Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.3 KB, 15 trang )

Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 1 HV thực hiện: Ngu yễn Thò Ngoïc
Quyeân


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG

 


TIỂU LUẬN NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


Tiểu luận

Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của
các NHTM ở Việt Nam


Giảng viên hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
Học viên thực hiện:
Lớp: Cao Học – Ngân Hàng – Ngày 1
Khóa: 17




Thành Phố Hồ Chí Minh, năm 2008


Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 2 HV thực hiện: Ngu yễn Thò Ngoïc
Quyeân


1. Lý luận chung về cho vay doanh nghiệp:
1.1Các vấn đề chung về cho vay doanh nghiệp
1.1.1 Các khái niệm:
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Thời hạn nhất định ở đây chính là thời hạn cho vay.
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tình từ khi khách hàng bắt đầu nhận
vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vay vốn đã được thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Dựa vào thời gian, có thể chia cho
vay doanh nghiệp thành cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng.
- Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60
tháng.
- Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên.
1.1.2 Các nguyên tắc vay:
1.1.2.1 Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng:
Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì do hai bên, ngân hàng và khách hàng, thỏa
thuận và ghi trong hợp đồng tín dụng. Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích thỏa
thuận nhằm bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay sau này. Do
vậy, về phía ngân hàng trước khi cho vay cần tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của khách
hàng, đồng thời phải kiểm tra xem khách hàng có s ử dụng vốn vay đúng như mục đích
đã cam kết hay không. Điều này rất quan trọng vì việc sử dụng vốn vay đúng mục đích
hay không có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu hồi nợ sau này. Việc khách hàng sử
dụng vốn vay không đúng mục đích dễ dẫn đến thất thoát và lãng phí khiến vốn vay

không tạo ra được ngân lưu để trả nợ cho ngân hàng.
Về phía khách hàng, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn vay, đồng thời giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng hoàn trả nợ cho
Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 3 HV thực hiện: Ngu yễn Thò Ngoïc
Quyeân

ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín khách hàng đối với ngân hàng và củng cố quan hệ
giữa khách hàng và ngân hàng sau này.
1.1.2.2 Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng:
Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay là một nguyên tắckhông thể thiếu trong hoạt động
cho vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng
sử dụng để cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy
động từ khách hàng gửi tiền, do đó, sau khi cho vay trong một thời hạn nhất định, khách
hàng vay tiền phải hoàn trả lại cho ngân hàng để ngân hàng hoàn trả lại cho khách hàng
gửi tiền. Hơn nữa bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời
quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả, cả
gốc và lãi.
1.1.3 Điều kiện và mục đích vay:
Các điều kiện vay:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân
sự theo quy định của pháp luật;
- Có mục đích vay vốn hợp pháp;
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết;
- Có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả;
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và
hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên, các điều kiện vay vốn trên chỉ là hướng dẫn chung cần thiết cho các
NHTM. Khi cụ thể hóa các điều kiện cho vay này, các ngân hàng Thương mại (NHTM)

có thể cụ thể hóa và đặt ra các điều kiện riêng của mình. Các NHTM khi cho vay yêu cầu
khách hàng phải có mục đích vay vốn hợp pháp và cam kết sử dụng vốn đúng mục đích
đã thỏa thuận.
1.1.4 Hồ sơ vay vốn:
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi tổ chức tín dụng một bộ hồ sơ vay vốn
bao gồm giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn.
Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các
Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 4 HV thực hiện: Ngu yễn Thò Ngoïc
Quyeân

tài liệu cho tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng hướng dẫn các loại tài liệu khách hàng
cần gửi tổ chức tín dụng với đặc điểm cụ thể của từng loại khách hàng, lạo cho vay và
khoản vay. Thông thường bộ hồ sơ vay vốn gồm có:
- Giấy đề nghị vay vốn;
- Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng, chẳng hạn như giấy phép
thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, điều lệ hoạt động, …;
- Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, hoặc dư án đầu tư;
- Báo cáo tài chính của thời kỳ sản xuất;
- Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh nợ vay;
- Các giấy tờ liên quan khác nều cần thiết.
Tuy nhiên, khi cụ thể hóa hồ sơ vay vốn, các NHTM có thể yêu cầu khách hàng
nộp cho ngân hàng những tài liệu cần thiết phù hợp với đặc điểm hoạt động của từng
ngân hàng.
1.1.5 Thẩm định và quyết định cho vay:
Thẩm định và quyết định cho vay là khâu rất quan trọng toàn bộ quy trình tín
dụng.
Để có căn cứ ra quyệt định cho vay hay không cho vay, các tổ chức tín dụng đều
có xây dựng quy trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân
định rõ rang trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho

vay. Khi thẩm định, tổ chức tín dụng sẽ xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự
án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục
vụ đời sống và khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng để quyết định cho vay. Tổ chức
tín dụng quy định cụ thể va 2nie6m yết công khai thời hạn tối đa phải thong báo quyết
định cho vay hoặc không cho vay đối với khách hàng, kề từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ
vay vốn và thông tin cần thiết cảu khách hàng. Trường hợp quyết định không cho vay, tổ
chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản, trong đó nêu rõ căn cứ từ
chối cho vay. Trường hợp quyết định cho vay, tổ chức tín dụng và khách hàng sẽ ký kết
hợp đồng tín dụng và thực hiện các khâu tiếp theo của quy trình tín dụng .
1.1.6 Hợp đồng tín dụng:
Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 5 HV thực hiện: Ngu yễn Thò Ngoïc
Quyeân

Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành hợp
đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng
vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm,
giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa
thuận. Ngoài ra, hợp đồng tín dụng cũng cấn nêu rõ quyền và nghĩa vụ của hai bên:
khách hàng và ngân hàng.
1.1.7 Giới hạn và hạn chế cho vay:
Các giới hạn tín dụng khi cho vay ngắn hạn bao gồm:
- Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự
có của ngân hàng, trừ trường h ợp đối với những khoản cho vay từ nguồn vốn uỷ thác của
Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp vượt quá 15% vốn tự có của ngân
hàng thì các ngân hàng có thể cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Trong trường hợp đặc biệt, ngân hàng chỉ được cho v ay vượt qua mức giới hạn
cho vay theo quy định khi Chính phủ cho phép đối với các trường hợp cụ thể.
- Việc xác định vốn tự có của các ngân hàng để làm căn cứ tính toán giới hạn cho
vay được thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Ngoài ra, còn một số hạn chế như ngân hàng không được cho vay không có bảo
đảm, cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, về mức cho vay đối với những đối
tượng sau:
- Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán tại tổ chức tín dụng
cho vay; Thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại tổ chức tín dụng cho vay; Kế
toán trưởng của tổ chức tín dụng cho vay.
- Các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng.
- Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định của Luật các Tổ chức tín
dụng sỡ hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó.
1.1.8 Những trường hợp không cho vay:
- Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó
Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng;
- Cán bộ, nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định,
quyết định cho vay;
Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 6 HV thực hiện: Ngu yễn Thò Ngoïc
Quyeân

- Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng
giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng.
1.2 Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp:
1.2.1 Xác định nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp:
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp cần đầu tư vốn vào tài sản lưu động và
tài sản cố định. Về nguyên tắc, doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn ngắn hòn hoặc
dài hạn để tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động. Tuy nhiên, do nhu cầu vốn dài
hạn để đầu tư vào tài sản cố định rất lớn nên thông thường doanh nghiệp khó có thể sử
dụng nguồn vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản lưu động. Do vậy, để đầu tư vào tài sản lưu
động, doanh nghiệp thường phải sử dụng nguồn vốn ngắn hạn. Các nguồn vốn ngắn hạn
mà doanh nghiệp thường sử dụng để tài trợ cho tài sản lưu động gồm: các khoản nợ phải
trả người bán; các khoản ứng trước của người mua; thuết và các khoản phải nộp Nhà

nước; các khoản phải trả cán bộ nhân viên; các khoản phải trả khác; vay ngắn hạn từ
ngân hàng.
Về nguyên tắc, doanh nghiệp nên tận dụng và huy động tất cả các nguồn vốn ngắn
hạn mà doanh nghiệp có thể tận dụng được. Khi nào thiếu hụt. doanh nghiệp mới nên sử
dụng nguồn tài trợ ngắn hạn của ngân hàng. Sự thiếu hụt vốn ngắn hạn của doanh nghiệp
có thể do sự chênh lệch về thời gian và doanh số giữa tiền thu bán hàng và tiền đầu tư
vào tài sản lưu động hoặc do nhu cầu gia tăng đầu tư tài sản lưu động đột biến theo thời
vụ. Do vậy, nhu cầu tài trợ ngắn hạn của doanh nghiệp được chia thành: nhu cầu tài trợ
ngắn hạn thường xuyên và nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ. Nhu cầu tài trợ thường
xuyên do đặc điểm luân chuyển vốn của doanh nghiệp quyết định trong khi nhu cầu tài
trợ thời vụ do đặc điểm thời vụ của ngành sản xuất kinh doanh quyết định.
1.2.2 Phương thức cho vay ngắn hạn:
- Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và NHTM thực hiện thủ tục vay
vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Đặc điểm của cho vay từng lần là mỗi lần
khách hàng vay món nào thì phải làm hồ sơ vay món đó. Như vậy, nếu trong một quý
khách hàng có bao nhiêu món vay, thì khách hàng phải làm bấy nhiêu hồ sơ xin vay. Bộ
phận tín dụng tiến hành phân tích hồ sơ xin vay và xem xét cho vay đối với từng hồ sơ cụ
thể. Cách thức phát tiền vay, thu nợ và thu lại được thực hiện như sau:
+ Phát tiền vay: theo hợp đồng tín dụng, ngân hàng phát dần tiền vay theo yêuc ầu
của khách hàng, quá trình phát tiền vay còn gọi là giải ngân. Khi giải ngân khoản tiền
Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 7 HV thực hiện: Ngu yễn Thò Ngoïc
Quyeân

vay được chuyển trả thẳng cho nhà cung cấp hoặc có ghi Có vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng nếu khách hàng có yêu cầu chính đáng và ghi Nợ số tiền vay vào tài khoản
cho vay của ng ân hàng.
+ Thu nợ và lãi: theo phương thức cho vay từng lần, nợ gốc và lãi thu cùng một
thời điểm. Tiền lãi ngân hàng sẽ thus au khi tính toán trên số dư ổn định, theo công thức:
Lãi tiền vay = Số tiền vay x Lãi suất vay x Thời hạn vay

+ Phạm vi áp dụng: khách hàng vay không thường xuyên, khách hàng vay thường
xuyên nhưng chưa được ngân hàng tín nhiệm cho áp dụng hạn mức tín dụng, thường áp
dụng cho các khoản vay dài hạn hoặc cho vay các dự án, thường yêu cầu khách hàng
phải có đảm bảo.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: NHTM và khách hàng xác định và thảo thuận một
hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Đặc điểm của phương thức
này là khách hàng chỉ cần lập một bộ hồ sơ vay vào đầu kỳ kế hoạch có thể sử dụng cho
nhiều món vay.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất
định mà ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Khác với loại vay từng lần, ngân hàng không xác định kỳ hạn nợ cho từng món
vay mà chỉ khống chế theo hạn mức tìn dụng có nghãi là vào một thời điểm nào đó nếu
dư nợ vay của khách hàng lên đến mức tối đa cho phép, thì khi đó ngân hàng sẽ không
phát triển vay cho khách hàng.
Phạm vi áp dụng: cho khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên và được ngân
hàng tín nhiệm. Trường hợp này, ngân hàng không yêu cầu đảm bảo tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng có những ưu điểm: thủ tục đơn giản, khách hàng
chủ động được nguồn vốn vay, lãi vay trả cho ngân hàng thấp. Tuy nhiên, cũng có nhược
điểm: ngân hàng dễ bị đọng vốn kinh doanh, thu nhập lãi cho vay thấp.
1.3Cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp:
1.3.1 Mục đích của tín dụng trung và dài hạn:
Cho vay trung hạn là các khảon cho vay có thời hạn cho vay đến 60 tháng, cho vay
dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ 60 tháng trở lên. Mục đích của cho
vay trung và dài hạn là nhằm đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp hoặc đầu tư
Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 8 HV thực hiện: Ngu yễn Thò Ngoïc
Quyeân

vào các dự án đầu tư. Mục đích của tín dụng trung và dài hạn được xem xét trên hai góc
độ:

Đối với khách hàng: các doanh nghiệp có nhu cầu vay trung và dài hạn nhằm để
tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư vào một phần tài sản lưu động
thường xuyên.
Đối với ngân hàng: tín dụng trung và dài hạn là một hình thức cấp tín dụng góp
phần đem lại lợi nhuận cho hoạt động ngân hàng.
1.3.2 Thủ tục, phương thức cho vay trung và dài hạn:
Để vay vồn trung và dài hạn của ngân hàng, khách hàng phải lập và nộp bộ hồ sơ
vay vốn. Hồ sơ vay vốn cũng tương tự như là hồ sơ vay vốn ngắn hạn chỉ khác chỗ khách
hàng phải lập và nộp cho ngân hàng dự án đầu tư vốn dài hạn, thay vì nộp cho ngân hàng
phương án sản xuất kinh doanh hoặc kế hoạch vay vốn như khi vay ngắn hạn.
Về phương thức cho vay trung và dài hạn: dựa vào mục đích vay, ngân hàng có thể
cho khách hàng vay vốn dài hạn để đầu tư mua sắm tài sản cố định như máy móc thiết bị
hoặc cho khách hàng vay vốn dài hạn để đầu tư vào một dự án đầu tư.













Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 9 HV thực hiện: Ngu yễn Thò Ngoïc
Quyeân






2 THỰC TRẠNG CHO VA Y KÍCH CẦU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CỦA
CÁC NHTM Ở VIỆT NAM
Hiện nay, các ngân hàng trên địa bàn đang chạy đua cho vay nhằm đẩy mạnh tăng trưởng
tín dụng,giải quyết một phần vốn ế và góp phần kích cầu như mục tiêu chính phủ đặt ra.
3 quý đầu năm 2008, khi NHNN siết chặt tín dụng để kiềm chế lạm phát, các NH đã hạn
chế cho vay NH đang “thừa” vốn khả dụng, mặt bằng lãi suất cho vay trên địa bàn đã
giảm, các NH đang áp dụng chính sách ưu đãi về vốn, lãi suất và các dịch vụ NH…
nhưng tăng trưởng dư nợ cho vay trên địa bàn rất thấp. Tính đến cuối tháng 11-2008,
tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn đạt 12.282 tỷ đồng, tăng
21% so với đầu năm; trong khi đó, tổng dư nợ cho vay mới chỉ đạt 11.363 tỷ đồng, tăng
11,4% so với đầu năm, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng bình quân của cả nước
(bình quân cả nước gần 25%). Vì vậy, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, nhất là các biện
pháp ngăn chặn lạm phát đã phát huy có hiệu quả, cần phải thực hiện kích cầu tiêu dùng,
gia tăng hàng hóa trên thị trường nội địa,kích cầu đối với các doanh nghiệp thông qua
chính sách tín dụng mềm dẻo của NH
Thế nhưng trong những tháng cuối năm 2008, khi các chính sách thắt chặt tín dụng dần
được nới lỏng, các NH đã mở cửa tái cho vay. Trong khối các NH thương mại quốc
doanh, NH Đầu tư và Phát triển (BIDV) Chi nhánh Khánh Hòa là NH đi đầu trong việc
giảm lãi suất cho vay. Hiện nay lãi suất cho vay ngắn hạn của Chi nhánh BIDV Khánh
Hòa tối đa là 11,4% (0,95%/tháng), lãi suất cho vay trung dài hạn tối đa là 14%/năm
(1,17%/tháng). Ngoài việc giảm lãi suất, BID V còn đưa ra những chính sách tín dụng
khá hấp dẫn. Ông Nguyễn Đôn Minh, Giám đốc Chi nhánh BIDV Khánh Hòa cho biết:
“Sau khi nhận định t ình hình mới, lãnh đạo BIDV đã có một số chỉ đạo công tác tín dụng
cuối năm với mục tiêu vừa kiểm soát chất lượng tín dụng, vừa tháo gỡ, cơ cấu lại nợ để
hỗ trợ khách hàng phục hồi sản xuất kinh do anh (SXKD), trong đó có chủ trương gia
tăng tín dụng đối với các doanh nghiệp để kích cầu thị trường . Với điều chỉnh mới này,

BIDV hy vọng tín dụng trong tháng 12 này sẽ tăng đáng kể”. Trong khối NH thương mại
cổ phần, phải kể đến NH Ngoại thương (Vietcombank) và NH Á Châu (ACB). Hiện
Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 10 HV thực hi ện: Nguyễn Thò Ngoïc
Quyeân

Vietcombank đã giảm lãi suất cho vay ưu đãi xuống mức thấp nhất là 11%/năm, lãi suất
thông thường 13%, ngang với thời kỳ giữa năm 2007.
Với những động thái tích cực này, có thể thấy, các NH đang thực sự đẩy mạnh cho vay
nhằm kích thích tăng trưởng tín dụng, giải quyết một phần “vốn ế” và góp phần kích cầu
như mục tiêu Chính phủ đặt ra.
Trong bài viết đăng trên Báo Quân đội nhân dân ngày2-1, Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng cho biết: Chính phủ sẽ kiến nghị dành 17 nghìn tỷ đồng để bù khoảng
40% lãi suất thương mại nhằm huy động một lượng khá lớn tín dụng với lãi suất thấp để
hỗ trợ các doanh nghiệp.
Trước đó, tại Hội nghị ngành Ngân hàng triển khai kế hoạch 2009, vấn đề kích cầu
qua lãi suất đã được thảo luận sôi nổi. Đây là chủ trương mới, thu hút sự quan tâm của
rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam.
Theo báo cáo chiều2-1-2009 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về tình hình thị
trường tài chính tiền tệ trong tuần cuối cùng của năm 2008 thì lãi suất giao dịch bình
quân bằng đồng Việt Nam (VNĐ) trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng ở hầu hết các kỳ
hạn đều có xu hướng giảm, ngoại trừ lãi suất giao dịch kỳ hạn 12 tháng tăng nhẹ so với
lãi suất giao dịch tuần trước đó. Cụ thể: Lãi suất bình quân cho vay qua đêm là
6,72%/năm, một tuần là 7,33%/năm, 2 tuần là 8,03%/năm, một tháng là 8,78%/năm, 3
tháng là 9,89%/năm, 6 tháng là 10,55%/năm và kỳ hạn một năm là 10,98%/năm. Lãi suất
giao dịch bình quân các kỳ hạn bằng đồng đô-la Mỹ (USD) ở các kỳ hạn một tuần và 2
tuần có xu hướng giảm, trong khi lãi suất giao dịch các kỳ hạn còn lại có xu hướng tăng
nhẹ so với tuần trước đó. Lãi suất giao dịch USD trong tuần phổ biến ở các mức dưới
3,05%/năm, lãi suất cho vay qua đêm 0,84%/năm, lãi suất các kỳ hạn một tuần trở lên
dao động trong khoảng 1,31% đến 3,04%/năm.

Theo ý kiến của nhiều chuyên gia tài chính t iền tệ, trong bối cảnh hiện nay, mức
lãi suất nói trên là tương đối hợp lý.
Có thể nói chưa có năm nào, lãi suất ngân hàng lại biến động mạnh như năm 2008.
Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Các tổ
chức tín dụng cũng liên tục thay đổi lãi suất tiền gửi và cho vay. Lãi suất cho vay của các
tổ chức tín dụng bằng đồng Việt Nam giữa năm 2008 đạt đỉnh ở mức từ 23% đến
24%/năm, đến cuối năm g iảm xuống, ở mức thấp nhất chỉ còn 8,5%/năm; lãi suất huy
động cũng đạt đỉnh 20%/năm và hiện đang đứng quanh mức từ 8 đến 9%/năm. Mức lãi
Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 11 HV thực hi ện: Nguyễn Thò Ngoïc
Quyeân

suất này tương đương với thời điểm trước khi bước vào lạm phát (từ cuối năm 2007 trở
về trước).
Tuy nhiên, các NH cũng thừa nhận: Hiện nay hoạt động cho vay… không dễ. Thứ nhất,
lãi suất cho vay tuy đã giảm khá sâu so với mức đỉnh 21%/năm, nhưng vẫn còn quá sức
chịu đựng của người tiêu dùng và DN. Theo thăm dò, lãi suất cho vay cần được giảm
thêm và đầu năm tới phải về mức 10%/năm như mức của năm 2006. Có như vậy, DN và
người tiêu dùng mới dám nghĩ đến việc vay vốn NH để SXKD cũng như chi tiêu. Thứ
hai, tuy chính sách cho vay đã mềm dẻo hơn nhưng khách hàng tiếp cận nguồn vốn vẫn
không dễ. Bởi lẽ, phần lớn các DN vừa và nhỏ ở Khánh Hòa là các DN nhỏ và siêu nhỏ,
tài sản thế chấp để vay vốn NH không có, mức độ tín nhiệm tài chính chưa cao, không
thể đáp ứng các yêu cầu từ phía NH; mà NH cũng là một DN, vì vậy, trong những trường
hợp rủi ro cao, NH “ngại” cho vay cũng là điều dễ hiểu.
Về phía các doanh nghiệp,họ cũng ngần ngại đi vay vì một số lãnh đạo ngân
hàng cho rằng mức lãi suất cơ bản 8,5% hiện nay là hợp lý, nếu giảm tiếp, ngân hàng sẽ
gặp khó khăn. Trong khi đó, nhiều giám đốc doanh nghiệp lại cho rằng, với lãi suất cơ
bản như vậy, lãi suất cho vay tối đa có thể đến 12,75%/năm, trong bối cảnh nền kinh tế
tăng trưởng chậm lại, chỉ số giá tiêu dùng giảm, doanh nghiệp vẫn chưa dám vay vốn

ngân hàng.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, cả năm 2008, tổng phương tiện thanh toán
tăng ở mức khoảng từ 16% đến 17%, tổng dư nợ tín dụng tăng khoảng từ 21% đến 22%
trong khi con số tương ứng của năm 2007 là 43,7% và 53,7%. Điều này cho thấy khu vực
sản xuất rất khó khăn tiếp cận vốn vay. Có một thực tế là nhiều doanh nghiệp đang "nghe
ngóng" chờ ngân hàng giảm tiếp lãi suất mới tiến hành vay vốn. Vì thế hiện có tình trạng
ngân hàng dư tiền, trong khi đó doanh nghiệp lại thiếu vốn.
Thực tế thì đúng là những DN không đủ điều kiện vay (không có TS thế chấp,
nhiều hàng tồn đọng chưa tiêu thụ, không có thị trường, nợ xấu ) thì khó tiếp cận được
với vốn NH, vì theo một TGĐ NHTMCP: "NH có thể hạ LS chứ không thể hạ điều kiện
cho vay, nhất là trong bối cảnh kinh tế diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay, NH
cũng phải tồn tại.

Một TGĐ NH khác nói: "DN có tồn tại thì NH mới tồn tại, không NH nào muốn dồn DN
vào khó khăn cả. DN hiện nay theo tôi có 3 đối tượng chính . Một là những DN có cho
vay 0% cũng không thể giúp phục hồi được mà chỉ mất vốn. Hai là những DN chưa tiếp
cận vốn tín dụng (do họ chưa đặt quan hệ hoặc còn thiếu một số điều kiện). Ba là những
DN đang vay, đang hoạt động bình thường".
Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 12 HV thực hi ện: Nguyễn Thò Ngoïc
Quyeân


Nhưng những DN đang hoạt động bình thường là những DN quản lý tài chính thận trọng .
Vì vậy, trước những dự báo khó khăn năm 2009, những DN này nếu đã vay tiền với LS
cao rồi thì tìm mọi cách thu xếp để trả nợ sớm, gắng tự xoay xở với vốn tự có, hạn chế
vay để giảm chi phí trả lãi. DN nào có vay thì cũng chỉ vay ngắn hạn, món nhỏ. Nhiều
DN chưa (hoặc không có) kế hoạch mở rộng sản xuất-kinh doanh trong năm 2009. Đây
là một lo ngại rất lớn cho hoạt động tín dụng NH tới đây.
Tại hội ngh ị toàn ngành ngành ngân hàng triển khai kế hoạch năm 2009 (diễn ra

vào ngày 30-12-2008), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã đề nghị các ngân
hàng cố gắng giảm lãi suất cho v ay để chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp. Với các hợp
đồng vay vốn lãi suất cố định trước đây, Thủ tướng cũng đề nghị các ngân hàng bàn bạc
với doanh nghiệp để giảm xuống. Khi có nghị quyết chính thức của Quốc hội về gói kích
cầu đầu tư và tiêu dùng, Chính phủ sẽ giao Ngân hàng Nhà nước lên kế hoạch triển khai,
song cũng cần kiểm soát chặt chẽ để bảo đảm sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí.
Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, với dự kiến của Chính phủ, gói kích cầu 1 tỷ
USD (tương đương 17 nghìn tỷ đồng) sẽ xem xét hỗ trợ các doanh nghiệp, tập trung cho
các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Số tiền này thực chất là "tiền mồi" được dùng để bù lãi
suất (dự kiến 4%) thông qua hệ thống ngân hàng. Nếu thực hiện chính sách này, ước tính
sẽ có khoảng 420.000 tỷ đồng vốn cho vay ưu đãi.
Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu, trong khi chờ đợi gó i
kích cầu 1 tỷ USD, các tổ chức tín dụng trong nước cần chủ động tiến hành kích cầu qua
lãi suất, cải cách các thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh
nghiệp vay vốn.Đã có những chủ trương , nghị quyết, chỉ thị và đã có NH đi tiên phong
trong việc giảm lãi suất cho vay xuống mức thấp hơn lãi suất cơ bản đến 2%, nhưng tình
hình cho vay của các NH vẫn chưa thể khả quan.









Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 13 HV thực hi ện: Nguyễn Thò Ngoïc
Quyeân








3.GIẢI PHÁP CHO VAY KÍCH CẦU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
CỦA CÁC NHTM Ở VIỆT NAM
Theo ý kiến chung của nhiều DN và NH thì vấn đề mấu chốt hiện nay là Chính phủ nên
có các giải pháp cụ thể, quyết liệt kích cầu đầu tư và tiêu dùng, khơi thông đầu ra cho sản
xuất-kinhdoanh.

Chỉ khi có thị trường tiêu thụ thì DN mới tăng nhu cầu vay vốn, đẩy mạnh SX-KD, mới
có lợi nhuận để trả nợ và mở rộng sản xuất. Nếu chỉ nhấn mạnh đến chính sách tín dụng,
đặc biệt là LS thì đây không phải là "nút thắt" hiện nay trong tháo gỡ khó khăn để đẩy
mạnh sản xuất kinh doanh và XK
Cần thực hiện bảo lãnh tín dụng cho các DN vừa và nhỏ khi vay vốn các tổ chức tín dụng
để SXKD. Có thể ví đây là liều thuốc mạnh để kích cầu trong tình hình hiện nay. Vì với
sự bảo lãnh của NHTM, DN vừa và nhỏ sẽ có cơ hội vay vốn đầu tư SXKD, thay đổi
công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, cạnh tranh để gia tăng hàng hóa trên thị trường
nội địa, kích thích tiêu dùng.
Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
tiếp cận vốn, nhất là doanh ngh iệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp ở
các làng nghề, các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ trực tiếp đời sống nhân
dân, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; ưu tiên các giải pháp đẩy
mạnh sản xuất nông nghiệp, thủy hải sản tạo điều kiện thuận lợi để nông dân có tích lũy
từ sản xuất nông nghiệp. Giao Chính phủ xây dựng phương án cụ thể hỗ trợ các doanh
nghiệp thông qua các chính sách tài chính, thuế phù hợp với nh ững cam kết gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO). Nghiên cứu việc thành lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp
gặp nhiều khó khăn và để đối phó với khủng hoảng tài chính trong trường hợp cần th iết.

Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 14 HV thực hi ện: Nguyễn Thò Ngoïc
Quyeân

Chính phủ nên bỏ lãi suất trần để cởi trói cho thị trường tín dụng, góp phần kích cầu
trong nước đối với các doanh nghiệp,dỡ bỏ trần lãi suất để các ngân hàng thương mại
được th ực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuận trong khuôn khổ của Luật Ngân hàng
Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng đã quy định.Lãi suất vay do các bên thỏa thuận
nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố”;
quy định này không điều chỉnh các quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Tổ chức
tín dụng hoạt động theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín
dụng. Nguyên nhân cởi bỏ lãi suất trần là do việc khống chế trần lãi suất cho vay như
thời gian qua là một biện pháp can thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị
trường, làm hạn chế sự chủ động và linh hoạt của các ngân hàng thương mại trong vấn đề
huy động vốn và cho vay. Vì lãi suất (giá cả) hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vốn
của thị trường. M ức lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng được xác định trên cơ sở
lãi suất tiền gửi, chi phí huy động vốn, chi phí cho vay, uy tín của khách hàng, mức độ
rủi ro của từng khoản vay và yếu tố cạnh tranh trên thị trường.
Thứ hai, việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng lãi suất của các loại hình
tín dụng làm cho các ngân hàng rất khó đa đạng hóa các sản phẩm dịch vụ, vì mỗi loại
hình tín dụng có mức độ rủi ro khác nhau, chi phí khác nhau, vì vậy lãi suất cho vay khác
nhau, lãi suất tín dụng tiêu dùng và tín dụng bán lẻ khác với lãi suất cho vay doanh
nghiệp và các loại hình tín dụng thông thường. Mặt khác, chính sách lãi suất trần cứng
nhắc cũng làm hạn chế sự phát triển của các dịch vụ tài chính mới của các ngân hàng như
tín dụng bán lẻ, tín dụng tiêu dùng, đây là những sản phẩm tất yếu của ngân hàng hiện
đại.
Thứ ba, để kiểm soát sự biến động b ất thường của lãi suất trên thị trường t iền tệ, NHNN
đã có các công cụ để kiểm soát như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, nghiệp vụ
thị trường mở và điều hành khối lượng tiền cung ứng mà không cần giải pháp hành chính
cứng nhắc như điều 476 của Bộ Luật dân sự đã quy định.

Thứ tư là Nghị quyết số 23/2008/NQ-QH12 ngày 6/11/2008 của Quốc hội khóa XII, kỳ
họp thứ tư, trong đó có cho phép “Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho vay trên cơ
sở lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của pháp luật và được phép
cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả
cao”.Vì vậy để thực hiện Ngh ị quyết trên của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Ngh ị
quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những biện pháp cấp bách nhằm ngăn
chặn suy giảm kinh tế, trong đó đã cho phép “Tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay
theo lãi suất thỏa thuận "
Vì vậy, để thực hiện thành công các giải pháp kích cầu của Chính phủ đối với các doanh
nghiệp, cần thiết phải cho phép các ngân hàng thương mại thực hiện cho vay theo lãi suất
Đề tài: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam K17_NH ngày 1
GVHD: TS Lại Tiến Dĩnh Page 15 HV thực hi ện: Nguyễn Thò Ngoïc
Quyeân

thỏa thuận để góp phần thúc đẩy phát triển phong phú các loại hình dịch vụ, tín dụng,
kích thích sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước phát triển.

×