Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Vài nét về tình hình ruộng đất ở Bình Dương nửa đầu thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.08 KB, 29 trang )

Đại học quốc gia Hà Nội
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa lịch sử
Tiểu Luận
Đề tài:
Vài nét về tình hình ruộng đất ở Bình Dương <Gia Định> nửa đầu thế kỷ
XIX (Qua việc nghiên cứu địa bạ tỉnh Giai Định lập năm 1836)
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua mấy ngàn năm, nước ta vẫn là một xứ nông nghiệp và lấy xã
thôn làm đơn vị cơ sở. Cho nên, hai vấn đề nông nghiệp và xã thôn là vô cùng
quan trọng đối với sự tồn vong và lớn mạnh của dân tộc ta. Chúng ta cần tìm
hiểu những vấn đề ấy một cách sâu sắc và toàn diện, không chỉ để ôn cố tri ân,
mà còn nhằm mục đích góp phần xây dựng một chiến lược phát triển hài hòa
cho khắp nước và mỗi người dân, từ thể chất đến tinh thần, từ thành thị đến thôn
quê.
Dựa trên nguồn tư liệu địa bạ đồ sộ hàng triệu trang trong kho tàng di sản
văn hóa và lịch sử Hán Nôm còn lưu lại đến ngày nay thì đây chính là những cứ
liệu để các nhà nghiên cứu tiếp tục tiến hành những công trình tìm hiểu đất nước
và con người Việt Nam. Mục đích quan trọng hơn, chúng ta sẽ lưu giữ được
những tư liệu quý giá về địa bạ, không để chúng bị thất lạc, hủy hoại, đánh cắp,
mối mọt…vì đây là những tư liệu viết tay, không in ấn, nếu mất là mất hẳn.
Trong thời gian mấy chục năm gần đây, với việc coi địa bạ là một nguồn
tư liệu nghiên cứu nhiều giá trị đã khiến cho việc khai thác kho tư liệu này đạt
nhiều thành tựu quan trọng: về đặc điểm của nền nông nghiệp cổ truyền Việt
Nam, sự phân hóa xã hội ở nông thôn, kết cấu xã hội và các giai tầng trong làng
xã, chế độ sở hữu ruộng đất với nhiều hình thái sở hữu…
Nguyễn Đình Đầu là người đi đầu trong việc khai thác kho tư liệu địa bạ
cực kỳ phong phú này. Trong bao tháng ngày lăn lộn miệt mài trên hàng trăm
cây số, với vô vàn những con số khô khan, ông đã cho ra mắt công trình nghiên
cứu công phu, tỉ mỉ của mình: Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn trên nhiều địa


phương khác nhau. Đó được coi là một trong những công trình lớn nhất về khoa
học lịch sử ở cuối thế kỷ XIX của chúng ta. Nhiều tên tuổi khác thường xuyên
xuất hiện trên các tạp chí nghiên cứu lịch sử, đầu sách về địa bạ như: Nguyễn
Đức Nghinh, Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Trương Hữu Quýnh, Vũ Minh
Giang, Vũ Văn Quân, Phan Phương Thảo…với nhiều bài viết, chuyên luận
nghiên cứu sâu về nhiều phương diện của địa bạ.
Việc nghiên cứu các vấn đề nông thôn trong lịch sử dựa trên nguồn địa bạ
2
là một vấn đề rất rộng và phức tạp, đòi hỏi nhà nghiên cứu phải đi sâu tìm hiểu,
thống kê, mô tả rồi phân tích. Với một kho tư liệu đồ sộ hiện có, có thể nói các
nhà nghiên cứu đang phải “bơi” trong đó. Chỉ một vấn đề nhỏ thôi, chỉ một thôn,
một xã, huyện nào đó cũng cần tới bàn tay của nhà nghiên cứu thống kê để đưa
ra được những kết luận chính xác nhất.
Với nguồn tư liệu sưu tầm được, trong khuôn khổ một bài tiểu luận về vấn
đề ruộng đất trong lịch sử và xã hội Việt Nam, tác giả bài viết muốn được quan
tâm, làm rõ về tình hình ruộng đất trên địa bàn một huyện trong hệ thống làng xã
Việt Nam: huyện Bình Dương (tỉnh Gia Định) hồi nửa đầu thế kỷ XIX. Với bài
viết này, tác giả hy vọng sẽ làm phong phú thêm bức tranh nông thôn Việt Nam
thời kỳ đầu nhà Nguyễn.
3
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I: HUYỆN BÌNH DƯƠNG
1. Vị trí địa lý
Bình Dương xưa nằm trên địa bàn tỉnh Gia Định – nay là thành phố Hồ
Chí Minh, tỉnh Tây Ninh, Long An và một phần tỉnh Tiền Giang. Phía đông của
huyện đến cửa biển Cần Giờ; phía tây vượt qua chằm gò, tiếp giáp miền thượng;
phía nam đến ngã ba Thị Phổ và tổng Tân Phong huyện Tân Long rồi ngược
dòng Rạch Ong nhỏ (Quận 8) thẳng lên cửa cống chợ Tân Kiểng đến hồ Lão
Nhông (Hóc Môn); phía đông nam giáp tổng Lộc Thành huyện Phước Lộc (Cần
Giuộc); phía tây nam giáp tổng Bình Cách huyện Thuận An.

2. Cơ cấu đơn vị hành chính
Trước là tổng, nay cải làm huyện gồm: 6 tổng, 95 làng, 27 thôn,
trong đó:
Dương Hòa Hạ (8 thôn) Bình Trị Hạ (26 làng)
Dương Hòa Trung (21 làng) Bình Trị Trung (21 làng)
Dương Hòa Thượng ( 19 thôn) Bình Trị Thượng (27 làng)
3. Tiến trình lịch sử của huyện Bình Dương
Từ gần 200 năm qua, chúng ta đã chứng kiến một quá trình đô thị hóa với
tốc độ rất cao ở Bình Dương. Nghiên cứu kỹ lưỡng sưu tập địa bạ tỉnh Gia Định,
chúng ta mới hiểu được những giai đoạn phát triển cực kỳ nhanh chóng của dải
đất nằm giữa sông Bến Nghé và sông Vàm Cỏ Đông mà hiện nay Bình Dương
đã trở thành một khu công nghiệp hàng đầu cả nước.
Bình Dương cho đến trước khi lập địa bạ năm 1836 là 1 trong 4 huyện của
phủ Tân Bình thuộc trấn Phiên An . Lãnh 2 tổng, 150 xã, thôn, phường, lân, ấp.
Trong đó, tổng Bình Trị (có 76 xã, thôn, phường, lân, ấp) và tổng Dương Hòa
(có 74 xã, thôn, phường, lân, ấp). Năm 1832, đổi trấn ra tỉnh, đổi thành Gia Định
làm thành Phiên An (không còn tên Gia Định nữa). Huyện Bình Dương vẫn
thuộc phủ Tân Bình thuộc quyền thống trị của tỉnh Phiên An. Năm 1836, cải
tỉnh Phiên An làm tỉnh Gia Định. Bình Dương trở thành 1 huyện nằm trong phủ
Tân Bình của tỉnh Gia Định.
4
Dưới thời Pháp thống trị:
Năm 1862: huyện Bình Dương phủ Tân Bình thuộc lỵ sở Sài Gòn có 6
tổng , 72 làng, trong đó:
Bình Trị Thượng (14 làng) Dương Hòa Thượng (11làng) Bình Trị
Trung (8 làng) Dương Hòa Trung (13 làng)
Bình Trị Hạ (11 làng) Dương Hòa Hạ (15 làng)
Năm 1867: huyện bình Dương thuộc hạt Sài Gòn có 6 tổng, 85 làng, trong
đó:
Bình Trị Thượng (16 làng) Dương Hòa Thượng (13làng) Bình Trị

Trung (14 làng) Dương Hòa Trung (9 làng)
Bình Trị Hạ (10 làng) Dương Hòa Hạ (23 làng)
Năm 1972: huyện Bình Dương là 1 trong 3 huyện (Bình Dương, Bình
Long, Ngãi An) của hạt Sài Gòn có 7 tổng với 103 làng, trong đó:
Bình Trị Thượng (16 làng) Dương Hòa Thượng (15làng)
Bình Trị Trung (18 làng) Dương Hòa Trung (9 làng)
Bình Trị Hạ (13 làng) Dương Hòa Hạ (27 làng)
Cần Giờ (5 làng)
Năm 1889, bãi bỏ cấp khu vực hành chính và quân sự, đổi tên địa hạt ra
tỉnh Trên địa bàn tỉnh Gia Định xưa (1836) nay có thành phố Sài Gòn (một phần
huyện Bình Dương).
Năm 1910,tỉnh Gia Định chia ra 18 tổng, không còn thấy xuất hiện tên gọi
Bình Dương.
Trong 30 năm 1945 – 1975 dưới chế độ Sài Gòn, huyện Bình Dương đã
có nhiều thay đổi trong các đơn vị hành chính theo tình hình diễn biến chung
của toàn tỉnh. Tổng hết còn là đơn vị trung gian, quận là cấp hành chính giữa
huyện với xã, bỏ danh xưng huyện. Bình Dương được thành lập thành một tỉnh
mới.
Tỉnh Bình Dương được thành lập từ năm 1956, đến ngày giải phóng thì bị
bãi bỏ. Trong thời gian gần 20 năm đó, ranh giới và đơn vị hành chính của tỉnh
đã có nhiều lần thay đổi. Song ở thời điểm 1970, tỉnh Gia Định có 1 trong 6
5
quận tên là quận Phú Hòa, nay thuộc địa bàn thành phố. Quận này cũng được
tách từ quận Hóc Môn tỉnh Gia Định, gồm 2 tổng Long Tuy Trung và Bình
Thạnh Trung trước kia (trước thời thuộc Pháp, các tổng Bình Thạnh và Long
Tuy hợp thành huyện Bình Long). 5 quận còn lại xưa thuộc tỉnh Biên Hòa
(1836), nay thuộc tỉnh Sông Bé. Sau giải phóng, quận Phú Hòa của tỉnh Bình
Dương hợp với quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa thành huyện Củ Chi thuộc
Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đến năm 1994, Bình Dương thuộc quận Phú Hòa thành phố Hồ Chí Minh.

Và hiện nay Bình Dương là 1 tỉnh độc lập, là 1 trong những khu công nghiệp
phát triển nhất cả nước.
6
CHƯƠNG II: HUYỆN BÌNH DƯƠNG QUA TƯ LIỆU ĐỊA BẠN GIA
ĐỊNH LẬP NĂM 1836
I. Địa bạ Bình Dương trong kho địa bạ cổ
1. Địa bạ cổ Việt Nam
Địa bạ là một nguồn tư liệu vô cùng phong phú để nghiên cứu về nông
thôn Việt Nam trên nhiều phương diện, đúng như định nghĩa về nó trong địa bạ
Hà Đông : “Địa bạ là văn bản chính thức và địa giới và diện tích các loại ruộng
đất, các loại hình sinh hoạt ruộng đất của làng xã, được lập trên sự khám được
và xác nhận của chính quyền, dùng làm cơ sở cho việc quản lý ruộng đất và thu
tô thuế của Nhà nước”. Có thể tổng kết một cách tổng quát về địa bạ như vậy,
tuy mỗi thời và mỗi nơi, tên gọi và quy cách địa bạ có khác nhau. Còn theo nhà
nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu: địa bạ là sổ mô tả và ghi nhận quyền sở hữu từng
mảnh ruộng đất, được làm một lần khi đo đạc. Diện tích ruộng đất được ghi theo
mẫu, sào, thước, tấc.
Trong lịch sử Việt Nam, lần đầu tiên Nhà nước tiến hành lập sổ địa bạ là
vào năm 1092 dưới triều Lý, bây giờ gọi là điền tịch. Thời Lê Sơ, ngay sau
kháng chiến chống Minh thắng lợi, năm 1428 Lê Lợi đã ra lệnh cho các địa
phương tiến hành điều tra, khám xét tình hình ruộng đất và canh tác ruộng đất,
lập lại địa bạ trong 1 năm. Các thế kỷ về sau, công việc lập và tu bổ lại địa bạ
được tiến hành rải rác trong nhiều năm.
Nhà Nguyễn sau khi bình định xong cả nước (1802) đã ý thức ngay được
tầm quan trọng của việc lập địa bạ. Năm 1803, một năm sau khi lên ngôi, Gia
Long đã sai lập địa bạ các trấn thuộc Bắc Hà tức vùng Đàng Ngoài thuộc quyền
cai trị của chúa Trịnh trước đây. Công việc căn bản được hoàn thành năm Gia
Long 4 (1805). Đến năm Gia Long 9 (1810) quyết định triển khai công việc ở
các tỉnh từ Quảng Bình trở vào đến cực Nam Trung Bộ. Tuy nhiên việc lập địa
bạ ở những tỉnh này tiến hành có vẻ chậm chạp nên phải tới những năm cuối

thời Minh Mệnh mới xong. Năm 1836, Minh Mệnh thực hiện một quyết định
lớn: đo đạc lại toàn bộ ruộng đất Nam kỳ và lập sổ địa bạ cho các làng xã ở đây.
Kế hoạch được triển khai nhanh, triệt để và đạt kết quả tốt.
7
Như vậy, cho đến hết thời Minh Mệnh, nhà Nguyễn về cơ bản đã lập xong
sổ địa bạ trên toàn quốc. Từ thời Thiệu Trị (1841) cho đến hết thời Bảo Đại
(1945) công việc còn lại chỉ là bổ sung thêm địa bạ của một số địa phương vì lý
do này hay lý do khác mà trong những đợt làm địa bạ lớn chưa thực hiện được.
Vì thế, trong tổng số 18.519 đơn vị địa bạ còn lưu giữ được tại hai kho địa bạ
lớn nhất nước ta hiện nay là Viện nghiên cứu Hán Nôm và Cục lưu trữ Nhà
nước thì số địa bạ có niên đại Gia Long và Minh Mệnh lên tới 17.604 đơn vị địa
bạ, chiếm tỷ lệ 95,6%
Địa bạ hiện phân bố không đều giữa các miền, các tỉnh, nói chung tập
trung chủ yếu ở vùng đồng bằng, trong đó:
Địa bạ Bắc kỳ gồm 4.296 tập với 8.704 địa bạ của 162 huyện đương thời.
Địa bạ Trung kỳ gồm 5.264 tập với 6.465 địa bạ.
Địa bạ Nam kỳ gồm 484 tập với 1.715 địa bạ của 26 huyện thuộc 6 tỉnh
Nam kỳ thời Nguyễn. Địa bạ này tập trung chủ yếu vào niên đại 1836 (chiếm tới
95,6%). Đó là năm triều Nguyễn lập địa bạ trên quy mô lớn toàn Nam kỳ.
Với một kho tư liệu địa bạ đồ sộ và vô cùng quý giá trên sẽ giúp ích rất
lớn cho các nhà nghiên cứu lịch sử nông thôn Việt Nam trên nhiều phương diện.
2. Địa bạ huyện Bình Dương năm 1836
Theo đơn vị hành chính năm 1836, huyện Bình Dương là một huyện năm
trong phủ Tân Bình thuộc tỉnh Gia Định. Lúc đó tỉnh Gia Định vừa được đổi từ
tỉnh Phiên An sang.
Địa bạ Bình Dương nằm trong bộ sưu tập địa bạ tỉnh Gia Định có 122
quyển cho 122 làng. Sau khi xếp đặt lại theo đúng hệ thống hành chính, từ xã,
thôn tới tổng rồi huyện, phủ, tỉnh và nghiên cứu tứ cận của mỗi xã thôn, chúng
ta khám phá ra huyện Bình Dương mất 1 địa bạ.
Công cuộc đạc điền lập địa bạ cho Nam kỳ lục tỉnh vào năm 1836 là lần

đầu tiên và cũng là lần sau chót của triều Nguyễn. Mục đích chính của việc này
là làm cho mỗi người dân có một tổ chức xã thôn làm quê hương và một số
ruộng đất để nuôi thân.
Địa bạ huyện Bình Dương cũng như các địa bạ khác thời Minh Mệnh,
8
được trình bày theo cùng khuôn khổ giống nhau:
Phần đầu tiên của địa bạ ghi rất rõ đây là địa bàn huyện Bình Dương,
thuộc phủ Tân Bình tỉnh Gia Định. Tiếp theo là mô tả ranh giới của huyện, rồi
đến những số liệu tổng quát về ruộng đất bao gồm tổng ruộng đất công tư (tổng
diện tích công tư điền thổ), trong đó có bao nhiêu ruộng đất canh tác (thực
trưng), bao nhiêu ruộng đất bỏ hoang (lưu hoang). Trong từng loại tư điền, tư
thổ cũng phân chia rất rõ ràng gồm bao nhiêu là thực trưng, bao nhiêu lưu hoang
và cụ thể trong từng loại ruộng hay đất đó thì chất lượng ra sao (sơn điền, thảo
điền). Tiếp theo là các loại ruộng đất khác như là quan điền, quan thổ viên…
Phần tiếp theo và cũng là phần chính của địa bạ, miêu tả cụ thể từng thửa ruộng,
rồi đến đất tư hữu với các thông tin: diện tích, vị trí, giáp giới bốn phía đông,
tây, nam, bắc, họ tên người chủ sở hữu thửa ruộng đó, đồng thời ghi rõ người
chủ sở hữu đó thuộc loại phân canh hay phụ canh. Phần cuối cùng là các thủ tục
hành chính của địa bạ.
II. Một số đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Bình Dương qua phân
tích tư liệu địa bạ Gia Định lập năm 1836
1. Những số liệu tổng quát trong địa bạ và đặc điểm sở hữu ruộng đất
Trước khi lập địa bạ, hầu như tư điền chưa được xác định rõ ràng, ít nhất
về mặt pháp lý và chính thức ghi vào sổ bạ. Trương Đăng Quế nói rõ về quan
điểm này : “ Nam kỳ chứa chất tệ hại đã lâu, cường hào cậy mạnh bá chiếm,
người nghèo không đất cắm dùi. Có kẻ biệt xã chiếm ruộng đất xã khác, mà
người sở tại lại phải tá ngụ để cày cấy và ở. Có nơi ruộng chỉ khai một thửa , tô
thuế nguyên trưng không quá ba, bốn hộc, nay đã chia làm sáu, bảy thửa bán cho
người khác, mà các người mua ấy đều phải nộp thóc gấp bội cho chủ nguyên
trưng thu riêng; lại còn nhiều nỗi sách nhiễu không kể xiết! Nay khám đạc lại thì

mọi người cứ chiếm phần mình cày cấy, nộp thuế, không bị cường hào ức hiếp”.
Nguyên tắc xác lập quyền sở hữu như trên rất quan trọng vừa hợp tình, vừa hợp
lý. Nhà nước chống lại tệ nạn bá chiếm : Ai đang cày cấy thửa ruộng nào thì “Sở
hữu” thửa ruộng đó.
Theo số liệu của địa bạ huyện Bình Dương năm 1836, các loại ruộng đất
9
được phân bố như sau:
Bảng 1: Sự phân bố các loại ruộng đất của huyện Bình Dương
TT Loại ruộng Diện tích Tỷ lệ (%)
1 Thực trưng 4198.4.4.2 99,30%
* Thực canh
- Điền thực canh
+ Tư điền
+ Công điền
- Thổ thực canh
+ Tư thổ
+ Công thổ
3193.1.8.2
2516.2.9.8
2317.8.3.8
198.4.6.0
676.8.8.4
636.4.6.9
40.4.1.5
75,52%
59,51%
54,82%
4,69%
16,00%
15,05%

0,95%
* Sử dụng vào việc khác
- Tịch điền
- Quan dụng
- Dân cư thổ

1005.2.6.0
3.0.0.0
360.0.10.0
642.1.6.0
23,78%
0,07%
8,52%
15,19%
2 Lưu hoang 29.5.7.5 0.70%
Tổng cộng 4227.9.11.7 100.00%
* Ghi chú: Cột tỷ lệ trong bảng trên được tính so với tổng diện tích ruộng
đất của cả huyện.
- Số liệu thống kê trên cho thấy: Sở hữu tư nhân (bao gồm cả tư điền và tư
thổ) lên tới 69,87% tổng diện tích ruộng đất, chiếm hơn 2/3 diện tích ruộng đất
của cả huyện.
- Một điểm đáng lưu ý trong sự phân bố ruộng đất của huyện Bình Dương
năm 1836 là hầu như chỉ có tư điền, tư thổ; công điền thổ chiếm tỷ lệ rất ít
(5,64% tổng diện tích ruộng đất của huyện), quan dụng chiếm 8,52% tổng diện
tích ruộng đất của huyện.
- Ruộng đất lưu hoang của Bình Dương chiếm 0,70% tổng diện tích ruộng
đất cả huyện.
Trong khi đó, ruộng đất cả tỉnh Gia Định cũng vào thời điểm lập năm địa
10
bạ 1836 được phân bố như sau :

- So sánh với tỷ lệ ruộng tư của cả tỉnh Gia Định cùng thời điểm thì mức
độ sở hữu tư nhân về ruộng đất của Bình Dương thấp hơn (69,87% - 91,97%).
Tổng số tư điền, tư thổ của Gia Định là 156645.2.7.0, trong đó :
+ Tư điền là 155664.8.3.8 thì huyện Bình Dương chiếm 1,488% của tỉnh.
Số ruộng tư điền của huyện Bình Dương là thấp nhất trong cả tỉnh. Trong tỉnh
Gia Định, huyện Tân Hòa có diện tích tư điền lớn nhất, gấp gần 30 lần diện tích
tư điền huyện Bình Dương.
+ Tư thổ của toàn tỉnh Gia Định là 980.3.13.7. Bình Dương là một trong
hai huyện của Gia Định có tư thổ với diện tích 636.4.6.9.
Nói chung, diện tích tư thổ rất ít đối với tư điền. Tư thổ chiếm 21,54%
trong khi tư điền chiếm 78,46% toàn huyện. Trong tư thổ thì đất trồng cau (tức
viên lang thổ) chiếm tới quá nửa diện tích và tập trung trong tổng Bình Trị Hạ,
huyện Bình Dương đặc biệt là thôn Hanh Phú và xã Hanh Thông thuộc tổng
Bình Trị Hạ (trong quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh nay).
Bảng 2: Sự phân bố ruộng đất của tỉnh Gia Định
(theo số liệu địa bạ của Gia Định lập năm 1836)
TT Loại ruộng Diện tích Tỷ lệ (%)
1 Thực trưng 169325.8.8.6 99,41%
* Thực canh
- Điền thực canh
+ Tư điền
+ Công điền
- Thổ thực canh
+ Tư thổ
+ Công thổ
162955.3.12.7
161903.7.11.0
155664.8.8.3
6238.9.2.7
1051.6.1.7

980.3.13.7
71.2.3.0
95,67%
95,05%
91,39%
3,66%
0,62%
0,58%
0,04%
* Sử dụng vào việc
khác
- Tịch điền
- Quan dụng
- Dân cư thổ
3.0.0.0
360.0.10.0
6007.4.0.9
3,742%
0,002%
0,21%
3,53%
11

×