Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Báo cáo thực tập tổng hợp tại Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.44 KB, 26 trang )

I. Tìm hiểu chung về Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Phú Thọ.
1. Lịch sử hình thành.
Ngày 31/12/1945 Hồ chủ tịch đã ký sắc lệnh thành lập Uỷ ban nghiên cứu
kế hoạch kiến thiết, tiền thân của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch Nhà nước trước
đây, bộ Kế hoạch và đầu tư ngày nay.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, công tác kế hoạch
được xây dựng phục vụ 2 nhiệm vụ chiến lược là kháng chiến và kiến quốc. Mặc
dù mới ra đời, nhưng nghành kế hoạch đã tham mưu cho Chính phủ cân đối
nguồn lực, xây dựng các chương trình động viên nhân dân thi đua tăng gia sản
xuất , nuôi quân đánh giặc
Hoà bình lặp lại, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhiệm vụ chiến
lược của giai đoạn mới là khôi phục, phát triển kinh tế , xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất tổ quốc;
ngành kế hoạch đầu tư với chức năng nhiệm vụ của mình đã nghiên cứu, xây
dựng các chương trình , kế hoạch phát triển kinh tế , kế hoạch kinh tế -xã hội 5
năm đầu tiên( 1961-1965). Khi cuộc chiến tranh bằng không quân của đế quốc
Mỹ leo thang và lan rộng, Nhà nước chủ trương chuyển nền kinh tế sang thời
chiến, ngành Kế hoạch và đầu tư đã làm tốt vai trò tham mưu, xây dựng kế hoạch
chuyển nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến ( 1965-1975).
Có thể nói trong bối cảnh giai đoạn đó, kế hoạch hóa thực hiện theo cơ chế
tập chung đã phát huy tác dụng, chúng ta đã thực hiện thành công công cuộc khôi
phục và phát triển kinh tế, hoàn thành những chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm đầu
tiên. Miền Bắc từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đời sống nhân dân khó
khăn, thiếu thốn, trình độ dân trí thấp kém, kế hoạch hợp tác hoá nông nghiệp đã
đưa đại bộ phận người nông dân vào con đường làm ăn tập thể, từ chỗ thiếu đói,
nông thôn miền Bắc từng bước sản xuất lương thực đáp ứng nhu cầu tự cấp , chi
viện một phần cho chiến trường miền Nam. Công nghiệp từ chỗ không có gì, chỉ
trong thời gian ngắn nhiều nhà máy, công trường, các khu công nghiệp - nền
móng cơ sở vật chất ban đầu của chủ nghĩa xã hội ra đời. Phú Thọ có các khu
công nghiệp Việt Trì, Lâm Thao, Thanh Ba. Trong những năm chống chiến tranh
phá hoại không quân của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, Phú Thọ đã chuyển và đảm


bảo cho nền kinh tế thích nghi với thời chiến, vừa sản xuất , vừa chiến đấu, một
mặt động viên nhân tài, vật lực chi viện cho chiến trường miền Nam, mặt khác
vẫn củng cố hậu phương miền Bắc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế -văn hoá, xã
hội , đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho đời sống nhân dân.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, sự nghiệp
xây dựng và phát triển kinh tế -xã hội trong phạm vi cả nước đòi hỏi ngày càng
cao về chất lượng nghiên cứu và phạm vi công tác kế hoạch hoá , đòi hỏi phải có
những đổi mới về quản lý kinh tế . Công tác kế hoạch hoá đã bước vào một quá
trình thử nghiệm đầy gian nan thử thách. Trên cơ sở những thử nghiệm và tổng
kết thực tiễn , với quyết tâm đổi mới toàn diện xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI ( 1986) đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong đổi mới tư duy
và đường lối phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Ra đời cùng với hệ thống cơ quan kế hoạch địa phương của cả
nước(12/1955) theo Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ lúc đó, ngành Kế hoạch
và đầu tư Phú Thọ đã tiếp nối truyền thống của ngành bắt tay vào việc nghiên
cứu, xây dựng kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế -xã hội của mình ( 1955-
1960). Từ đó đến nay dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh,
của Bộ Kế hoạch và đầu tư , Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Phú Thọ đã hoàn thành
nhiệm vụ được giao, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế -xã
hội của tỉnh.
Với chức năng là cơ quan tham mưu tổng hợp về chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế -xã hội , về cơ chế chính sách quản lý kinh tế của cấp uỷ
Đảng, chính quyền địa phương, ngành kế hoạch Phú Thọ đã nghiên cứu, vận
dụng các cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa
phương tham gia cho cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương xây dựng mục tiêu,
phương hướng phát triển kinh tế -xã hội thông qua xây dựng các định hướng
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch kinh tế -xã hội 5 năm và hàng năm và các cơ chế
điều hành, giải pháp cụ thể để triển khao thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội

đã đề ra.
Trải qua hơn 50 năm, ngành Kế hoạch và đầu tư Phú Thọ luôn hoàn thành
nhiệm vụ mà Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương. Kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội qua từng thời kỳ đã thực sự là công cụ chủ yếu để quản lý, điều
hành, phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Nhờ những thành tựu đã đạt được,
ngành Kế hoạch và đầu tư Phú Thọ đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân
chương lao động hạng III, Huân chương lao động hạng II, Tỉnh Phú Thọ tặng
thưởng kỷ niệm chương Hùng Vương và nhiều phần thưởng cao quý khác của
Chính Phủ, Bộ Kế hoạch và đầu tư và UBND tỉnh.
2. Chức năng nhiệm vụ cơ bản.
2.1 Chức năng của sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Phú Thọ:
Sở Kế hoạch và đầu tư là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, tham
mưu, giúp UBNDE tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kế hoạch và
đầu tư : Tham mưu tổng hợp về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội; tổ
chức thực hiện và kiến nghị, đề xuất về cơ chế , chính sách quản lý kinh tế -xã
hội trên địa bàn tỉnh: đầu tư trong nước; ngoài nước; quản lý nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức ODA, đấu thầu đăng ký kinh doanh trong phạm vi địa phương;
về các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp luật;
thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của UBND tỉnh và theo
quy định của pháp luật.
Sở Kế hoạch và đầu tư chịu sự quản lý, chỉ đạo về tổ chức, biên chế và
công tác của UBND tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về
chuyên môn nghiệp vụ của Bộ Kế hoạch và đầu tư.
2.2 Nhiệm vụ và quyền hạn:
1-Trình UBND tỉnh ban hành Quyết định, Chỉ thị về quản lý các lĩnh vực
quy hoạch, kế hoạch và đầu tư thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của
pháp luật, phân cấp của Bộ Kế hoạch và đầu tư .
2-Trình UBND tỉnh quyết định việc phân công , phân cấp quản lý về các
lĩnh vực Kế hoạch và đầu tư cho UBND cấp huyện và các sở ban ngành của tỉnh
theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc tổ chức

thực hiện các quy định phân cấp đó.
3-Tổ chức hướng dẫn, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật về Kế hoạch và đầu tư ở địa phương, trong đó có chiến lược quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội của cả nước trên địa bàn tỉnh và những
vấn đề có liên quan đến việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch , sử
dụng các nguồn lực để phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh.
4-Về quy hoạch và kế hoạch :
4.1-Chủ trì tổng hợp và trình UBND tỉnh quy hoạch tổng thể, kế hoạch dài
hạn, kế hoạch 5 năm và hàng năm, bố trí kế hoạch vốn đầu tư thuộc ngân sách
địa phương; các cân đối chủ yếu về kinh tế - xã hội của tỉnh; trong đó có cân đối
tích luỹ và tiêu dùng, cân đối vốn đầu tư phát triển , cân đối tài chính.
Công bố và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế -xã hội của tỉnh sau khi đã được phê duyệt theo quy định.
4.2-Trình UBND tỉnh chương trình hoạt động thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội theo Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh và chịu trách nhiệm theo
dõi, tổng hợp tình hình thực hiện kế hoạch tháng, quý, năm để báo cáo UBND
tỉnh điều hoà, phối hợp thực hiện các cân đối chủ yếu về xã hội kinh tế của tỉnh.
4.3-Thực hiện quản lý và điều hành một số lĩnh vực về thực hiện kế hoạch
được UBND tỉnh giao.
4.4-Hướng dẫn các sở ban ngành, UBND các huyện, thành, thị xây dựng
quy hoạch, kế hoạch phù hợp với quy hoạch. kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội
chung của tỉnh đã phê duyệt.
4.5-Thẩm định các quy hoạch phát triển ngành, kế hoạch phát triển kinh tế
-xã hội của các ngành ; huyện thành, thị đảm bảo phù hợp với quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh trình UBND tỉnh phê duyệt.
4.6- Phối hợp với Sở Tài chính lập dự toán ngân sách tỉnh và phân bổ ngân
sách cho các đơn vị trong tỉnh để trình UBND tỉnh.
5-Về đầu tư trong nước và nước ngoài:
5.1-Trình và chịu trách nhiệm về nội dung các văn bản đã trình trước
UBND tỉnh về danh mục các dự án đầu tư trong nước, các dự án thu hút vốn đầu

tư nước ngoài cho từng kỳ kế hoạch và điều chỉnh trong trường hợp cần thiết.
5.2-Trình và chịu trách nhiệm về nội dung các văn bản đã trình trước
UBND tỉnh về tổng mức vốn đầu tư của toàn tỉnh; về bố trí cơ cấu vốn đầu tư
theo ngành, lĩnh vực, bố trí danh mục dự án đầu tư và mức vốn cho từng dự án
thuộc ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý; tổng mức hỗ trợ tín dụng hàng
năm, vốn góp cổ phần và liên doanh của Nhà nước, tổng hợp phương án phân bổ
vốn đầu tư và vốn sự nghiệp của các chương trình mục tiêu quốc gia và các
chương trình dự án khác do tỉnh quản lý trên địa bàn.
5.3-Chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính và các Sở ban ngành có liên quan
giám sát , kiểm tra đánh giá hiệu quả đầu tư của các dự án xây dựng cơ bản,
chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình dự án khác cho tỉnh quản lý.
5.4-Thẩm định các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch
UBND tỉnh trình UBND tỉnh; cấp giấy chứng nhân ưu đãi đầu tư cho các dự án
đầu tư trên địa bàn tỉnh theo phân cấp.
Làm đầu mối giúp UBND tỉnh quản lý hoạt động đầu tư trong nước đầu tư
nước ngoài vào địa bàn tỉnh và đầu tư ra nước ngoài theo quy định của pháp luật;
tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư, hướng dẫn thủ tục đầu tư và cấp phép đầu tư
thuộc thẩm quyền.
6-Về quản lý vốn ODA và các nguồn viện trợ phi Chính phủ:
Là cơ quan đầu mối vận động, thu hút, điều phối vốn và hướng dẫn các Sở,
ban ngành, xây dựng danh mục các chương trình sử dụng ODA.Tổng hợp các
danh mục các chương trình dự án sử dụng ODA.
Đánh giá thực hiện các chương trình dự án làm đầu mối xử lý theo thẩm
quyền việc bố trí vốn đối ứng, giải ngân thực hiện các dự án ODA.
7- Về quản lý đấu thầu:
- Chủ trì, thẩm định và chịu trách nhiệm về nội dung các văn bản trình Chủ
tịch UBND tỉnh về kế hoạch đấu thầu, kết quả xét thầu các dự án hoặc gói thầu
thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh.
- Hướng dẫn, theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy
định của pháp luật về đấu thầu và tổng hợp tình hình thực hiện các dự án đã được

phê duyệt và tình hình thực hiện đấu thầu.
8- Về quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất:
- Chủ trì thẩm định và trình UBND tỉnh quy hoạch tổng thể các khu công
nghiệp, khu chế xuất; cụm công nghiệp, cụm làng nghề và các cơ chế quản lý đối
với các cụm công nghiệp, cụm làng nghề phù hợp với tình hình phát triển thực tế
của địa phương.
9- Về doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh và kinh tế hợp tác xã:
- Chủ trì phối hợp các Sở, Ban, Ngành liên quan trình UBND tỉnh chương
trình, kế hoạch sắp xếp, đổi mới phát triển doanh nghiệp nhà nước do địa phương
quản lý.
- Làm đầu mối thẩm định và chịu trách nhiệm về các đề án thành lập, sắp
xếp, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý; tổng hợp tình
hình sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước.
- Tổ chức thực hiện đăng ký dinh doanh cho các đối tượng trên địa bàn
thuộc thẩm quyền của Sở; hướng dẫn nghiệp vụ đăng ký kinh doanh cho cơ quan
chuyên môn quản lý về kế hoạch và đầu tư cấp huyện.
- Phối hợp với các ngành kiểm tra, theo dõi, tổng hợp tình hình và sử lý
theo thẩm quyền các vi phạm sau đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp tại
địa phương; thu thập, lưu trữ và quản lý thông tin về đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật.
- Chủ trì, phối hợp với các Sở, Ban, Ngành đề xuất các mô hình và cơ chế,
chính sách phát triển kinh tế hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân,
hướng dẫn, theo dõi, tổng hợp và báo cáo UBND tỉnh và Bộ Kế hoạch và Đầu tư
về tình hình phát triển kinh tế hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình trên địa bàn tỉnh.
10- Chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ cho cơ quan chuyên
môn của UBND huyện thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu
tư trên địa bàn; theo dõi, kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
11- Tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác nghiên cứu ứng dụng tiến bộ
khoa học – công nghệ; thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kế hoạch và đầu
tư theo quy định của pháp luật; tổ chức quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các

tổ chức sự nghiệp dịch vụ công thuộc Sở.
12- Thanh tra, kiểm tra và sử lý theo thẩm quyền các vi phạm trong việc
thực hiện chính sách, pháp luật về lĩnh vực kế hoạch và đầu tư thuộc phạm vi
quản lý nhà nứôc của Sở; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp
luật.
13- Tổng hợp, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện nhiệm vụ
được giao theo quy định với UBND tỉnh và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
14- Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức
theo quy định của pháp luật và phân cấp của UBND tỉnh; tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước
thuộc quyền quản lý của Sở và phát triển nguồn nhân lực ngành kế hoạch và đầu
tư ở địa phương.
15- Quản lý tài chính, tài sản được giao và thực hiện ngân sách được phân
bổ theo quy định của pháp luật và phân cấp của UBND tỉnh.
16- Thực hiện nhiệm vụ do Chủ tịch UBND tỉnh giao: Quản lý, vận hành,
khai thác sử dụng có hiệu quả trang thông tin ( Web) của tỉnh và một số nhiệm vụ
khác.
3. Các vấn đề về tổ chức bộ máy:
a- Lãnh đạo Sở: Sở Kế hoạch và Đầu tư có giám đốc và các phó giám đốc.
b- Các đơn vị giúp Giám đốc Sở thực hiện chức năng quản lý nhà nước:
1. Văn phòng
2. Thanh tra
3. Phòng Tổng hợp
4. Phòng Kinh tế ngành
5. Phòng văn xã
6. Phòng Hạ tầng
7. Phòng Kinh tế đối ngoại
8. Phòng Đăng ký kinh doanh
9. Phòng Thẩm định và quản lý dự án
e- Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc:

1- Trung tâm tư vấn và xúc tiến đầu tư.
2- Trung tâm thông tin kinh tế - xã hội ( có đề án thành lập riêng).
4. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế.
4.1. Kết quả, thành tựu đạt được.
Điểm lại trong thời gian qua, một số lĩnh vực cụ thể ngành kế hoạch Phú
Thọ được giao và đã hoàn thành tốt đó là:
(1) Công tác quy hoạch, định hướng chiến lược:
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành. Trong
nhiều năm qua ngành đã tập hợp và huy động được đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật, quản lý kinh tế - văn hoá xã hội của địa phương, tranh thủ được các nhà
khoa học, các chuyên gia giỏi của các Bộ, Ngành Trung ương tập trung trí tuệ,
thừ kế kiến thức, kinh nghiệm của các thế hệ cán bộ đi trước, dưới sự chỉ đạo của
Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
1986 – 2000, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và
định hướng phát triển đến năm 2020. Chất lượng công tác quy hoạch qua thực
tiễn đã được kiểm nghiệm đảm bảo đủ các yêu cầu thông tin, dự báo, xác định
tiềm năng thế mạnh, định hướng về phân bổ nguồn lực, các cân đối lớn của nền
kinh tế, định hướng khai thác, sử dụng tiềm năng làm cơ sở cho việc xây dựng
các quy hoạch ngành, kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm.
(2) Công tác xây dựng, tổ chức thực hiện các kế hoạch 5 năm, kế hoạch
hàng năm:
Trên cơ sở các quy hoạch, định hướng, nhiệm vụ thường xuyên của ngành
là xây dựng các kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm. các kế hoạch đã thường
xuyên bám sát chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, thực tế của địa
phương, xác định được những mục tiêu, đề ra được những giải pháp thiết thực.
Là cơ quan được Tỉnh uỷ, UBND tỉnh giao là đầu mối tổ chức thực hiện kế
hoạch, thông qua nắm bắt tình hình, chuẩn bị các báo cáo đánh giá thực hiện kế
hoạch hàng năm, 6 tháng, quý, các đề án, ngành đã luôn hoàn thành xuất sắc các
nhiệm vụ giúp cho Đảng và chính quyền địa phương nắm bắt và chỉ đạo công
cuộc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.

(3) Công tác thu hút nguồn lực cho đầu tư phát triển:
Thông qua việc xác định danh mục công trình, dự án, đối tượng đầu tư,
ngành kế hoạch đã phối hợp các ngành hữu quan đã tạo được sự quan tâm giúp
đỡ đáng kể của các Bộ, Ngành Trung ương về thu hút nguồn vốn; tổ chức lồng
ghép, thực hiện các chương trình dự án hợp lý, hiệu quả. Bằng việc tham mưu đề
xuất các cơ chế chính sách như các chính sách ưu đãi đầu tư, cơ chế giải pháp
thực hiện các hỗ trợ, ưu đãi theo luật Doanh nghiệp, luật Khuyến khích đầu tư
trong nước, cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa một đầu mối
trong đăng ký kinh doanh, cấp ghép đầu tư đã tạo ra môi trường đầu tư thuận
lợi thu hút được nhiều nguồn lực trong dân và bên ngoài cho đầu tư phát triển.
Chỉ tính trong 5 năm vừa qua, tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn đã tăng 4 lần.
Cơ caaus vốn ngoài nhà nước tăng nhanh đáp ứng phần quan trọng cho phát triển
kinh tế xã hội và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
(4) Ngành đã làm tốt các chức năng thẩm định dự án, thẩm định kế shoạch
đấu thầu, kết quả đấu thầu; tham mưu trong xắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp
nhà nước, trong công tác cấp phép, quản lý kinh doanh, trong công tác kinh tế đối
ngoại.
Ngoài việc hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác chuyên môn, ngành kế hoạch
đầu tư Phú Thọ luôn quan tâm đến công tác quy hoạch, đào tạo, nâng cao trình độ
đội ngũ cán bộ. Cùng với thời gian, ngành kế hoạch đầu tư Phú Thọ luôn quan
tâm đến công tác quy hoạch, đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ. Cùng với
thời gian, ngành kế hoạch đầu tư Phú Thọ đã có sự phát triển mạnh mẽ về quy
mô và chất lượng; đã xây dựng và tập hợp được một đội ngũ công chức, chuyên
gia có trình độ, có bề dày kinh nghiệm, bên cạnh luôn có một lực lượng kế cận
trẻ, năng lực, luôn tận tuỵ với công việc và không ngừng đổi mới cả tư duy quản
lý và phương pháp công tác, luôn đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn phát
triển của Tỉnh, phù hợp với xu thế chung của nước và tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
4.2.Khó khăn hạn chế.
Ngành Kế hoạch và đầu tư Phú Thọ đang đứng trước những thử thách lớn

lao phải vượt qua để đáp ứng với yêu cầu trong giai đoạn mới, trước hết phải
mạnh giạn đề ra những thiếu sót yếu kém cần khắc phục đó là: Việc đổi mới công
tác kế hoạch hoá còn chậm cả về tư duy nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu,
chưa thực sự khơi dậy mọi nguồn lực phát triển , chưa bao quát hết toàn bộ các
hoạt động kinh tế -xã hội chưa động viên thúc đẩy được khả năng sáng tạo của
các thành phần kinh tế ; chất lượng công tác quy hoạch, dự báo, thông tin kinh tế
-xã hội còn chưa cao. Trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ công chức trong ngành
còn có những mặt hạn chế.
5.Phương hướng hoạt động trong thời gian tới.
Phải tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá, đổi mới tư duy và phương
pháp nghiên cứu xây dựng kế hoạch. Để đạt được mục tiêu sớm đưa tỉnh nhà
thoát hỏi tỉnh nghèo từ nay đến năm 2010, không chỉ đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng mà phải nâng cao chất lượng phát triển, cùng với phát triển kinh tế phải
quan tâm đến những vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, thúc đẩy hội
nhập kinh tế quốc tế. Như vậy, công tác kế hoạch hoá phải bao quát toàn bộ các
hoạt động kinh tế - xã hội, phải động viên khai thác mọi nguồn lực trong tỉnh cho
đầu tư phát triển, phải đảm bảo các cân đodói cho một sự phát triển bền vững.
Hướng đổi nới trong tư duy và phương pháp xây dựng kế hoạch là thực hiện dân
chủ trong lựa chọn mục tiêu, bước đi tạo sự đồng thuận, khơi dậy và kích thích
tiềm năng sáng tạo của các tầng lớp dân cư, của các thành phần kinh tế, khai thác
tốt nhất nội lực và thu hút nhiều nhất ngoại lực. Mở rộng phân cấp kế hoạch phù
hợp với khả năng, điều kiện của các cấp, các ngành gắn liền với thực hiện cơ chế
đồng bộ trong kiểm tra, kiểm soát tăng cường hoạt động phối hợp giữa các cấp
các ngành trong công tác kế hoạch.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy trong hệ thống cơ quan kế hoạch và đầu
tư, tăng cường kỷ cương Nhà nước và chế độ trách nhiệm cá nhân. Một mặt đẩy
mạnh cải cách hành chính, xây dựng một nền hành chính hiện đại tăng chất
lượng, hiệu lực quản lý nhà nước trong ngành; mặt khác coi trọng và tăng cường
đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của ngành theo hướng
chuyên nghiệp có trình độ, năng lực có phẩm chất đạo đức, đáp ứng với yêu cầu

nhiệm vụ đặt ra.
II.Tìm hiểu về công tác kế hoạch hoá của tỉnh Phú Thọ hiện nay
1.Nhận thức về công tác kế hoạch hoá:
Sau một loạt những chủ trương cải cách nền kinh tế kế hoạch tập trung bao
cấp từ những kỳ đại hội trước, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là dấu mốc
quan trọng mở ra một thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Nền kinh tế chủ yếu là
khu vực kinh tế Nhà nước chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động
theo cơ chế thị trường. Công tác kế hoạch hoá của nhà nước nói chung cũng như
của tỉnh Phú Thọ nói riêng có nhiều đổi mới: Mở rộng phạm vi nội dung kế
hoạch , công tác kế hoạch không chỉ gồm kế hoạch của khu vực kinh tế Nhà nước
mà phải bao quát toàn bộ nền kinh tế với nhiều thành phần tham gia, nội dung kế
hoạch không chỉ là phân bổ các nguồn lực mà còn phải xây dựng cả những chính
sách nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước phát triển theo
định hướng đã được xác định.
Những thay đổi đó thúc đẩy quá trình tư duy trong công tác kế hoạch hoá
là xây dựng kế hoạch theo định hướng thị trường. Tư duy mới này đã dẫn đến
những thay đổi quan trọng trong đổi mới nội dung cũng như phương thức lập,
điều hành kế hoạch , tạo sự linh hoạt và góp phần đắc lực cho phát triển kinh tế
Phú Thọ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Vai trò vị trí của công
tác kế hoạch hoá cũng khác, công tác kế hoạch hoá không còn là việc của một cơ
quan , một ngành mà bước đầu đã huy động được trí tuệ của các xã hội tham gia.
Vì vậy, tính công khai minh bạch và tính dân chủ đã trở thành nhân tố quan trọng
đảm bảo sự dân chủ và đáp ứng tốt hơn nhu cầu nguyện vọng của toàn dân.
Tuy nhiên tư duy của một số bộ phận, địa phương trong tỉnh vẫn còn hạn
chế, chưa kịp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường, có xu hướng giữ lại
hoặc trở lại kế hoạch hoá kiểu cũ còn khá mạnh, ngay trong một bộ phận của Nhà
nước và một phần dư luận của quần chúng không khí bao cấp còn khá nặng. Tư
tưởng “ kế hoạch hiện vật” và ỷ lại vào cấp trên có chiều hướng gia tăng: các
huyện, các ngành cố gắng xin thật nhiều dự án, nhiều chương trình, vẫn muốn
Nhà nước giao cho nhiều chỉ tiêu pháp lệnh cụ thể nhằm gắn với đó là nguồn lực

Nhà nước cân đối, nhưng phần đóng góp cho ngân sách vào nền kinh tế không
tương xứng với số vốn đầu tư được bổ sung.
2. Quy trình lập, thông qua kế hoạch hàng năm của tỉnh:
Thời gian qua, quy trình lập và thông qua kế hoạch đã có những thay đổi
cơ bản, hình thức giao số kiểm tra được thay thế bằng việc cung cấp các thông tin
cần thiết nhằm hướng dẫn các ngành, địa phương và đơn vị cơ sở xây dựng, tổng
hợp kế hoạch theo những mục tiêu, định hướng chung của Nhà nước , của tỉnh
khai thác được tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, từng địa phương và cơ sở,
tổng hợp kế hoạch từ cơ sở và giám sát , theo giõi quá trình thực hiện kế hoạch .
Quy trình lập kế hoạch đã hạn chế sự áp đặt ý chí chủ quan từ cấp trên xuống cấp
dưới, phát huy được tính chủ động sáng tạo của các cấp, các ngành và các cơ sở
sản xuất kinh doanh trong việc lập và thực hiện kế hoạch.
2.1 Quy trình lập kế hoạch :
Hiện nay quy trình lập kế hoạch cuả tỉnh Phú Thọ hàng năm được tiến hành theo
4 bước, thông qua 02 cấp thực hiện là cấp tỉnh và cấp huyện, như sau:
Bước 1:Trên cơ sở chỉ thị của Thủ tướng Chính Phủ và hướng dẫn của Bộ
Kế hoạch và đầu tư , sở Kế hoạch và đầu tư tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng
hệ thống chỉ tiêu để hướng dẫn và chỉ đạo cho các ngành, các huyện, thành thị
trong lập kế hoạch .
Thời gian triển khai hoàn thành :15/7- 25/7
Bước 2: Các sở , ngành, huyện, thành, thị cân đối nhu cầu địa phương, đơn
vị xây dựng kế hoạch theo hướng dẫn của sơ Kế hoạch và đầu tư . Gửi dự kiến kế
hoạch về sở Kế hoạch và đầu tư .
Thời gian triển khai hoàn thành: 25/5- 15/8.
Bước 3: Sở Kế hoạch và đầu tư tổng hợp kế hoạch , tiến hành rà soát , cân
đối. Trên cơ sở đó kế hoạch của tỉnh sẽ được điều chỉnh để trình lên UBND tỉnh
và báo cáo , bảo vệ kế hoạch trước Bộ Kế hoạch và đầu tư .
Thời gian triển khai hoàn thành 10/8-20/8
Bước 4:Trên cơ sở kế hoạch giao của Nhà nước , sở Kế hoạch và đầu tư
tham mưu cho UBND tỉnh lập kế hoạch cho toàn tỉnh, tiến hành duyệt và thông

qua kế hoạch tại các cơ quan cấp trên, HĐND tỉnh. Giao kế hoạch chính thức cho
các đầu mối kế hoạch .
Thời gian triển khai hoàn thành : Tháng 12- tháng 1 năm sau.
*Quy trình trên đã bộc lộ một số khuyết điểm sau:
- Quy trình xác định mục tiêu chủ yếu dựa vào những số liệu, ý đồ cấp
trên, việc xác định mục tiêu, chương trình chủ yếu do các cơ quan Nhà nước
thực hiện, chưa hoạc ít tham khảo các tổ chức kinh tế xã hội hoặc người dân.
Điều này dễ dẫn đến những chương trình chưa đáp ứng được những nhu cầu thực
sự cấp bách của người dân hoặc các doanh nghiệp trong phạm vi quản lý. Cấp
huyện và cấp xã hầu như không trực tiếp tham gia vào vịêc thực hiện bước này.
Việc xác định các chỉ tiêu cấp tỉnh chủ yếu dựa vào thông báo xây dựng của Bộ
Kế hoạch và đầu tư .
- Quy trình chỉ có 2 cấp thực hiện( tỉnh và huyện) , cấp xã tham gia chỉ
mang tính hình thức. Trong khi cấp xã có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện các
chương trình xã hội cũng như huy động nội lực để giải quyết các chương trình xã
hội trên địa bàn.
- Trong bước 2 của quy trình, cấp huyện khi xây dựng các dự án đầu tư
phát triển , không ít các đơn vị đã xây dựng các dự án mà không thực sự căn cứ
vào khả năng cân đối vốn, tính trọng điểm cấp thiết của dự án, đưa ra nhu cầu
quá cao vì thế khi báo cáo cấp tỉnh thường không có tính khả thi xây dựng, hiệu
quả lập kế hoạch thấp.
- Việc dự báo hầu như không được đề cập đến trong quá trình xây dựng kế
hoạch . Do thiếu thông tin và phân cấp nhiệm vụ cụ thể, việc phân tích và dự báo
nói chung không thực hiện một cách chi tiết dẫn đến hiện tượng ỷ lại vào cấp trên
hoặc xuất hiện sự trùng lắp trong khâu chuẩn bị kế hoạch . Công việc này hầu
như không thực hiện ở cấp huyện, cấp xã.
- Quá trình lập kế hoạch còn bị hạn chế quá nhiều bởi thời gian, không có
điều kiện phối hợp chặt chẽ giữa các cấp và các ngành. Việc lập kế hoạch hầu
như chỉ thông qua các cấp chính quyền hoặc cơ quan chức năng ở các cấp, sự
tham gia đóng góp của người dân hay các tổ chức kinh tế xã hội hầu như không

có hoặc nếu có cũng chỉ dừng ở mức độ hình thứcvà rất gián tiếp. Làm giảm chất
lượng và tính khả thi của nội dung kế hoạch .
2.2 Quy trình thông qua kế hoạch:
* Trình tự thông qua kế hoạch để báo cáo Nhà nước :
( Bộ Kế hoạch và đầu tư , Bộ Tài chính)
xã, phường, thị trấn,
cơ sở sản xuất kinh
doanh nhỏ
UBND các
huyện, thành,
thị
Các doanh nghiêp,
đơn vị trực thuộc
(trạm, trại, nông lâm
trường)
Các sở, ban,
ngành
Sở Kế hoạch và đầu
tư , sở Tài chính.
Tổng hợp thành báo
cáo của tỉnh
UBND tỉnh
Tỉnh uỷ
Nhà nước
( Bộ Kế hoạch và đầu
tư , Bộ Tài chính)
Ghi chú: Trình tự thông qua
Điều chỉnh
Thời gian: Từ tháng 7- 8 hàng năm ( đối với kế hoạch hàng năm)
• Trình tự thông qua để giao kế hoạch

Thời gian: Tháng 12 năm trước đến tháng 1 năm kế hoạch
Chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao
Sở Kế hoạch và đầu tư , sở Tài chính
Tổng hợp, phân bổ các chỉ tiêu, xây dựng cơ chế điều hành và giao
kế hoạch
Thông qua UBND tỉnh
Thông qua Tỉnh uỷ
Thông qua HĐND
Chủ tịch UBND tỉnh ký, giao cho các đầu mối
Chủ tịch
UBND
các
huyện,
thành,
thị
Giám
đốc các
sở, ban,
ngành,
đoàn
thể
Thủ
trưởng
các đơn
vị dự
toán cấp
I, DNNN
Chủ đầu
tư các
công trình

XDCB
tỉnh quản

Chủ
tịch
UBND
các xã
nghèo,
ĐBKK
Các xã phường, thị trấn, các đơn vị trực thuộc (nếu có)
3. Những nội dung trong kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh:
Nội dung chủ yếu trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh gồm:
-Bối cảnh thực hiện năm ( kỳ ) kế hoạch
-Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch
-Khó khăn thuận lợi của năm( kỳ) kế hoạch tiếp theo.
-Xác định các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu.
Nhiệm vụ trọng tâm của năm( kỳ) kế hoạch .
-Giải pháp , nhiệm vụ của từng ngành và lĩnh vực.
-Cơ chế điều hành
Nội dung kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội hàng năm đã bao hàm khu
vực kinh tế tư nhân, tuy nhiên chưa đầy đủ và tính kế hoạch chưa cao, mới tập
chung ở nội dung: Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh ( có giao chỉ
tiêu hướng dẫn cho các huyện thành thị), một số sản phẩm công nghiệp, đầu tư
phát triển khu vực dân cư và tư nhân, thuế công thương nghiệp. Nhưng thực chất
mới thể hiện rõ ở 2 nội dung, đó là: Thu thuế và giao giá trị sản xuất công nghiệp
ngoài quốc doanh, (các mặt còn hạn chế).
Dưới đây là một số nội dung cụ thể trong kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội
tỉnh Phú Thọ:
3.1 Hệ thống biểu mẫu lập kế hoạch:
* Hệ thống biểu mẫu lập kế hoạch cấp tỉnh:

Hệ thống biểu mẫu phục vụ công tác kế hoạch ở cấp tỉnh hiện nay được xây dựng
trên cơ sở những yêu cầu báo cáo kế hoạch của Bộ Kế hoạch và đầu tư . Sau một
thời gian đổi mới công tác kế hoạch hoá, số lượng chỉ tiêu yêu cầu báo cáo giảm
đáng kể , đồng thời cấp tỉnh cũng được phân quyền hoặc uỷ nhịêm nhiều hơn
trong việc khuyến khích kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư.
Tuy vậy, hệ thống biểu mẫu của tỉnh hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
cho việc xây dựng chính sách kinh tế - xã hội. Cũng tương tự như ở các cấp khác,
do chưa có những số liệu phận tích cơ bản nên nội dung những biện pháp chính
sách trong kế hoạch tỉnh vẫn chưa được cụ thể hoá. Để giải quyết được vấn đề
này, cần xác định rõ hơn nhiệm vụ của cấp tỉnh trên nguyên tắc chỉ giải quyết
những vấn đề mang tính liên huyện hoặc những vấn đề mà cấp huyện không giải
quyết được .
* Hệ thống biểu mẫu cấp huyện:
Nội dung chủ yếu của biểu mẫu cấp huyện là tổng hợp số liệu từ cấp xã.
Trong thực tế, quá trình phân cấp trong công tác kế hoạch hoá chưa được xác
định một cách rõ ràng nên sự khác biệt giữa biểu mẫu kế hoạch cấp huyện và cấp
xã không lớn. Nếu như ở kế hoạch cấp xã cần được biểu hiện tương đối cụ thể
các nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong phạm vi xã thì ở cấp
kế hoạch cấp huyện cần đề ra những nhiệm vụ mang tính liên xã hoặc những
nhiệm vụ mà cấp xã không tự giải quyết được .
* Hệ thống biểu mẫu cấp xã:
Tại hầu hết các xã hiện nay, dù hệ thống biểu mẫu đơn giản hay phức tạp
thì việc điền biểu mẫu cũng chỉ mang tính hình thức, trong nhiều trường hợp phải
cử cán bộ phòng KH-TC xuống các xã để làm những biểu mẫu này.
3.2 Chỉ tiêu giao kế hoạch :
Chỉ tiêu giao kế hoạch hàng năm của Phú Thọ gồm chỉ tiêu pháp lệnh, chỉ
tiêu hướng dẫn và chỉ tiêu mang tính chất thông báo cho huyện, sở, ngành những
chương trình, dự án đầu tư mà đơn vị khác là chủ đầu tư trên địa bàn hay đơn vị
quản lý. Phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch hiện nay là chỉ tiêu giá trị, có xu hướng
chuyển dần sang điều tiết kinh tế vĩ mô và các chỉ tiêu xã hội .

Hiện nay hệ thống chỉ tiêu kế hoạch còn một số bất cập là: Hệ thống chỉ
tiêu ở lĩnh vực xã hội , văn hoá, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường còn ít. Chúng
ta đang nỗ lực phát triển kinh tế gắn liền với công tác xoá đói giảm nghèo bền
vững nên rất cần phải đưa vào kế hoạch các chỉ tiêu về xoá đói giảm nghèo.
Tiếp tục chỉnh sửa các chỉ tiêu không thực sự cần thiết.
3.3 Đầu mối giao kế hoạch
* Đầu mối cấp tỉnh:
Chủ tịch UBND tỉnh giao chỉ tiêu kế hoạch cho các đối tượng là Giám đốc
các sở, ban ngành, đoàn thể, hội cấp tỉnh. Chủ tịch UBND các huyện thành thị;
chủ tịch UBND các xã nghèo, đặc biệt khó khăn ( đối với những xã có khả năng
điều hành, thực hiện tốt mục tiêu các chương trình, dự án).Giám đốc các đơn vị
hạch toán cấp I, giám đốc các DNNN; Giám đốc các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế khác sản xuất kinh doanh những mặt hàng theo đơn đặt hàng của
Nhà nước ; chủ đầu tư các công trình XDCB thuộc nguồn vốn tỉnh quản lý, chủ
dự án các chương trình mục tiêu, chương trình quốc gia thực hiện trên địa bàn
tỉnh, các chương trình kinh tế -xã hội khác của tỉnh.
* Đầu mối cấp huyện:
Căn cứ chỉ tiêu kế hoạch đã được Chủ tịch UBND tỉnh giao, Chủ tịch
UBND huyện, thành, thị giao chỉ tiêu kế hoạch cho các Chủ tịch UBND xã,
phường, thị trấn, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc, chủ dự án các công trình do
huyện quản lý. Giám đốc sở, ngành giao chỉ tiêu sự nghiệp cho các đơn vị trực
thuộc ( nếu có)
So với giai đoạn trước, số lượng đầu mối giao kế hoạch đã giảm và được
tinh gọn rất nhiều, trước mắt đáp ứng được nhu cầu công tác kế hoạch hiện nay.
3.4 Chỉ đạo và điều hành kế hoạch :
Hàng năm sở Kế hoạch và đầu tư tham mưu cho UBND tỉnh ban hành
phương hướng , cơ chế điều hành kế hoạch , nhằm vừa đảm bảo sự quản lý của
Nhà nước, tránh sự can thiệp trực tiếp vào công việc kinh doanh của các cơ sở
.Quá trình điều hành kế hoạch đã chú ý nhiều hơn đến việc dự báo ngắn hạn, điều
chỉnh các mục tiêu, biện pháp kinh tế , sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ

mô, các cơ chế chính sách để định hướng và thúc đẩy thực hiện kế hoạch . Nếu
trước đây, kế hoạch chủ yếu tập chung vào kinh tế Nhà nước với kế hoạch hoá
trực tiếp là chính, thì nay đã chuyển sang kế hoạch định hướng phát triển toàn bộ
nền kinh tế , xã hội thông qua các cơ chế, chính sách.
Từ năm 1998, Phú Thọ áp dụng các hình thức công khai các chỉ tiêu kế
hoạch giao cho các đối tượng và gửi đến từng đại biểu HĐND tỉnh để theo dõi ,
kiểm tra, giám sát thực hiện.
Điều hành kế hoạch trong điều kiện hiện nay chủ yếu bằng công văn giấy
tờ hoặc thông qua các kỳ họp, giao ban, các đợt kiểm tra giám sát. Vì thế thường
chập và không kịp thời, xảy ra tình trạng hội họp nhiều, những năm gần đây, do
chính phủ cải tiến phương pháp, điều hành theo chương trình, dự án, nên ở cấp
tỉnh cũng có những cải tiến, yêu cầu các ngành lập chương trình, công việc và chỉ
đạo, điều hành cũng theo nội dung các chương trình , dự án được duyệt.
* Cơ sở chính cho việc lập các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh trong
phạm vi kế hoạch của tỉnh:
-Thị trường tiêu thụ.
-Nguồn nguyên liệu.
-Vốn đầu tư.
-Địa điểm đầu tư .
-Xác định chủ dự án.
-Công nghệ sản xuất .
-Vận hành sau đầu tư.
-Phương thức tiêu thụ sản phẩm.
4. Cơ sở cung cấp thông tin phục vụ kinh tế và công tác kế hoạch:
Từ thực tiễn cho thấy thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời là yếu tố cơ bản
quyết định chất lượng của công tác kế hoạch hoá.
* Nguồn thông tin:
- Các đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước , quy
hoạch, chiến lược phát triển , dự báo định hướng của các ngành, bộ, tỉnh.
- Các tài liệu cung cấp của ngành dọc cấp trên.

- Hệ thống báo cáo theo quy định của các ngành, các huyện thị và các đơn
vị cơ sở.
- Điều tra khảo sát thực tế.
- Các số liệu lịch sử có liên quan.
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các tạp chí, báo chí các
loại, các tập san chuyên đề.
* Phương pháp tổng hợp, xử lý thông tin.
Tổng hợp thông tin:
- Các ngành tổng hợp thông tin theo chức năng nhiệm vụ của ngành theo
cơ chế báo cáo các cơ quan tổng hợp như Thống kê, Kế hoạch, Tài chính, báo cáo
tổng hợp của Văn phòng UBND tỉnh( tháng, quý, năm). Thông tin này chủ yếu
theo chiều từ dưới lên.
- Tổng hợp thông tin từ bên ngoài tỉnh, chủ yếu do Sở Kế hoạch và đầu tư
tổng hợp, kết hợp hệ thống bộ phận kế hoạch của các ngành.
Xử lý thông tin:
Căn cứ vào những nguồn thông tin trên, đội ngũ chuyên gia thuộc các ngành, lĩnh
vực theo chức năng, nhiệm vụ tổng hợp, đề xuất giải pháp, kiến nghị theo hướng:
- Các thông tin đơn giản, có phạm vi ảnh hưởng hẹp thì đội ngũ chuyên
viên tự xử lý, đề xuất giải pháp, phương thức thực hiện ( các cơ chế, chính sách
bắt buộc triển khai).
- Các thông tin phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp thì tuỳ theo
tính chất thông tin để xử lý bằng các hình thức: Đưa ra hội nghị giao ban cơ quan
, giao ban cấp tỉnh, cấp cơ sở để xử lý, thống nhất các giải pháp.
- Trong đề xuất cách xử lý thông tin chủ yếu vẫn dùng hình thức chuyên
gia, hội nghị tư vấn của các ngành để đề xuất xử lý, chưa có sử dụng công cụ
máy tính trợ giúp. Việc xin trợ giúp tư vấn nước ngoài chủ yếu áp dụng cho các
đơn vị đơn lẻ, kiểm định sự chính xác của các thông tin( chưa sử dụng cho công
tác xây dựng kế hoạch ).
5. Phối hợp giữa các cấp, các ngành trong việc lập và điều hành thực
hiện kế hoạch :

5.1. Phối hợp giữa tỉnh với các ngành Trung ương:
Kết quả kinh tế -xã hội đạt được những năm qua, ,một phần quan trọng là
đã có sự phối hợp tốt giữa tỉnh với các bộ ngành, ngành Trung ương , giữa các
cấp chính quyền trong tỉnh trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch.
Tuy nhiên, sự phối hợp mới thể hiện ở những định hướng, chủ trương, các
chương trình lớn , còn trong những lĩnh vực cụ thể, đặc biệt là giải pháp chưa có
sự kết hợp chặt chẽ, làm chậm mục tiêu kế hoạch đề ra.
- Dựa vào quy hoạch phát triển của ngành, tỉnh cung cấp các thông tin thực
tế của địa phương.
- Việc tham gia điều hành lập kế hoạch chủ yếu theo chương trình( ví dụ:
các chương trình mục tiêu quốc gia, Bộ đề ra các mục tiêu chung, tỉnh xây dựng
kế hoạch , mục tiêu của địa phương; Bộ cân đối chi phí, tỉnh triển khai thực
hiện).
- Bộ trợ giúp về tư vấn kỹ thuật, tỉnh triển khai trực tiếp.
- Phân công trách nhiệm, điều hành theo từng dự án.
5.2 Giữa tỉnh với huyện:
- Có sự phối hợp tốt, chặt chẽ, trong việc xây dựng, thực hiện kế hoạch
giữa cấp tỉnh và huyện( báo cáo, hướng dẫn, tổng hợp) đảm bảo đúng định hướng
phát triển chung. Tuy nhiên, việc kiểm tra giám sát thực hiện kế hoạch còn hạn
chế, hướng dẫn chưa sâu.
Sự liên kết trong việc lập và điều hành kế hoạch giữa tỉnh và huyện theo
mô hình sau:
- Căn cứ định hướng phát triển của Nhà nước , hướng dẫn của các bộ
ngành, tỉnh hướng dẫn cấp huyện thực hiện kế hoạch . Căn cứ kế hoạch các
huyện, tỉnh tập hợp chung kế hoạch của tỉnh báo cáo Nhà nước .
Khi có kế hoạch chính thức, tỉnh giao cho các huyện, thành, thị gồm: Chỉ
tiêu pháp lệnh, chỉ tiêu hướng dẫn và thông báo cho các huyện biết những danh
mục công trình do các ngành làm chủ đầu tư trên địa bàn huyện.
- Hàng tháng, hàng quý, huyện báo cáo tình hình kế hoạch về các ngành
tổng hợp( kế hoạch , tài chính, thống kê) trên cơ sở đó, tỉnh nắm tình hình thực

hiện kế hoạch của các huyện.
5.3 Giữa tỉnh với các tỉnh lân cận:
- Phối hợp xây dựng kế hoạch giữa tỉnh Phú Thọ với các tỉnh bạn còn
ít( trừ việc tham khảo về quy hoạch tổng thể kinh tế -xã hội của tỉnh), phần nhiều
chỉ là trao đổi học hỏi kinh nghiệm, trao đổi các giải pháp, ứng dụng các mô hình
kinh tế điển hình cũng như các phương pháp điều hành.
Việc tham khảo để xây dựng kế hoạch chủ yếu là cấp sở, ngành, cấp tỉnh (UBND
tỉnh) càng ít và hầu như không có.
Có thể nói, việc phối hợp giữa các cấp, các ngành để lập và điều hành kế
hoạch mới thực hiện tương đối tốt ở quan hệ dọc, mà ít chú ý tới các quan hệ
ngang( không gian), đây là hạn chế khá phổ biến, gây nên tình trạng co kéo mục
tiêu, cạnh tranh không lành mạnh và lãng phí nguồn lực.
6. Sự phối hợp giữa sở Kế hoạch và đầu tư với các sở ngành khác
trong phạm vi tỉnh:
6.1 Phối hợp trong việc lập và thực hiện kế hoạch :
Có sự phối hợp tương đối chặt chẽ trong việc lập kế hoạch phát triển kinh
tế -xã hội của tỉnh, phản ánh khá đầy đủ các mục tiêu nhiệm vụ chủ yếu trong
năm kế hoạch của các ngành. Việc phối hợp điều hành thực hiện kế hoạch chưa
tốt, có nội dung ngành được bổ xung nhưng chưa được phản ánh, điều chỉnh kịp
thời trong kế hoạch .
6.2 Phối hợp trong việc xây dựng các chính sách:
Xây dựng cơ chế, chính sách, các giải pháp giữa sở Kế hoạch và đầu tư và
các ngành mới làm tốt ở lĩnh vực đầu tư vốn tập trung, còn các lĩnh vực khác
phối hợp chưa tốt.
6.3 Phối hợp trong việc cung cấp thông tin:
Có sự quy định chặt chẽ việc cung cấp thông tin trong cơ chế điều hành kế
hoạch. Song thực tế việc thông tin làm chưa tốt, nắm chế độ thực hiện các chỉ
tiêu thường chậm, chưa sát.
Những hạn chế trong sự phối hợp giữa sở Kế hoạch và đầu tư với các sở,
ngành khác chịu sự tác động mạnh mẽ của việc phân cấp quản lý cũng như khả

năng điều hành của UBND tỉnh( điều hành không tốt thì không thể phối hợp tốt).
Hơn nữa ý thức chưa thực sự vì lợi ích chung, sự co kéo về mục tiêu còn khá phổ
biến. Vì lẽ đó, phải kết hợp đâye mạnh cải cách hành chính, bộ máy, làm rõ chức
năng nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan đơn vị, nâng cao hiệu lực điều hành
của các cấp chính quyền đối với công tác kế hoạch đặc biệt là cấp tỉnh( Ngay cả
cấp Trung ương việc phối hợp giữa các Bộ cũng còn nhiều tồn tại, nếu Chính
phủ chỉ đạo điều hành không tốt thì việc chồng chéo, hiệu quả đầu tư thấp là
đương nhiên).
7. Phối hợp giữa quy hoạch của tỉnh với quy hoạch của ngành:
7.1 Cơ sở và phương pháp xây dựng quy hoạch trên địa bàn tỉnh:
Nội dung, cơ sở của quy hoạch phát triển kinh tế -xã hội phải phù hợp với
các điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, nâng cao tính định hướng và
tính hiện thực, làm cơ sở cho kế hoạch 5 năm và hàng năm trong quy trình kế
hoạch hoá và quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực ở cấp vĩ mô. Do vậy, trong
nghiên cứu kế hoạch phải dựa trên những căn cứ chủ yếu sau đây:
- Căn cứ tình hình phát triển kinh tế -xã hội giai đoạn trước, những thành
tựu đạt được và những hạn chế, yếu kém rút ra các đặc điểm thuận lợi, dự kiến
các mục tiêu cần đạt được trong giai đoạn quy hoạch.
- Dựa trên đánh giá những tác động của bối cảnh quốc tế, khu vực và thực
hiện các chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của cả nước đến quá trình phát triển
của tỉnh giai đoạn trước và dự báo tác động trong tương lai.
- Căn cứ vào chủ trương, đường lối mở cửa, phát triển công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh, các quy
hoạch phát triển của các ngành Trung ương trên lãnh thổ, các quy hoạch vùng
(vùng Đông Bắc, vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ ).
Luận chứng các quan điểm, mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế
-xã hội của tỉnh trong giai đoạn quy hoạch dựa trên cơ sở:
- Xử lý tổng hợp liên ngành, liên vùng về các vấn đề phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh, lựa chọn cơ cấu kinh tế , cơ cấu đầu tư , thứ tự ưu tiên đầu tư phát
triển cho các ngành, các dự án.

- Tổ chức không gian lãnh thổ của tỉnh, chia ra các tiểu vùng trong tỉnh và
dự kiển phát triển đô thị, các khu công nghiệp.
- Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế , xã hội hợp lý đảm bảo phát triển ổn
định và bền vững cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các ngành
và dân cư trong tỉnh.
- Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên.
- Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, xây dựng năng lực nội sinh về
khoa học công nghệ.
- Các biện pháp đổi mới quản lý bao gồm cải cách hành chính, đào tạo đội
ngũ công chức.
+Phương pháp xây dựng quy hoạch: Trên cơ sở đánh giá các yếu tố bên
ngoài tác động đến chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh
( trong nước, quốc tế ). phân tích đánh giá và dự báo các nhân tố nội lực chủ
yếu( lao động, tài nguyên, vốn, công nghệ ).
Xác định mục tiêu chiến lược, bước đi phù hợp cho các ngành. các lĩnh
vực chủ yếu, trong đó xác định rõ nhu cầu thị trường, khả năng có thể đáp ứng
của nền kinh tế .
7.2 Mối quan hệ giữa quy hoạch phát triển ngành với kế hoạch phát
triển của tỉnh:
Công tác quy hoạch ngành đã và đang được triển khai thực hiện có tác
dụng tích cực đến khai thác các thế mạnh tiềm năng, xác định cơ hội và thách
thức của từng ngành, từng lĩnh vực, có sự phối hợp hỗ trợ và là căn cứ xây dựng
kế hoạch phát triển của địa phương. Mặc dù vây, sự phối hợp còn thiếu chặt chẽ,
đặc biệt là xác định mục tiêu hướng đi, các giải pháp thực hiện cũng như phương
pháp phối hợp.
8. Đội ngũ cán bộ làm công tác kế hoạch :
Việc chuyển đổi từ điều hành nền kinh tế kiểu mệnh lệnh hành chính sang
điều hành theo cơ chế mới là một sự thay đổi lớn, nó đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản
lý kinh tế nói chung, cán bộ làm công tác kế hoạch nói riêng phải có trình độ kiến
thức lý luận mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới.

Những năm qua, được sự quan tâm của các bộ ngành, các cấp chính quyền
đội ngũ cán bộ kế hoạch được đào tạo bổ xung trang bị thêm nhiều kiến thứcquản
lý nhưng mới chỉ tập trung ở một số ngành, lĩnh vực chủ yếu, còn lại phần lớn
vẫn là do tự học, tự nghiên cứu là chính, vì vậy chất lượng làm công tác kế hoạch
, quản lý, triển khai thực hiện những chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế
-xã hội của Nhà nước , của tỉnh còn lúng túng, nhất là cán bộ làm công tác kế
hoạch ở các ngành, các huyện thành thị.
Việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nâng cao kiến thức chủ yếu theo các hình
thức sau:
-Học tại chức.
-Đi tham quan học tập ở nước ngoài (Theo chương trình dự án- chủ yếu là
cán bộ lãnh đạo).
-Kết hợp đào tạo quản lý Nhà nước với đào tạo lý luận chính trị.
-Luân chuyển cán bộ, tăng cường xuống cơ sỏ .

×