: 421-424.
Lê Đăng Hà, 2011. Bệnh truyền mhiễm và nhiệt đới. Nhà xuất bản Khoa học Kỹ Thuật.
trang 6- 102.
Lê Hồng Phước, Lê Hữu Tài và Nguyễn Văn Hảo, 2012. Diễn biến của hội chứng hoại tử

gan tụy trong ao nuôi tôm thâm canh ở huyện Trần Đề, Tỉnh Sóc Trăng.
Lê Thị Kim Liên, Nguyễn Quốc Thịnh, Nguyễn Thị Như Ngọc, Phạm Thanh Liêm, 2008.
Bài giảng thuốc và hóa chất trong nuôi trồng thủy sản. Khoa thủy sản. Đại học cần
Thơ. Trang 76. (79 trang).
Lightner, D. V. (2013). Confimation of the infectious nature of the agent of early mortality
syndrome (EMS) affectingfarmed penaeid shrimp in mexico. Asian - pacific
aquaculture, 36: 5 – 10.
Lightner, D.V., Redman, R. M., Pantoja, C. R., Noble, B. L., Loc, T. (2012). Early mortality
syndrome affects shrimp in Asia. Global aquaculture advocate January/February
2012:40.
Mai Văn Tài, 2004. Điều tra đánh giá hiện trạng các loại thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh
học dùng trong nuôi trồng thủy sản nhằm đề xuất các giải pháp quản lý. Viện Nghiên
Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản I. 20 trang.
Miranda, C.D and R. Zemelman, 2002. Antimicrobial multiresistance in bacteria isolated
from freshwater Chilean salmon farms. The Science of the Total Environment. 293:
207-218.
Nguyễn Khang, 2005. Kháng sinh học ứng dụng. Nhà xuất bản y học, Hà Nội. trang 1-116.
Nguyễn Phước Tương và Trần Diễm Uyên, 2000.Sử dụng thuốc và biện dược thú y. Nhà
xuất bản Nông Nghiệp, 314 trang.
Panawala, P. V. S, T. G. Wijewardana, P. Abeynayake , 2005.Antibiotic Susceptibility of
Vibrio spp. Isolated from Diseased Shrimp, Pond water and Water sources in Sri
Lanka: A Preliminary Study. Track 2_2.
Quang Trong Phat, 2013. Identification and antibiotic sensitivity of vibrio bacteria isolated
from shrimp with acute hepatopancreatic necrosis syndrome. A thesis submitted in
partial fulfillment of the requirements for the degree of Bachelor of science in
Aquaculture.
Sarter, S., Nguyen, H. N. K., Hung, L. T., Lazard, J. and Montet, D. 2007. Antibiotic
resistance in Gram-negative bacteria isolated from farmed catfish. Food Control, 18:
1391–1396.
Từ Thanh Dung, 2005. Bài giảng bệnh học thủy sản. Khoa thủy sản. Đại học Cần Thơ. 162

trang.
Từ Thanh Dung, 2008. Bài giảng bệnh vi khuẩn trên động vật thủy sản. Khoa Thủy Sản.
Trường Đại học Cần Thơ. 127 trang.

×