1
Luận văn
Quản lý rủi ro tận dụng tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn tỉnh Kon Tum -
Thực trạng và giải pháp
2
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tín dụng là hoạt động chủ yếu và là mối quan tâm hàng đầu trong hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Mặt khác, trong điều kiện cụ
thể ở nước ta hiện nay cũng như trong thời gian tới, nguồn vốn tín dụng ngân
hàng thương mại là nguồn vốn quan trọng, đóng vai trò chủ lực của các doanh
nghiệp và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy việc quản lý nhằm
giảm thiểu rủi ro có ý nghĩa quyết định đến hoạt động kinh doanh của một
ngân hàng, một hệ thống ngân hàng thương mại và thậm chí đối với cả nền
kinh tế.
Trong một số năm trở lại đây, vấn đề quản lý rủi ro tín dụng được các
ngân hàng thương mại hết sức quan tâm, đã đạt được những thành tựu quan
trọng, đã khắc phục về cơ bản những hạn chế, yếu kém và đã có những bài
học quan trọng từ việc buông lỏng quản lý rủi ro tín dụng. Riêng đối với Chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Kon Tum cũng
vừa thoát ra khỏi khó khăn do nợ xấu (cả nợ khoanh) đã chiếm trên 24% một
số năm trước đây, đến nay đã giảm xuống còn gần 1,44% trên tổng dư nợ.
Hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh đã được cải thiện, cùng với những kinh
nghiệm quý báu trong công tác quản lý rủi ro tín dụng.
Nhìn lại quá trình hoạt động kinh doanh của mình, Chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Kon Tum đã rút ra được những hạn
chế, những thiếu sót trong quản lý rủi ro tín dụng, những vấn đề cần phải tập
trung khắc phục trong công tác quản lý rủi ro tín dụng như: Chưa có bộ máy
chuyên trách để quản lý; Quy trình và phương pháp quản lý không đồng bộ,
chưa có chiến lược rõ ràng; Chưa có biện pháp cụ thể để phòng ngừa; Chưa tổ
3
chức được hệ thống thông tin Vì thế mà rủi ro tín dụng trong từng chi nhánh
và cả hệ thống NHNo&PTNT Kon Tum luôn ở mức báo động thời gian qua.
Ngày nay trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, kinh tế của từng
địa phương cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân cần phải khai thác và sử
dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thì nhu cầu vốn là rất lớn, nhu cầu mở rộng nguồn vốn tín
dụng là tất yếu. Mặt khác mức độ cạnh tranh của nền kinh tế sẽ rất quyết liệt,
nguy cơ rủi ro tín dụng là rất lớn, tăng cường công tác quản lý rủi ro tín dụng
trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Vì những lý do đó nên tìm những giải pháp để hạn chế rủi ro tín dụng
tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Kon Tum là vấn đề bức xúc, vừa có ý nghĩa
trước mắt và ý nghĩa lâu dài, đáp ứng yêu cầu mục tiêu phát triển ổn định, bền
vững, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đó là lý do mà học viên chọn đề tài "
Quản lý rủi ro tớn dụng tại Chi nhỏnh Ngõn hàng Nụng nghiệp và Phỏt
triển Nụng thụn tỉnh Kon Tum - Thực trạng và giải phỏp ".
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hoạt động tín dụng có vai trò quan trọng không những trong hệ thống
các ngân hàng thương mại mà nó còn có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế
quốc gia nên đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý rủi ro tín dụng
như: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong giai đoạn hiện nay, của tác giả
Trần Trung Tường (2005); Tín dụng và nghiệp vụ ngân hàng thương mại, của
tác giả Nguyễn Đăng Đờn, Hoàng Đức, Trần Huy Hoảng, Trường Đại học
Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (1997);
Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu thường tập trung vào
vấn đề lý luận, đánh giá chung để tìm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng chứ chưa đi sâu vào phân tích và đề xuất các giải pháp để quản lý rủi ro
tín dụng có hiệu quả theo chuẩn mực để đáp ứng yêu cầu và xu thế hội nhập
4
trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt khi Việt Nam chính thức trở thành thành
viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Trên địa bàn tỉnh Kon Tum, đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về
quản lý rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu là trên cơ sở lý luận và những vấn đề thực
tiễn về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo&PTNT
tỉnh Kon Tum nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm, ứng dụng giải pháp cụ
thể để nhằm nâng cao năng lực nhận dạng, phân tích, đánh giá, kiểm tra, giám
sát, xử lý để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro tín dụng.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
+ Xây dựng khung lý thuyết, hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản
về quản lý rủi ro tín dụng.
+ Phân tích thực trạng về hoạt động tín dụng, rủi ro tín dụng và quản lý
rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
tỉnh Kon Tum, rút ra những nguyên nhân tồn tại và bài học kinh nghiệm.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh
NHNo&PTNT Kon Tum.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích thực trạng rủi
ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Kon Tum. Rủi ro tín dụng đề
cập trong luận văn là những rủi ro trong việc cấp tín dụng, bao gồm nghiệp vụ
cho vay và nghiệp vụ bảo lãnh. Các nghiệp vụ như cho thuê tài chính, chiết
khấu và các nghiệp vụ khác không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Số liệu thu thập, sử dụng trong nghiên cứu, phân tích, đánh giá và minh
chứng trong đề tài là tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Kon Tum trong khoảng
5
thời gian từ năm 2000 - 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, luận văn chủ yếu áp dụng phương pháp nghiên
cứu chuyên ngành như thống kê, so sánh, phân tích - tổng hợp
Ngoài ra, từ những vấn đề lý luận kết hợp với thực tiễn cũng như kinh
nghiệm quản lý theo chuẩn mực quốc tế để đề ra giải pháp cho công tác quản
lý rủi ro tín dụng.
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và quản
lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại.
- Khái quát những quy định chủ yếu của pháp luật hiện hành liên quan
đến hoạt động tín dụng.
- Nêu một số vấn đề về quản lý rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế,
một số kinh nghiệm quốc tế về quản lý rủi ro tín dụng
6.2. Về mặt thực tiễn
+ Nâng cao năng lực quản lý rủi ro tín dụng cho cán bộ tại Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Kon Tum.
+ Nhận dạng rủi ro tín dụng đặc thù tại địa phương và biện pháp quản lý.
+ Đề xuất chiến lược phát triển kinh tế của địa phương thông qua hoạt
động tín dụng ngân hàng.
+ Đề xuất cơ chế, chính sách của Nhà nước, các ngành chức năng, của
địa phương và chế độ cho vay của NHNo&PTNT Việt Nam.
+ Dùng làm tài liệu tham khảo trong hệ thống NHNo&PTNT Việt
Nam.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
7
Chương 1
Những vấn đề lý luận chung về rủi ro tín dụng
và quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
1.1. Hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại tín dụng trong các ngân hàng
thương mại
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để duy trì sự hoạt động
liên tục đòi hỏi vốn phải đồng thời tồn tại ở cả ba khâu dự trữ - sản xuất - lưu
thông. Do đó hiện tượng thừa vốn và thiếu vốn thường xảy ra trong nền kinh
tế. Tín dụng ngân hàng góp phần điều tiết các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi
thiếu tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, sử
dụng hợp lý hơn trong nền kinh tế. Ngân hàng với tư cách là tổ chức trung
gian tài chính, nơi tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để cung ứng
cho các khách hàng có nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh.
Tín dụng ngân hàng có nhiều cách quan niệm. Qua nghiên cứu, luận
văn xin khái quát một số khái niệm chính sau đây:
Hoạt động tín dụng là việc NHTM sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn
huy động để cấp tín dụng cho khách hàng sử dụng một ngân khoản với
nguyên tắc có hoàn trả thông qua các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê
tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ liên quan khác.
Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên
chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất
định, đồng thời bên nhận tiền cam kết hoàn trả theo điều kiện đã thỏa thuận.
Tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả cả gốc và
lãi sau một thời gian nhất định.
8
Từ những khái niệm tín dụng nói trên ta nhận thấy rằng tín dụng chính
là việc chuyển giao quyền sử dụng chứ không thay đổi quyền sở hữu, việc
chuyển giao này có thời hạn nhất định và có tính hoàn trả bao gồm cả gốc và
lãi. Phần lãi chính là một phần thu nhập của người sở hữu vốn tín dụng.
Trong Luật các Tổ chức tín dụng ban hành năm 1997, có hiệu lực từ
tháng 10-1998, phần giải thích thuật ngữ không có định nghĩa riêng về tín
dụng. Tuy nhiên thuật ngữ "Hoạt động tín dụng" được giải thích như sau:
"Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn
vốn huy động để cấp tín dụng". Tiếp đó, thuật ngữ cấp tín dụng được giải
thích: "Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử
dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác".
Như vậy, theo giải thích trên, thì bản chất của tín dụng ngân hàng đó là
việc cấp một khoản tiền cho khách hàng sử dụng và có nguyên tắc hoàn trả.
Quan điểm của luận văn là đồng tình với khái niệm nói trên về tín dụng và
hoạt động tín dụng, tuy rằng các nghiệp vụ khác được nêu trong Luật các Tổ
chức tín dụng vẫn chưa rõ.
1.1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
- NHTM là một trung gian tài chính có vai trò quan trọng trong việc
điều chuyển nguồn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn.
- Tín dụng ngân hàng là một một kênh tạo vốn cho nền kinh tế quốc
dân, nó có vai trò rất quan trọng trong việc ổn định, mở rộng sản xuất, nâng
cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm nó thể hiện như sau:
+ Là một kênh cung ứng vốn nhanh nhất đối với khách hàng, những
người có nhu cầu hợp pháp, tạo điều kiện cung ứng vốn cho khách hàng khi
họ có cơ hội kinh doanh.
9
+ Tín dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, là động lực thúc đẩy
sự ra đời và phát triển các thành phần kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng
ngân hàng cung ứng vốn cho các thành phần kinh tế để các thành phần kinh tế
phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa ngành nghề. Thông qua
hoạt động tín dụng có thể khuyến khích cấp tín dụng cho lĩnh vực này và hạn chế
lĩnh vực khác, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng, các ngành.
+ Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật: Trong nền kinh tế thị trường các
thành phần kinh tế muốn tồn tại và phát triển luôn phải đổi mới công nghệ,
thiết bị. Tuy nhiên, họ thường không có đủ vốn để thực hiện được việc đó mà
phải thông qua kênh tín dụng để thực hiện việc đổi mới kỹ thuật công nghệ,
nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh.
+ Thúc đẩy mở rộng sản xuất: Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế
thực hiện tái sản xuất mở rộng để nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm giá thành
sản phẩm, tập trung mở rộng sản xuất vào ngành nghề, sản phẩm có hiệu quả
nhất trên thị trường.
- Thông qua kênh tín dụng của các NHTM, NHTW có thể kiểm soát
hoạt động của nền kinh tế thông qua các công cụ của chính sách lãi suất,
nghiệp vụ NHTW, cho vay tái cấp vốn NHTW đề ra mục tiêu cụ thể và các
chính sách biện pháp phù hợp trong từng thời kỳ nhằm thúc đẩy nền kinh tế
phát triển theo định hướng của Nhà nước, bảo đảm ổn định tiền tệ, kiểm soát
lạm phát.
1.1.1.3. Phân loại tín dụng
Tùy theo nhiều góc độ khác nhau, người ta phân ra nhiều loại tín dụng
khác nhau, xin nêu một số cách phân loại:
- Dưới góc độ thời gian, ở Việt Nam có các loại tín dụng sau đây:
+ Tín dụng ngắn hạn, đó là loại cho vay có thời hạn không quá 12
10
tháng. Loại cho vay này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của khách hàng,
vốn lưu động của doanh nghiệp.
+ Tín dụng trung hạn, đó là loại cho vay có thời hạn trên 1 năm đến
không quá 5 năm, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung hạn của khách hàng.
+ Tín dụng dài hạn, đó là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, nhằm
đáp ứng nhu cầu đầu tư chiều sâu, đầu tư tài sản cố định, đầu tư thiết bị máy
móc với thời gian hoàn trả vốn dài của khách hàng.
- Dưới góc độ tiền tệ, có hai loại sau đây:
+ Tín dụng nội tệ, đó là cho vay bằng đồng bản tệ của quốc gia đó.
+ Tín dụng ngoại tệ, đó là cho khách hàng vay vốn và giải ngân vốn
vay bằng ngoại tệ, thí dụ như: USD, Euro, Yên Nhật,
- Dưới góc độ mục đích sử dụng vốn vay, có các loại sau đây:
+ Tín dụng sản xuất: cho vay vốn đầu tư cho các mục đích sản xuất
kinh doanh.
+ Tín dụng tiêu dùng: cho vay tiền sử dụng cho các mục đích tiêu dùng,
như: mua ô tô, du học, chữa bệnh ở nước ngoài,
Ngoài ra đứng trên các góc độ khác nhau còn có các loại tín dụng khác
như: tín dụng đồng tài trợ, tín dụng cho vay trả góp, tín dụng cho vay hợp vốn,
1.1.2. Rủi ro tín dụng và những tác động chủ yếu
1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động kinh doanh của NHTM rất nhạy
cảm với mọi biến động trong nền kinh tế - xã hội, những biến động đó có thể
gây xáo trộn đến các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đối với ngân
hàng, cung ứng tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản, thường mang lại thu
nhập chính cho ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật trên và nó luôn
chứa đựng những rủi ro. Cho đến nay chưa có một tài liệu chính thức, hay giải
11
thích thuật ngữ trong Luật chuyên ngành về khái niệm rủi ro tín dụng. Song
theo quan điểm của tác giả luận văn, có thể hiểu rủi ro tín dụng như sau:
Rủi ro tín dụng là thiệt hại kinh tế của ngân hàng do một khách hàng
hoặc một nhóm khách hàng không hoàn trả được nợ vay của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có khi ngân hàng cấp tín dụng
cho một khách hàng hay nói cách khác rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra do
khách hàng không thực hiện trả nợ theo các điều khoản đã thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng.
Rủi ro tín dụng là rủi ro tổn thất tài chính (trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất
phát từ người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết
hoặc mất khả năng thanh toán.
Rủi ro tín dụng xảy ra khi xuất hiện các biến cố không thể lường trước
khiến khách hàng không thực hiện được các cam kết đã thỏa thuận với ngân hàng.
Tuy có nhiều khái niệm khác nhau về rủi ro tín dụng nhưng chung quy
ta nhận thấy rằng đây là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Khái niệm chung nhất được sử dụng như
sau: "Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động tín dụng
Ngân hàng do khách hàng không thực hiện được hoặc không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Bản chất của rủi ro tín dụng đó là khoản tiền cấp cho khách hàng sử
dụng không được hoàn trả đúng thời gian và nội dung thỏa thuận, do đó gây
thiệt hại cho ngân hàng về kế hoạch sử dụng vốn, về thu nhập, về uy tín Mỗi
khi có hoạt động cung ứng tín dụng thì rủi ro tín dụng luôn có nguy cơ xảy ra,
nó muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái, màu sắc, cung bậc khác nhau, nó luôn
tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cho vay và nó được biểu
hiện ra bên ngoài là số tiền cho vay không thu hồi được đầy đủ như mong đợi.
12
Nghiên cứu về rủi ro tín dụng chúng ta cũng cần phân biệt với chất
lượng tín dụng.
Theo tác giả luận văn, thì giữa hai khái niệm này không trùng khớp lẫn
nhau. Rủi ro tín dụng có phạm vi rộng lớn hơn, bao gồm cả các biện pháp
phòng ngừa, hạn chế, xử lý rủi ro. Nó cho thấy rõ hơn những tổn thất tài chính
về hoạt động tín dụng, đó là thu nợ vốn vay không đúng hạn ảnh hưởng đến
kế hoạch sử dụng vốn. Thu lãi không đúng kế hoạch, ảnh hưởng đến kế hoạch
tài chính. Vốn cho vay bị thất thoát, lãi không thu được gây suy giảm tài
chính. Kinh doanh ngân hàng kém hiệu quả, có thể dẫn đến thua lỗ kéo dài,
suy giảm uy tín và có thể dẫn ngân hàng đến phá sản.
Còn chất lượng tín dụng phản ánh chất lượng cho vay, được thể hiện ở
các chỉ tiêu: tỷ lệ NQH, tỷ lệ nợ xấu, mà chưa phản ánh đầy đủ hậu quả về
mặt tài chính. Tất nhiên tỷ lệ NQH cao, số nợ xấu lớn cũng phản ánh ngân
hàng kinh doanh kém hiệu quả nhưng chưa đầy đủ. Từ các tỷ lệ nợ xấu này
dẫn đến phải trích lập quỹ dự phòng và xử lý rủi ro. Tất nhiên để nâng cao
chất lượng tín dụng cũng cần phải thực hiện cả các biện pháp nghiệp vụ trước,
trong và sau khi cho vay. Còn phòng ngừa, hạn chế và xử lý rủi ro cũng bao
gồm tất cả các biện pháp từ quản trị điều hành, kiểm soát, quy trình nghiệp
vụ, xử lý nợ xấu, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro.
Rủi ro là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc các ngân hàng bị phá sản.
Rủi ro tín dụng luôn tồn tại với hoạt động tín dụng, chúng ta không thể giảm
nó xuống bằng không mà chúng ta phải chấp nhận sự tồn tại của nó. Nhưng
không có nghĩa rằng chúng ta không quan tâm đến rủi ro, mà chúng ta cần
phải có các biện pháp để phòng ngừa hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro tín
dụng có thể xảy ra.
Hạn chế rủi ro tín dụng là tổng thể các biện pháp nhằm giảm thiểu
những thiệt hại cho ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Các biện pháp này sẽ
13
được trình bày rõ hơn ở phần sau.
1.1.2.2. Tác động của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng thương mại
- Tăng chi phí, giảm lợi nhuận trong hoạt động ngân hàng
Trong hoạt động ngân hàng, chi phí là một yếu tố quan trọng để thực hiện
các nghiệp vụ. Thông thường chi phí cho các hoạt động ngân hàng bao gồm: Chi
phí trả lãi cho khách hàng gửi tiền, chi phí mua sắm phương tiện, thiết bị phục
vụ hoạt động của ngân hàng, điện, điện thoại, chi phí quản lý Khi rủi ro tín
dụng xảy ra, để bù đắp được những khoản tín dụng gặp rủi ro đòi hỏi ngân
hàng phải tăng lãi suất cho vay, làm giảm lợi nhuận trong kinh doanh của
ngân hàng.
Khi rủi ro tín dụng xảy ra ngân hàng không thu được số vốn như dự
kiến do vậy không quay vòng được vốn, mất cơ hội đầu tư các dự án khả thi,
làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
- Giảm khả năng thanh toán của ngân hàng
Rủi ro tín dụng xảy ra, làm cho ngân hàng không thu hồi được gốc và
lãi số vốn đã cho vay, do vậy làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Nếu tình trạng này kéo dài có thể làm ngân hàng mất khả năng thanh toán và
phá sản.
- Suy giảm uy tín của ngân hàng
Rủi ro tín dụng xảy ra nó phản ánh hiệu quả kinh doanh, quản lý của
ngân hàng kém, lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng giảm, chính là làm
giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường, nó tác động mạnh nhất tới nghiệp
vụ huy động vốn của ngân hàng làm giảm quy mô hoạt động của ngân hàng.
Uy tín ngân hàng giảm cũng làm giảm lòng tin đối với các tổ chức tài chính
tiền tệ trên thế giới do vậy ngân hàng khó khăn trong việc quan hệ vay vốn,
thiết lập quan hệ đại lý với các tổ chức đó.
- Nguy cơ phá sản ngân hàng
14
Nếu rủi ro tín dụng kéo dài, làm thất thoát lượng vốn lớn thì NHTM có
thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và có thể dẫn đến phá sản.
Việc phá sản ngân hàng có thể dẫn đến phản ứng dây chuyền gây nên phá sản các
ngân hàng khác, nó tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế, chính trị của quốc
gia.
1.1.3. Những dấu hiệu của rủi ro tín dụng
Trong hoạt động tín dụng các khoản cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro nhưng
không phải nó thường xuyên xảy ra bất ngờ mà không có dấu hiệu báo trước. Do
vậy đối với hầu hết các trường hợp, một khoản cho vay đang xấu dần đi đều có
những dấu hiệu báo trước là rắc rối đang sắp xảy ra. Nếu cán bộ tín dụng muốn
phát hiện những khoản cho vay có vấn đề thì họ phải liên tục nghiên cứu cẩn
thận các khoản cho vay để xác định những yếu tố báo hiệu khả năng rủi ro có
thể xảy ra. Dưới đây là một số dấu hiệu rủi ro có thể xảy ra đối với khoản vay.
- Khách hàng trả nợ gốc, lãi không đúng hạn
Đây là dấu hiệu ngân hàng dễ nhận thấy nhất, nó phản ánh khả năng
xảy ra rủi ro rất cao, việc hoàn trả gốc và lãi là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá
chất lượng tín dụng, nếu khách hàng không trả nợ gốc và lãi đúng hạn như đã
cam kết trong hợp đồng tín dụng khi vay vốn thì đồng nghĩa với việc rủi ro tín
dụng xảy ra.
- Khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính là một trong những tài liệu quan trọng giúp cho cán
bộ tín dụng thẩm định và quyết định việc tham mưu tới cấp có thẩm quyền
cho vay. Thông qua báo cáo tài chính (Bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, báo cáo kết quả kinh doanh ) giúp cho ngân hàng đánh giá
khả năng tài chính, nhu cầu vay vốn của khách hàng, trên cơ sở đó ngân
hàng sẽ có chính sách biện pháp phù hợp áp dụng đối với khách hàng.
Việc khách hàng chậm nộp báo cáo tài chính có thể có nhiều nguyên
15
nhân khác nhau nhưng ngân hàng cũng cần xem xét đến nguyên nhân, có thể
người vay gặp khó khăn, tình hình tài chính có vấn đề. Do vậy khách hàng cố
tình chậm trễ trong việc nộp báo cáo để có thời gian sửa đổi, điều chỉnh số
liệu báo cáo không phản ảnh trung thực kết quả kinh doanh. Vì vậy thông
tin về khách hàng không chính xác và ngân hàng có thể đưa ra quyết định cho
vay tiềm ẩn rủi ro lớn.
- Chất lượng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp giảm sút
Đối với doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm và dịch vụ có vai trò quan
trọng đến việc thành công của doanh nghiệp, nó là tiêu thức đánh giá kết quả
quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh. Trong quá trình theo dõi doanh nghiệp
cán bộ ngân hàng nhận thấy rằng khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, hàng
tồn kho tăng, doanh số bán hàng giảm sút, các khoản công nợ tăng điều đó
phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp giảm sút, khả năng trả nợ của
doanh nghiệp cho ngân hàng khó khăn, có nghĩa là rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
- Mục đích sử dụng khoản vay không rõ ràng
Mỗi một khách hàng khi có nhu cầu vay vốn đều xác định rõ ràng mục
đích vay vốn, đó chính là một trong những cơ sở để ngân hàng xem xét cấp
tín dụng. Đối với khách hàng nêu lên mục đích khoản vay không rõ ràng thì
khả năng sử dụng vốn vay không phù hợp với mục đích đề nghị vay vốn rất
dễ xảy ra. Do vậy khả năng hoàn trả không cao và ở đây rủi ro tín dụng rất dễ
xảy ra.
- Xuất hiện tình trạng quan hệ tín dụng với nhiều ngân hàng
Trong hoạt động kinh doanh khách hàng thông thường chỉ có quan hệ
giao dịch với một ngân hàng. Tuy nhiên khi khách hàng mở rộng quan hệ với
nhiều ngân hàng thì ta cần xem xét khách hàng, có thể khách hàng khó khăn
không thể trả đúng hạn, do vậy vay nhiều ngân hàng để đảo nợ, hoặc quan hệ
16
với ngân hàng khác để tránh sự kiểm soát về nguồn vốn thanh toán qua ngân
hàng đang cho vay, để không trả nợ những khoản nợ đến hạn.
- Sự thay đổi tổ chức bộ máy bất thường hoặc đang bị cơ quan chức
năng tiến hành điều tra
Bộ máy lãnh đạo, hay đó là bộ máy quản trị điều hành của khách hàng
có vai trò rất quan trọng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng, mỗi khi
có sự thay đổi bộ máy tổ chức bất thường xảy ra, thường là khi khách hàng có
vấn đề như thua lỗ, kiện cáo Khi ban lãnh đạo mới về thay thế nếu không
thiện chí trả những khoản nợ đã vay của ban lãnh đạo cũ, coi đó là những tồn
tại của ban lãnh đạo cũ cần giải quyết, do vậy rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra.
Trong trường hợp khách hàng của ngân hàng đang bị cơ quan pháp luật
xem xét, điều tra thì rủi ro rất dễ xảy ra đối với ngân hàng do hoạt động
kinh doanh bị đình trệ, tài sản doanh nghiệp dễ bị cơ quan pháp luật phong
tỏa
- Bạn hàng của khách hàng gặp rủi ro, phá sản, truy tố
Trong nền kinh tế thị trường việc quan hệ mua bán chịu luôn xảy ra, khi
khách hàng là bạn hàng của doanh nghiệp bị rủi ro thì khả năng trả nợ cho
doanh nghiệp là rất thấp do vậy sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
- Các thảm họa thiên nhiên, biến động về chính trị - xã hội
Các thảm họa thiên nhiên, biến động về chính trị xã hội luôn có ảnh
hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là đối với doanh
nghiệp hoạt động phụ thuộc vào thiên nhiên, khi có biến động trên xảy ra
doanh nghiệp rất dễ gặp khó khăn trong sản xuất và ảnh hưởng đến khả năng
trả nợ cho ngân hàng, rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra. Riêng đối với
NHNo&PTNT thì rủi ro do thiên tai tai là rất lớn cần phải đặc biệt chú ý (bảo
lụt, hạn hán, dịch bệnh, mất mùa…)
- Sự biến động của thị trường, giá cả thị trường trong nước và thế giới
17
Sự thu hẹp hay mở rộng thị trường, giá cả các mặt hàng liên quan đến
hoạt động kinh doanh của khách hàng tác động trực tiếp đến kết quả hoạt
động kinh doanh, nguy cơ gây rủi ro tín dụng.
- Mối quan hệ giao dịch giữa khách hàng và ngân hàng không bình thường
Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá dự
kiến trong khi nhu cầu sản xuất không thay đổi, hay có nhu cầu vay vốn
không quan tâm đến lãi suất vay vốn cao hay thấp.
- Các dấu hiệu rủi ro khác
Khách hàng mở rộng kinh doanh quá nhanh trong khi nguồn vốn để đầu
tư chưa đủ khả năng, khi đó khách hàng có thể chiếm dụng vốn trong kinh
doanh và dễ mất cân đối giữa tài sản và nguồn vốn, rủi ro có thể xảy ra.
Khách hàng luôn có những quyết định vội vã, thiếu cân nhắc trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Sự biến mất hay xuống giá của tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi
rủi ro xảy ra việc thu hồi vốn đầy đủ sẽ khó khăn.
Khách hàng mua bán trước khi thu xếp nguồn tài chính, đây là một dấu
hiệu dẫn đến rủi ro cho ngân hàng nhất là đầu tư vào tài sản cố định. Vì khi
khách hàng chưa thu xếp đủ nguồn tài chính mà đã quyết định mua bán thì khi
không thu xếp được nguồn tài chính sau khi mua bán, khách hàng sẽ dùng các
nguồn khác để thanh toán việc mua bán đó, giảm khả năng trả nợ ngân hàng.
Trường hợp phổ biến nhất là khách hàng sử dụng nguồn vốn ngắn hạn
để đầu tư dài hạn như trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm tài sản cố
định, các dự án dài hạn khác làm mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Đặc
biệt, nếu các dự án này không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp thì nguy cơ phá
sản doanh nghiệp là khó tránh khỏi.
1.1.4. Đặc điểm rủi ro tín dụng mang tính đặc thù trong Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
- Rủi ro tín dụng luôn ở mức độ cao
18
Khách chủ yếu của Ngân hàng Nông nghiệp là hộ sản xuất kinh doanh,
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn với số
lượng khách hàng rất lớn nhưng trình độ dân trí thấp, vốn và trình độ quản lý
còn yếu kém nên rủi ro trong quan hệ tín dụng là rất cao, thường cao hơn các
Ngân hàng thương mại khác.
- Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng phức tạp:
Đối tượng đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đa dạng, phức
tạp (chăn nuôi, trồng trọt, chế biến, nuôi trồng thủy hải sản, thương mại dịch
vụ…), mỗi một quan hệ tín dụng có những đặc điểm riêng, do vậy rủi ro tín
dụng xảy ra đối với mỗi trường hợp cụ thể cũng không giống nhau. Do tính
chất phức tạp như vậy cho nên trong hoạt động tín dụng cần có nhiều biện
pháp, phương án phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra.
- Rủi ro tín dụng gắn liền với thiên tai
Đây là đặc điểm lớn nhất trong tín dụng phục vụ phát triển nông
nghiệp, nông thôn là chịu nhiều thiệt hại do thiên tai. Đặc biệt Việt Nam là
một trong những nước chịu nhiều thiên tai, nhất là bão lụt, hạn hán. Ngoài ra,
khi có thiên tai xảy ra, NHNo&PTNT có trách nhiệm đầu tư để khắc phục hậu
quả, khôi phục sản xuất kinh doanh.
- Rủi ro tín dụng cao trong thực hiện chính sách tín dụng đối với nông
nghiệp, nông thôn
Rủi ro khi thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước đối với
nông nghiệp, nông thôn, nông dân như chương trình mía đường, đánh bắt xa
bờ, khắc phục thiên tai.
Phần lớn khách hàng trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn vay vốn
bằng tín chấp, không có tài sản đảm bảo nên nguy cơ rủi ro rất lớn.
Tuy nhiên, cho vay đối với hộ sản xuất kinh doanh, cá thể với số lượng
khách hàng đông, mức vay không lớn nên trong điều kiện bình thường thì rủi
ro tín dụng được phân tán, tổn thất không tập trung.
1.1.5. Mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng với một số loại rủi ro khác của
19
ngân hàng thương mại
- Rủi ro lãi suất
Trong hoạt động kinh doanh của mình ngân hàng vừa đóng vai trò là
người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay. Để huy động được vốn cho
vay, ngân hàng phải trả một khoản chi phí gọi là lãi suất, như vậy lãi suất
cũng là một loại giá cả. Trong cơ chế thị trường giá cả luôn biến động theo
quan hệ cung cầu, nên lãi suất cũng biến đổi. Thiệt hại do rủi ro lãi suất gây ra
làm chi phí cho nguồn vốn lớn hơn chi phí sử dụng vốn, nếu tình trạng này
kéo dài dẫn đến thua lỗ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Như vậy rủi ro lãi suất là những tác động do biến động lãi suất đối với
hoạt động tài chính ngân hàng. Rủi ro lãi suất bắt nguồn từ mối quan hệ qua
lại của tài sản có, tài sản nợ và các hợp đồng ngoại bảng. Cơ cấu tài sản có và
tài sản nợ sẽ quyết định tình thế rủi ro lãi suất của một ngân hàng. Tình thế rủi
ro lãi suất phụ thuộc vào mức độ mất cân đối giữa tài sản có và tài sản nợ.
Chẳng hạn ngân hàng dùng tài sản nợ ngắn hạn có lãi suất thay đổi để đầu tư
vào tài sản có dài hạn có lãi suất cố định, thì khi lãi suất ngắn hạn tăng lên,
chi phí ngân hàng sẽ tăng trong khi thu nhập ở tài sản dài hạn vẫn giữ nguyên.
Ngoài ra lạm phát tăng cũng ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng do
lãi suất buộc phải điều chỉnh tăng lên.
Rủi ro lãi suất liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng còn xảy ra khi
ngân hàng ký hợp đồng cho khách hàng vay theo lãi suất cố định tại thời điểm
ký hợp đồng, song đến khi giải ngân cho vay thì lãi suất huy động vốn tăng
lên, nhưng ngân hàng không thể tăng được lãi suất cho vay. Hoặc ngân hàng
ký hợp đồng cho vay theo lãi suất thả nổi, khi đến kỳ giải ngân vốn vay, lãi
suất thị trường giảm xuống nhưng chi phí bình quân lãi suất huy động vốn
vẫn ở mức cao. Rủi ro lãi suất còn được hiểu là do lãi suất thả nổi, đến kỳ giải
ngân lãi suất tăng cao, làm cho chi phí của doanh nghiệp, chi phí của khách
hàng tăng cao, gây rủi ro khả năng trả nợ cho ngân hàng. Do đó trong quản trị
20
điều hành rủi ro tín dụng cần hết sức quan tâm đến rủi ro lãi suất.
- Rủi ro hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền tính ra một đồng tiền khác.
Rủi ro hối đoái là rủi ro xuất hiện trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối
do sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền. Nếu tỷ giá hối đoái bán ra lớn
hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có lãi và ngược lại thì lỗ.
Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá luôn biến động, với biến đổi của tỷ
giá hối đoái, bất kỳ một khoản nợ nào cho dù dài hay ngắn, đối với một đồng
tiền nhất định, đều có thể tạo cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hối
đoái. Rủi ro hối đoái liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng khi khách
hàng vay vốn ngoại tệ, bán đi lấy nội tệ, hoặc kinh doanh nhập khẩu nhưng
không cân đối được vốn ngoại tệ phải mua trên thị trường, đến khi trả nợ thì
tỷ giá tăng cao, gây rủi ro cho khách hàng và rủi ro cho ngân hàng. Trường
hợp rủi ro hối đoái cũng liên quan trực tiếp đến tín dụng đối với ngân hàng khi
không cân đối nguồn ngoại tệ để cho vay, phải mua theo biến động tỷ giá trên thị
trường với mức cao, nhưng khi khách hàng trả nợ bán được tỷ giá ở mức độ
thấp,
- Rủi ro nguồn vốn
Rủi ro nguồn vốn thường xảy ra dưới hai hình thức:
Rủi ro do ứ đọng vốn: Tức là nguồn vốn huy động của ngân hàng bị ứ
đọng không cho vay được, cũng như không thể chuyển sang được các loại tài
sản có sinh lời khác.
Như chúng ta đã biết một trong các hoạt động của NHTM là " đi vay để
cho vay " nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nếu số tiền huy động ngân hàng không sử
dụng hết (tức là lượng tiền dự trữ vượt mức cần thiết mà không sinh lời) thì
đến kỳ hạn ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn huy động, các chi phí nghiệp
vụ và chi phí quản lý. Điều này dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh ngân hàng.
21
Nếu tình trạng này kéo dài mà ngân hàng không khắc phục có thể sẽ đóng cửa
ngân hàng.
Rủi ro do thiếu vốn: Do việc chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và
nguồn vốn không nhịp nhàng dẫn đến ngân hàng không đủ khả năng đáp ứng
nhu cầu cho vay và đầu tư hoặc nhu cầu thanh toán của khách hàng, nếu ngân
hàng không có biện pháp kịp thời để đảm bảo khả năng thanh toán thì rất dễ
dẫn đến rủi ro thanh toán và ngân hàng rất dễ phá sản.
- Rủi ro thanh toán
Trong nền kinh tế thị trường các NHTM luôn phải duy trì một mức dự
trữ nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán hiện tại, đột xuất nảy sinh trong
tương lai. Khi ngân hàng cho vay quá mức, không đảm bảo khả năng thanh
toán mà không có cách giải quyết kịp thời dễ dẫn đến hiệu ứng dây chuyền
trong việc rút tiền và làm cho ngân hàng có thể phá sản.
1.1.6. Các tiêu chí đánh giá và đo lường rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng luôn tồn tại cùng với hoạt động tín dụng, ngân hàng
không thể loại trừ được rủi ro tín dụng mà chỉ có thể hạn chế đến mức thấp
nhất các tổn thất có thể xảy ra.
Để phản ánh mức độ rủi ro tín dụng, các NHTM thường sử dụng một số
chỉ tiêu sau:
- NQH: là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa
thuận ghi trên hợp đồng. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền quá
hạn ngân hàng chưa thu hồi được cho đến thời điểm đang xem xét.
Tỷ lệ NQH =
NQH
100
Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu tương đối được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng.
Chỉ tiêu này thường giúp các nhà quản lý trong công tác điều hành tín dụng.
- NQH thông thường: là khoản nợ đã quá hạn có khả năng thu hồi tại
22
thời điểm xem xét.
- Nợ khó đòi: đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền quá hạn
khả năng thu hồi thấp, ảnh hưởng đến nguy cơ mất vốn của ngân hàng.
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Nợ khó đòi
100
Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu tương đối được sử dụng để đánh giá tỷ lệ vốn có nguy
cơ mất trong tổng dư nợ.
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi trên NQH
- Nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ
- Tốc độ gia tăng, giảm của các tỷ lệ NQH: Chỉ tiêu này phản ánh chất
lượng tín dụng trong các thời kỳ so sánh.
- Số nợ khoanh, nợ theo dõi ngoại bảng
- Doanh thu từ hoạt động tín dụng, số lãi cho vay có chiều hướng giảm
sút trong khi tổng dư nợ cho vay vẫn tăng lên.
-+ Quỹ dự phòng rủi ro
1.1.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
1.1.7.1.Các nhân tố từ môi trường kinh doanh
NHTM thực hiện hoạt động kinh doanh trong một môi trường chịu sự
tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Vì vậy, việc nhận thức đầy đủ về các
yếu tố này có ý nghĩa quan trọng đối với việc phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín
dụng trên giác độ thực hiện dự báo biến động và thực hiện dự phòng, đảm bảo
tính lành mạnh tình hình tài chính của ngân hàng. Luận văn xin khái quát và
tổng hợp các nhân tố chủ yếu sau đây:
- Các nhân tố từ thiên nhiên:
Các thiệt hại nảy sinh từ nhân tố thiên nhiên như thời tiết, khí hậu, động
đất, núi lửa, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh nó có thể tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp tới hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của khách hàng, làm
23
cho khách hàng kinh doanh giảm sút, gặp khó khăn thì khả năng trả nợ cho
ngân hàng sẽ giảm, do vậy có thể dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng.
- Môi trường kinh tế - chính trị
+ Môi trường kinh tế vĩ mô: là các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà
nước như: chính sách tài chính, đất đai, thuế, chính sách tiền tệ, xuất nhập
khẩu Những thay đổi về chính sách vĩ mô của Nhà nước có tác động mạnh
mẽ đến sản xuất của doanh nghiệp, nó có thể khuyến khích phát triển hay kìm
hãm sự phát triển của doanh nghiệp.
Một ví dụ cụ thể là trong thời gian qua Chính phủ Việt Nam có quy
định về hạn chế đăng ký xe máy, hay việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối
với ô tô đã gây tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Những diễn biến khác về môi trường kinh tế vĩ mô, như: diễn biến lạm
phát, tiền tệ, thị trường, lãi suất, tỷ giá ảnh hưởng đến sự phát triển của các
lĩnh vực của nền kinh tế, hành vi của các chủ thể kinh doanh, sự cạnh tranh
của các doanh nghiệp
Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của
ngân hàng cũng như doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong giai đoạn kinh tế
hưng thịnh, tăng trưởng ổn định thì người đi vay hoạt động kinh doanh thuận
lợi hơn, lợi nhuận thu được tương đối cao, khả năng hoàn trả vốn vay chắc
chắn. Ngược lại khi nền kinh tế giảm sút, mất ổn định, có chiều hướng đi
xuống, sức mua giảm sút, người đi vay tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn khó
khăn, khả năng trả nợ vay giảm.
+ Môi trường chính trị: Một nền chính trị ổn định là điều kiện cho doanh
nghiệp phát triển, doanh nghiệp yên tâm đầu tư sản xuất, tập trung vốn cho mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại nếu môi trường chính trị không
24
ổn định, xảy ra các cuộc xung đột, chiến tranh làm cho doanh nghiệp không
quan tâm đến sản xuất, sản xuất đình trệ, khả năng trả nợ ngân hàng khó khăn.
- Môi trường pháp lý
Trong kinh doanh các yếu tố pháp lý có tác động đến hoạt động kinh
doanh bao gồm hệ thống pháp luật, hệ thống các biện pháp bảo đảm cho pháp
luật được thực thi và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham
gia hoạt động kinh doanh và ngành liên quan.
Các yếu tố trên đan xen và tác động đến hoạt động kinh doanh một cách
tổng hợp chứ không riêng rẽ, hay chúng mang tính đồng bộ cao. Nếu môi
trường pháp lý đồng bộ, hệ thống pháp luật chặt chẽ có hiệu lực sẽ làm lành
mạnh hóa các quan hệ kinh tế, đảm bảo các hoạt động kinh doanh cho các chủ
thể trong môi trường đó, các chủ thể sẽ yên tâm kinh doanh, mở rộng đầu tư
phát triển sản xuất.
- Chu kỳ kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động sản xuất kinh doanh luôn có
tính chu kỳ, nó thường biểu hiện dưới hình sin. Do vậy khi chu kỳ kinh doanh
đang có xu thế đi xuống thì rủi ro sẽ tăng lên, khả năng thu hồi vốn là kém, có
thể gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ, làm cho sản phẩm của
một ngành nào đó bị lạc hậu, không còn phù hợp với sở thích, nó có thể làm cho
khách hàng gặp khó khăn, có thể phá sản dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
- Thông tin không cân xứng
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng là quan hệ kinh tế, vì
vậy phát sinh nhu cầu trao đổi và thu thập thông tin giữa các bên. Tuy nhiên
trong thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau xảy ra tình trạng thông tin
không cân xứng. Ngân hàng thường không có đầy đủ thông tin về khách hàng
25
như: quan hệ bạn hàng, kế hoạch sản xuất kinh doanh, quan hệ thanh toán,
tình hình tài chính, tiêu thụ sản phẩm
Khách hàng không có đầy đủ thông tin về ngân hàng: quy mô, các dịch
vụ đáp ứng, phương thức tài trợ phù hợp, giá cả thực tế
Việc thiếu thông tin trong các giao dịch này sẽ đưa đến sự lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức. Do thông tin không cân xứng do vậy thay vì lựa
chọn những khách hàng có khả năng trả nợ, ngân hàng lại cho vay những
khách hàng có khả năng trả nợ cho ngân hàng thấp, gây rủi ro cho ngân hàng.
Còn đối với rủi ro đạo đức, người vay sau khi nhận được khoản tiền vay thực
hiện những hoạt động trái với cam kết đưa đến khó có thể hoàn trả vốn vay,
gây rủi ro cho ngân hàng.
1.1.7.2. Nhân tố từ phía ngân hàng
- Chính sách tín dụng không hợp lý
Chính sách tín dụng có tác động rất lớn đến chất lượng tín dụng, nó
định hướng về cơ cấu tín dụng, lĩnh vực đầu tư tín dụng, lãi suất, cơ chế
nghiệp vụ đối với cán bộ tín dụng, quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ tín
dụng, quy trình nghiệp vụ tín dụng
Nếu ngân hàng xác định chính sách tín dụng mở rộng, tăng trưởng, lợi
nhuận trước mắt thì sẽ ít quan tâm đến cơ cấu tín dụng, chất lượng tín dụng, thường
áp dụng lãi suất cho vay có thể thấp để tăng khả năng cạnh tranh. Việc lựa chọn
khách hàng vay không chặt chẽ, cho vay tràn lan và cho vay không có cơ sở đảm
bảo, cán bộ tín dụng không được coi trọng, Với chính sách như vậy rất dễ gây
rủi ro về sau này đối với hoạt động tín dụng và cơ cấu nguồn vốn huy động.
- Quy trình tín dụng thiếu chặt chẽ và không phù hợp
Quy trình tín dụng thông thường được xây dựng trên những quy định
chung của pháp luật và đặc thù trong hoạt động của mỗi ngân hàng. Việc xây