Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Thế chấp tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 90 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN HỒNG VÂN



THẾ CHẤP TÀI SẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ
CHỨC TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN HỒNG VÂN



THẾ CHẤP TÀI SẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
TỔ CHỨC TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS Vũ Đức Long





HÀ NỘI - 2015
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể được bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Hồng Vân

2
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 5
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM VÀ THẾ CHẤP
TÀI SẢN 11
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giao dịch bảo đảm tiền vay 11
1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm tiền vay 11
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo
đảm tiền vay 13

1.1.3. Đặc điểm của giao dịch bảo đảm tiền vay 15
1.2. Phân loại giao dịch bảo đảm tiền vay 17
1.2.1. Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật 17
1.2.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản và bảo lãnh 18
1.3. Tài sản bảo đảm tiền vay 19
1.3.1. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay 19
1.3.2. Phân loại tài sản bảo đảm tiền vay 21
1.4. Thế chấp tài sản 22
1.4.1. Khái niệm thế chấp tài sản 22
1.4.2. Đặc điểm của thế chấp tài sản 23
1.4.3. Thế chấp tài sản tại tổ chức tín dụng 23
1.5. Hoạt động của các tổ chức tín dụng và vai trò của thế chấp tài
sản tại các tổ chức tín dụng tại Việt Nam 23
1.5.1. Hoạt động của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam 23
3
1.5.2. Thế chấp tài sản và vai trò đối với hoạt động tín dụng của các tổ
chức tín dụng tại Việt Nam 23
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM 30
2.1. Tài sản thế chấp 30
2.1.1. Khái niệm tài sản thế chấp 30
2.1.2. Đặc điểm tài sản thế chấp 30
2.1.3. Phân loại tài sản thế chấp 31
2.2. Hiệu lực giao dịch thế chấp tài sản 35
2.2.1. Công chứng, chứng thực Hợp đồng thế chấp tài sản 35
2.2.2. Đăng ký giao dịch thế chấp tài sản 37
2.3. Quyền và nghĩa vụ của các Bên trong giao dịch thế chấp tài sản 43
2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của Bên thế chấp 43
2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của Bên nhận thế chấp 45
2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp 47

2.4. Xử lý tài sản thế chấp 47
2.4.1. Các trường hợp xử lý tài sản thế chấp 47
2.4.2. Nguyên tắc xử lý tài sản thế chấp 48
2.4.3. Phương thức xử lý tài sản thế chấp 49
2.4.4. Thời hạn xử lý tài sản thế chấp 50
Chương 3. PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN CỦA VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 51
3.1. Khái quát về thực trạng pháp luật giao dịch bảo đảm tiền vay tại
tổ chức tín dụng 51
4
3.1.1. Sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật giao dịch bảo đảm
tiền vay 52
3.1.2. Sự không thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến giao
dịch bảo đảm tiền vay và tài sản bảo đảm 52
3.1.3. Những khoảng trống của pháp luật về giao dịch bảo đảm. 52
3.2. Pháp luật thế chấp tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng – Vướng
mắc, bất cập và giải pháp hoàn thiện 53
3.2.1. Chưa triệt để thừa nhận các nguyên tắc của vật quyền bảo đảm 53
3.2.2. Chủ thể trong giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm 55
3.2.3. Người thứ ba trong giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm 58
3.2.4. Tài sản thế chấp 61
3.2.5. Hiệu lực của giao dịch thế chấp tài sản 68
3.2.6. Đăng ký giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm 68
3.2.7. Xử lý tài sản thế chấp 69
3.2.8. Trách nhiệm trả nợ sau khi xử lý tài sản thế chấp 79
3.2.9. Về công khai thông tin giao dịch bảo đảm 80
KẾT LUẬN 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84



5
MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nằm trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế, thời gian qua ngành
Ngân hàng đã có những bước phát triển nhanh chóng cả về quy mô và sự đa
dạng nghiệp vụ. Một trong những nghiệp vụ quan trọng và chủ yếu nhất của
các tổ chức tín dụng là nghiệp vụ cấp tín dụng. Qua quá trình phát triển tín
dụng “nóng”, hiện tại các tổ chức tín dụng đang phải đối mặt với tình trạng nợ
xấu - các khoản vay không có khả năng thu hồi. Việc này đã dẫn đến những
hệ lụy nghiêm trọng đối với tình hình tài chính và hoạt động của tổ chức tín
dụng.
Theo kết quả thanh tra, giám sát trong năm 2012 tại 59 tổ chức tín dụng
cho thấy, tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng đến cuối năm 2012 đã lên đến
con số 7,8%; năm 2013 với việc thành lập Công ty TNHH một thành viên
Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), gần 40.000 tỷ
đồng nợ xấu của các ngân hàng đã được VAMC mua lại, thì tính đến ngày
31/12/2013, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam là 3,79% [40].
Và đến tháng 7/2014, VAMC đã mua 54.000 tỷ đồng nợ gốc với giá mua
44.800 tỷ đồng; riêng hơn 6 tháng đầu năm 2014, VAMC mới chỉ mua 14.857
tỷ đồng nợ gốc với 12.093 tỷ đồng giá mua. Về thu hồi nợ, nếu như năm
2013, Công ty chỉ thu được 145 tỷ đồng thì đến nay đã thu được 1.260 tỷ
đồng và đã bán được một khoản nợ với giá 440 tỷ đồng và đang triển khai bán
khoản nợ thu về gần 90 tỷ đồng nữa. [45]
Để lành mạnh hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng yếu kém, có tỷ lệ
nợ xấu cao, rất nhiều ngân hàng, công ty tài chính đã phải tính đến chuyện
hợp nhất, sáp nhập,… mới đây nhất là vụ hợp nhất giữa Ngân hàng Thương
6
mại Cổ phần Phương Tây (Western Bank) và Tổng Công ty Cổ phần Tài

chính Dầu khí (PVFC) để cho ra đời Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại
chúng (PVComBank) và vụ việc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam
Thịnh vượng (VPBank) mua lại Công ty TNHH MTV Tài chính Than -
Khoáng sản Việt Nam (CMF) từ Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản
Việt Nam (TKV).
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu cao như vậy
chính là những rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng, trong đó nổi lên hàng đầu
là những rủi ro xuất phát từ các giao dịch bảo đảm tiền vay như: Cán bộ tín
dụng không nắm rõ các quy định của pháp luật, không nghiêm túc thực hiện
các quy định, quy trình cho vay của ngân hàng; hay những rủi ro phát sinh từ
chính những quy định của pháp luật hiện hành về giao dịch bảo đảm tiền
vay,…. Đã có rất nhiều cán bộ tín dụng tại các ngân hàng, công ty tài chính
rơi vào vòng lao lý cũng chỉ vì “rủi ro giao dịch bảo đảm tiền vay” và thực tế
đã chứng minh vai trò quan trong của giao dịch bảo đảm đối với nghiệp vụ
cấp tín dụng tại các tổ chức tín dụng.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, giao dịch bảo đảm là một
dạng hợp đồng phụ. Tuy nhiên không giống như các hợp đồng phụ khác có
hiệu lực phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính, giao dịch bảo đảm có
hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng chính. Có nghĩa rằng, nếu hợp đồng
chính vô hiệu nhưng giao dịch bảo đảm vẫn bảo đảm tuân thủ pháp lý về mặt
nội dung và hình thức, thì vẫn có hiệu lực. Thực tế hoạt động tín dụng tại các
tổ chức tín dụng đã chứng minh vai trò quan trọng của các giao dịch bảo đảm
bởi nếu hợp đồng chính là hợp đồng tín dụng vô hiệu thì ngân hàng chỉ mất
tiền lãi mà vẫn thu được tiền cho vay gốc nhưng nếu hợp đồng bảo đảm vô
hiệu thì ngân hàng mất cả gốc lẫn lãi.
7
Để có thể hạn chế được tối đa những rủi ro tiềm ẩn trong các giao dịch
bảo đảm nói chung và giao dịch thế chấp tài sản nói riêng, cần khắc phục
những nguyên nhân dẫn đến những rủi ro này, một trong số đó là hoàn thiện
hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng.

Đối với các giao dịch bảo đảm tiền vay, hiện tại có rất nhiều văn bản
pháp luật điều chỉnh trực tiếp, gián tiếp như: Pháp luật về giao dịch bảo đảm
và đăng ký giao dịch bảo đảm, pháp luật đất đai, nhà ở,… Về cơ bản các văn
bản này đã điều chỉnh tương đối đầy đủ các vấn đề liên quan, tuy nhiên quá
trình áp dụng thực tế tại các tổ chức tín dụng đã bộc lộ không ít điểm bất cập
như: Chưa có sự thống nhất và phù hợp giữa các quy định tại các văn bản luật
khác nhau, thiếu sự thống nhất trong cách hiểu và vận dụng luật từ phía các cá
nhân, tổ chức thực thi như tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan đăng ký
quyền sử dụng đất, tổ chức bán đấu giá đã dẫn đến tình trạng khó khăn của
các tổ chức tín dụng khi xử lý tài sản bảo đảm.
Trong các loại hình giao dịch bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng thì
giao dịch thế chấp tài sản là phổ biến nhất và có ý nghĩa rất quan trọng trong
hoạt động bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng. Chính vì vậy, việc tìm hiểu
và nghiên cứu về các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng liên quan
đến thế chấp tài sản tại tổ chức tín dụng là cần thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý
luận và thực tiễn, nhất là trong bối cảnh kinh tế suy thoái như hiện nay, ngành
Ngân hàng sau một thời gian tăng trưởng nhanh đã bộc lộ những kẽ hở về mặt
quy chế, quy trình nội bộ và đã có rất nhiều vụ tranh chấp, khởi kiện giữa tổ
chức tín dụng và khách hàng, thậm chí đã có rất nhiều các cán bộ tín dụng đã
rơi vào vòng pháp lý cũng chỉ vì những rủi ro này.
1.2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu
8
Trên cơ sở tìm hiểu một cách sâu sắc và cập nhật các quy định của
pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng nói chung và
giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng nói riêng cũng
như quá trình tìm hiểu thực tế tại các tổ chức tín dụng, luận văn hướng tới
nghiên cứu một cách toàn diện về các quy định của pháp luật, những rủi ro
tiềm ẩn trong các giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay, phân tích đánh
giá nguyên nhân dẫn đến những rủi ro này để đưa ra được giải pháp hoàn

thiện nhằm hạn chế tối đa những rủi ro. Cụ thể như sau:
- Phân tích làm rõ vai trò của giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm tiền
vay đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng;
- Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật thế chấp tài sản bảo đảm
tiền vay tại tổ chức tín dụng;
- Những rủi ro tiềm ẩn từ các quy định pháp luật về thế chấp tài sản bảo
đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng và những nguyên nhân dẫn đến rủi ro
này, từ đó đề ra các giải pháp khắc phục.
1.2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Việc nghiên cứu được thực hiện từ chính hoạt động tín dụng tại các
Ngân hàng Thương mại Cổ phần và các Công ty tài chính với những số liệu
thống kê từ năm 2010 đến nay để phân tích, làm rõ vai trò của giao dịch thế
chấp tài sản bảo đảm tiền vay cũng như thực trạng pháp luật thế chấp tài sản
bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng.
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Hiện tại đã có rất nhiều bài viết của các tác giả về các rủi ro trong các
giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng nhưng đa
phần các bài viết đó chỉ đề cập đến một khía cạnh nhất định trong loại giao
dịch này. Do vậy, các tác giả mới chỉ đưa ra các bất cập và giải pháp hoàn
thiện từ một góc độ cụ thể như: Với một loại tài sản thế chấp hay một chủ thể
9
nhất định nào đó,…mà chưa tổng hợp, phân tích đầy đủ các vấn đề liên quan
để đưa ra giải pháp tổng thể. Ví dụ như:
- Nguyễn Thị Nga (2009), Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở
Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học;
- Phan Hồng Điệp (2012), Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất
trong các tổ chức tín dụng - Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Phùng Văn Hiếu (2012), Thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình
- Thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại quốc tế Việt Nam - Đề xuất

giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật, Luận văn Thạc sỹ, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Xuất phát từ việc nghiên cứu thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín
dụng, nghiệp vụ cấp tín dụng tại một số Ngân hàng Thương mại Cổ phần,
Công ty Tài chính, Tổ chức tài chính vi mô, luận văn đã nêu lên được
những điểm cốt lõi mà các cán bộ tín dụng cần quan tâm, các vấn đề pháp lý
về thế chấp tài sản bảo đảm mà họ thường xuyên gặp phải. Trên cơ sở đó
phân tích thấu đáo sự cần thiết phải đưa ra và thực hiện các giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật về thế chấp tài sản tại các tổ chức tín
dụng nhằm hạn chế tối đa những rủi ro pháp lý tiềm ẩn trong các giao dịch
này.
2. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh các quy định của
pháp luật Việt Nam, bình luận những điểm phù hợp và chưa phù hợp. Ngoài
ra, luận văn còn sử dụng phương pháp tổng hợp quy định pháp luật, thống kê
thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật về thế chấp tài sản tại các tổ chức
tín dụng để đánh giá khái quát, chỉ ra những rủi ro mà tổ chức tín dụng có thể
gặp phải khi thực hiện các giao dịch này.
10
3. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn kết cấu gồm ba chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về giao dịch bảo đảm và thế chấp tài sản.
Chương này tác giả trình bày khái quát về khái niệm, đặc điểm của giao
dịch bảo đảm và tài sản bảo đảm nói chung và thế chấp tài sản nói riêng; lịch
sử hình thành và phát triển pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo đảm; vai trò
của giao dịch bảo đảm tiền vay đối với hoạt động tín dụng tại các tổ chức tín
dụng.
Chương 2: Quy định của pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động
của tổ chức tín dụng tại Việt Nam.

Chương này tác giả nêu và phân tích làm rõ các quy định của pháp luật
về thế chấp tài sản như vấn đề hiệu lực của các giao dịch này, việc thực hiện
giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm cũng như vấn đề xử lý tài sản thế chấp.
Đồng thời, khái quát về hoạt động của tổ chức tín dụng và vai trò của thế chấp
tài sản đối với hoạt động của tổ chức tín dụng.
Chương 3: Pháp luật về thế chấp tài sản của Việt Nam – Thực trạng và
giải pháp hoàn thiện.
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về thế chấp tài sản bảo
đảm và thực tiễn áp dụng trong hoạt động cấp tín dụng, tác giả phân tích
những điểm bất cập của pháp luật là nguyên nhân chính dẫn đến những rủi ro
pháp lý tiềm ẩn trong giao dịch thế chấp tài sản tại tổ chức tín dụng và đề ra
giải pháp hoàn thiện.
11
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM VÀ THẾ CHẤP TÀI SẢN

1.1. Khái niệm, đặc điểm của giao dịch bảo đảm tiền vay
1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm tiền vay
Giao dịch bảo đảm là một loại giao dịch quan trọng và đã tồn tại từ lâu
trong hệ thống pháp luật các nước trên thế giới. Tuy nhiên các hệ thống pháp
luật lại có quan niệm khác nhau về giao dịch bảo đảm. Điển hình là sự khác
nhau cơ bản giữa hệ thống pháp luật Civil Law và hệ thống pháp luật
Common Law. Theo kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả, thì các nước trong
hệ thống pháp luật Civil Law theo xu hướng hình thức: Chú trọng tới việc
phân chia giữa các hình thức bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và
quy định về từng hình thức bảo đảm mà thường không đưa ra một khái niệm
chung về giao dịch bảo đảm. Do vậy, pháp luật của các nước này thường liệt
kê các biện pháp bảo đảm nên khái niệm khá hẹp, thường chỉ bao gồm các
bảo đảm mang tính chất truyền thống như cầm cố, thế chấp, ký quỹ, bảo lãnh.
Đối với các nước theo hệ thống pháp luật Common Law lại

theo xu hướng chức năng: Dựa trên “lợi ích bảo đảm” và coi như là
nguồn gốc của mọi giao dịch. Khái niệm giao dịch bảo đảm được
hiểu là toàn bộ các giao dịch, không phụ thuộc vào hình thức và tên
gọi, có mục đích tạo lập lợi ích bảo đảm. Chính vì vậy, bên cạnh
các biện pháp bảo đảm truyền thống như cầm cố, thế chấp, pháp
luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia này còn được áp dụng
với các giao dịch khác có tính chất bảo đảm cho việc thực hiện
nghĩa vụ như thuê mua tài chính; gửi bán thương mại; chuyển giao
nợ, cho thuê tài sản dài hạn, bán có bảo lưu quyền sở hữu; mua trả
chậm, trả dần; chuyển nhượng quyền đòi nợ; quyền cầm giữ… Điều
12
này cũng đồng nghĩa, loại hình giao dịch bảo đảm với tư cách là đối
tượng của hoạt động đăng ký theo quy định của pháp luật các nước
này không bị “bó hẹp” trong khái niệm giao dịch bảo đảm [37].
Theo pháp luật Việt Nam, cụ thể là khoản 1, Điều 318 về “Biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng có quy
định:
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm:
a) Cầm cố tài sản;
b) Thế chấp tài sản;
c) Đặt cọc;
d) Ký cược;
đ) Ký quỹ;
e) Bảo lãnh;
g) Tín chấp. [26, khoản 1, Điều 318].
Và khoản 1, Điều 323 về “Đăng ký giao dịch bảo đảm”, Bộ luật Dân sự
năm 2005 quy định: “Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả
thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy
định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này.”[26, khoản 1, Điều 323].
Có thể thấy rằng, Bộ luật Dân sự năm 2005 không đưa ra những đặc

điểm cơ bản của giao dịch bảo đảm giống như hệ thống pháp luật Common
Law mà mà chỉ liệt kê những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
tương tự như hệ thống pháp luật Civil Law.
Trước đây, theo quy định tại khoản 1, Điều 2 về “Giải thích từ ngữ”,
Nghị định số 178/1999/NĐ-CP “Về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín
dụng”, thì: “1. Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện
pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được
các khoản nợ đã cho khách hàng vay”. Kể từ thời điểm Nghị định số
13
163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm được ban hành đã thay thế Nghị định
số 178/1999/NĐ-CP Về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, các văn
bản liên quan và thống nhất hóa các quy định về giao dịch bảo đảm. Nhưng
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm cũng không đưa ra một
định nghĩa cụ thể về biện pháp bảo đảm, mà chỉ cụ thể hóa Điều 318 về “Biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” trong Bộ luật Dân sự năm 2005
bằng cách liệt kê các biện pháp bảo đảm.
Tuy nhiên, dựa trên cách tiếp cận theo chức năng của các biện pháp bảo
đảm tiền vay, có thể đưa ra định nghĩa về giao dịch bảo đảm tiền vay như sau:
“Giao dịch bảo đảm tiền vay là sự thỏa thuận giữa Bên cho vay và Bên vay
theo các quy định của pháp luật, theo đó Bên cho vay nhận quyền đối với tài
sản của Bên vay hoặc Bên thứ ba nhằm bảo đảm việc trả nợ của Bên vay,
ngăn ngừa rủi ro, tạo dựng cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các
khoản nợ đã cho khách hàng vay”.
1.1.2.Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật Việt Nam về giao
dịch bảo đảm tiền vay
1.1.2.1. Trước ngày 01/01/2006, thời điểm có hiệu lực của Bộ luật Dân
sự năm 2005
Trước khi có Bộ luật Dân sự năm 1995, Nghị định số 17-HĐBT ngày
16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng “Quy định chi tiết pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế” mới liệt kê và định nghĩa về các biện pháp bảo đảm bao gồm thế

chấp, cầm cố và bảo lãnh. Bộ luật Dân sự năm 1995 chính thức có hiệu lực
ngày 01/07/1996 là bước tiến quan trọng trong quá trình hình thành và phát
triển của pháp luật về giao dịch bảo đảm, tạo hành lang pháp lý cho loại giao
dịch này. Sau đó, các văn bản pháp luật về giao dịch bảo đảm, bảo đảm tiền
vay, đăng ký giao dịch bảo đảm được ban hành để điều chỉnh hoạt động của
các cá nhân, tổ chức liên quan, một số văn bản điều chỉnh trực tiếp như:
14
- Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ Về
giao dịch bảo đảm;
- Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/2009 của Chính phủ Về
bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng;
- Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/03/2000 của Chính phủ Về
đăng ký giao dịch bảo đảm.
Trong thực tiễn áp dụng, các quy định này đã bộc lộ những điểm hạn
chế như: Việc tồn tại song song hai quy chế về giao dịch bảo đảm áp dụng với
các chủ nợ nói chung và đối với các tổ chức tín dụng nói riêng theo Nghị định
số 165/1999/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 178/1999/NĐ-CP
Về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng gây khó khăn cho các thủ thể
khi lựa chọn pháp luật áp dụng; các hạn chế đối với tổ chức tín dụng khi nhận
tài sản bảo đảm là động sản, hàng lưu kho, tài sản hình thành tương lai; quyền
tự do thỏa thuận của các bên trong giao dịch chưa thực sự được tôn trọng; thứ
tự ưu tiên thanh toán không rõ ràng,
1.1.2.2. Kể từ thời điểm có hiệu lực của Bộ luật Dân sự năm 2005
Bộ luật Dân sự năm 2005 được ban hành nhằm khắc phục phần nào
những bất cập của Bộ luật Dân sự năm 1995, cũng như các văn bản pháp luật
về giao dịch bảo đảm và hoàn thiện hơn pháp luật về giao dịch bảo đảm.
Cho đến thời điểm hiện tại, các văn bản pháp luật về giao dịch bảo đảm
đã được ban hành mới như Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006
của Chính phủ Về giao dịch bảo đảm, Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày
23/07/2010 của Chính phủ Về đăng ký giao dịch bảo đảm và các văn bản sửa

đổi, bổ sung các quy định này.
Các văn bản này đã giải quyết phần nào những khúc mắc của các Bên
nhận tài sản bảo đảm nói chung và các tổ chức tín dụng nói riêng với các quy
định tiến bộ về trình tự, thủ tục thiết lập bảo đảm; quyền tự do thỏa thuận cho
15
các chủ thể tham gia giao dịch được mở rộng; thứ tự ưu tiên thanh toán giữa
các loại chủ nợ khác nhau được xác định rõ hơn, quyền của tổ chức tín dụng
trong một số trường hợp cụ thể,
Mới đây nhất là Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-
BTP-BTNMT ngày 25/04/2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường Hướng dẫn thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong
tương lai, Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày
06/06/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Hướng dẫn về xử lý tài
sản bảo đảm, Sự ra đời của các văn bản này cũng đã tác động lớn đến hệ
thống pháp luật về giao dịch bảo đảm nói chung và thế chấp tài sản tại các tổ
chức tín dụng nói riêng.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các tổ chức tín dụng vẫn gặp phải
những khó khăn, vướng mắc liên quan đến giao dịch bảo đảm và công
chứng, Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: Việc
không thống nhất trong áp dụng các quy định pháp luật có liên quan của các
cán bộ tại tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm,
cơ quan tư pháp,
1.1.3.Đặc điểm của giao dịch bảo đảm tiền vay
Cũng là một dạng giao dịch theo quy định của pháp luật dân sự, giao
dịch bảo đảm tiền vay cũng có những đặc điểm chung của giao dịch dân sự và
những đặc điểm đặc thù của giao dịch bảo đảm, cụ thể như sau:
Thứ nhất, giao dịch bảo đảm tiền vay mang tính chất bổ sung cho nghĩa
vụ chính từ hợp đồng cấp tín dụng:

Các biện pháp bảo đảm tiền vay xuất hiện nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ
vay tiền được thực hiện khi đến hạn, vì thế các nghĩa vụ bảo đảm tồn tại với
16
tính chất là một nghĩa vụ phụ bên cạnh nghĩa vụ chính. Điều này có thể thấy
qua việc nghĩa vụ bảo đảm không thể tồn tại một cách độc lập mà phụ thuộc
gắn liền với nghĩa vụ được bảo đảm (ở đây là nghĩa vụ trả nợ của Bên vay).
Đồng thời, nghĩa vụ bảo đảm phải phù hợp với nghĩa vụ được bảo đảm (về
thời gian, nội dung, hiệu lực của biện pháp bảo đảm là phụ thuộc vào nghĩa
vụ chính) và khi nghĩa vụ được bảo đảm chấm dứt thì nghĩa vụ bảo đảm cũng
chấm dứt.
Trong trường hợp Bên cho vay chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ chính cho một Bên thứ ba, thì Bên thứ ba cũng có quyền yêu cầu
Bên vay thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Việc nghĩa vụ bảo đảm bị vô hiệu, bị
đơn phương chấm dứt thực hiện hay bị hủy bỏ không ảnh hưởng tới hiệu lực
của nghĩa vụ chính (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác).
Thứ hai, giao dịch bảo đảm tiền vay mang tính chất dự phòng, chỉ được
áp dụng khi nghĩa vụ được bảo đảm không được thực hiện hoặc bị vi phạm,
đồng thời phạm vi bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm.
Thứ ba, đối tượng giao dịch bảo đảm tiền vay là những lợi ích vật chất.
Bắt nguồn từ mục đích của biện pháp bảo đảm tiền vay là nhằm bảo
đảm việc thưc hiện nghĩa vụ của Bên vay nên trong các giao dịch bảo đảm
đều phát sinh việc Bên vay hoặc Bên thứ ba xác lập cho Bên cho vay quyền
lợi vật chất nhất định. Đó là quyền được xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu
hồi nợ vay trong trường hợp Bên vay không hoàn trả đầy đủ, hoặc không thực
hiện đầy đủ trách nhiệm như đã giao kết khi vay tiền.
Thứ tư, mục đích của việc xác lập giao dịch bảo đảm tiền vay là nhằm
tạo cơ sở kinh tế, pháp lý để Bên có quyền (Bên nhận bảo đảm) thu hồi nợ.
Hoạt động cho vay tài sản là một hoạt động mang nhiều rủi ro đối với
Bên cho vay. Chính vì vậy, sự xuất hiện của các biện pháp bảo đảm tiền vay
đã giúp hạn chế hoặc loại trừ hoàn toàn những rủi ro này đối với Bên cho vay

17
và bảo đảm an toàn cho hệ thống tín dụng cũng như bảo đảm thực hiện các
nghĩa vụ đã được giao kết giữa Bên vay và Bên cho vay.
Việc xác lập giao dịch bảo đảm tiền vay còn giúp cho quyền đòi nợ của
những chủ nợ này có thứ tự ưu tiên thanh toán cao hơn so với quyền đòi nợ
của các chủ nợ không có bảo đảm đối với tài sản đó.
Thứ năm, giao dịch bảo đảm tiền vay có hiệu lực không phụ thuộc vào
hợp đồng chính.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, giao dịch bảo đảm là một
dạng hợp đồng phụ, tuy nhiên không giống như các hợp đồng phụ khác có
hiệu lực phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính, giao dịch bảo đảm có
hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng chính. Có nghĩa rằng, nếu hợp đồng
chính vô hiệu thì giao dịch bảo đảm vẫn có hiệu lực pháp lý. Như vậy, trong
quan hệ tín dụng, nếu hợp đồng tín dụng vô hiệu thì tổ chức tín dụng chỉ mất
lãi nhưng nếu hợp đồng bảo đảm vô hiệu, thì tổ chức tín dụng sẽ mất cả gốc
lẫn lãi.
1.2. Phân loại giao dịch bảo đảm tiền vay
Có nhiều cách phân loại giao dịch bảo đảm tiền vay dựa trên những tiêu
chí khác nhau. Cụ thể như sau:
1.2.1.Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật
Theo một số nghiên cứu, pháp luật của các nước trong hệ thống Civil
Law thường phân biệt những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thành hai
nhóm: Các biện pháp bảo đảm đối vật và các biện pháp bảo đảm đối nhân. Sự
phân biệt này nhằm xác định rõ quyền, nghĩa vụ của các bên và từ đó có
phương pháp điều chỉnh các mối quan hệ có liên quan một cách tương ứng.
Bảo đảm tiền vay đối vật là hình thức bảo đảm mà quyền của tổ chức
tín dụng được xác lập trực tiếp trên một vật cụ thể thuộc sở hữu của Bên bảo
đảm nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán của khách hàng
18
vay. Đối tượng của nó là tài sản của Bên có nghĩa vụ hoặc Bên thứ ba; tổ

chức tín dụng có quyền được yêu cầu xử lý tài sản đó theo quy định của pháp
luật hoặc theo thỏa thuận để thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Cầm cố và thế
chấp là hai biện pháp bảo đảm đối vật cơ bản. Theo đó, đối với giao dịch bảo
đảm tiền vay, tài sản này có thể thuộc sở hữu của Bên vay hoặc Bên thứ ba,
có thể là tài sản vô hình hoặc hữu hình, có thể là động sản hay bất động sản.
Khi xảy ra tranh chấp, hoặc Bên vay không thực hiện đúng những nghĩa vụ
của mình, tài sản bảo đảm tiền vay sẽ là đối tượng được xử lý nhằm thu hồi
khoản tiền mà tổ chức tín dụng đã cho khách hàng vay.
Bảo đảm tiền vay đối nhân là bảo đảm mà Bên thứ ba cam kết với tổ
chức tín dụng về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho Bên vay khi đến hạn mà
Bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận.
Biện pháp bảo đảm đối nhân có tính chất tiêu biểu là Bảo lãnh. Khác với biện
pháp bảo đảm đối vật, tài sản bảo đảm trong biện pháp bảo đảm đối nhân
không được xác định cụ thể, mà là toàn bộ tài sản của Bên bảo đảm. Việc cá
thể hóa tài sản nào được phát mại để thanh toán cho Bên cho vay thường được
tiến hành sau khi đến hạn mà Bên vay không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực
hiện không đúng thỏa thuận. Theo đó, với giao dịch bảo đảm tiền vay, khi xảy
ra tranh chấp hoặc Bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, thì trách
nhiệm cá nhân của người bảo đảm sẽ là đối tượng được sử dụng nhằm lấy lại
khoản tiền mà tổ chức tín dụng đã cho vay. Trách nhiệm cá nhân này thường
được xác lập bởi một Bên thứ ba.
1.2.2.Bảo đảm tiền vay bằng tài sản và bảo lãnh
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là các phương thức bảo đảm mà khoản
vay của khách hàng tại tổ chức tín dụng được được bảo đảm bằng một loại tài
sản. Chính vì vậy, hình thức bảo đảm này sẽ hạn chế bớt rủi ro cho các tổ
chức tín dụng vì tổ chức tín dụng có thể xác lập quyền đối với một tài sản
19
nhất định, khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ, tổ chức tín dụng có
căn cứ để thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm nhằm thu hồi nợ. Đây cũng là
phương thức bảo đảm phổ biến tại các tổ chức tín dụng.

Bảo lãnh là phương thức bảo đảm tiền vay mà khoản vay không được
bảo đảm bằng một tài sản. Điều 361 về “Bảo lãnh”, Bộ luật Dân sự năm 2005
quy định:
Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là Bên bảo lãnh)
cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là Bên nhận bảo lãnh) sẽ
thực hiện nghĩa vụ thay cho Bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là Bên
được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà Bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể
thoả thuận về việc Bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi
Bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
[26, Điều 361].
Ở đây tổ chức tín dụng có thể chọn lựa khách hàng vay của mình, dựa
trên nhiều yếu tố khác nhau để cho khách hàng vay như: Dựa trên uy tín của
khách hàng vay, uy tín của một bên thứ ba, bảo lãnh của nhà nước,
1.3. Tài sản bảo đảm tiền vay
1.3.1.Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay
Như đã nêu trên, các hệ thống pháp luật khác nhau đưa ra các khái
niệm khác nhau về tài sản bảo đảm tiền vay. Theo nhiều nghiên cứu, thì: Các
nước theo hệ thống pháp luật Civil Law, về nguyên tắc, mọi tài sản đều có thể
là tài sản bảo đảm, tuy nhiên, phạm vi những tài sản này còn phụ thuộc vào
từng biện pháp bảo đảm cụ thể và việc phân định phạm vi tài sản bảo đảm chủ
yếu được thực hiện đối với hai biện pháp bảo đảm là cầm cố và thế chấp.
Đối với các nước theo hệ thống pháp luật Common Law tài sản bảo
đảm được chia chủ yếu thành động sản và bất động sản, tùy theo tính chất của
20
tài sản bảo đảm là động sản hay bất động sản mà áp dụng theo quy định pháp
luật khác nhau đối với việc thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản đó. Theo đó, phạm
vi tài sản bảo đảm được quy định rất rộng: Đối với động sản, mọi tài sản được
phép giao dịch đều có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm, bao gồm cả tài
sản vô hình và tài sản hữu hình, tài sản hiện có và hình thành trong tương lai.

Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều quy định liên
quan đến tài sản bảo đảm, cụ thể như:
- Khoản 7, Điều 3 về “Giải thích từ ngữ”, Nghị định số 163/2006/NĐ-
CP Về giao dịch bảo đảm quy định: “Tài sản bảo đảm là tài sản mà Bên bảo
đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với Bên nhận bảo đảm.”
[11, khoản 7, Điều 3].
- Điều 4 về “Tài sản bảo đảm”, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Về giao
dịch bảo đảm đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP quy
định: “Tài sản bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong
tương lai mà pháp luật không cấm giao dịch.” [11, Điều 4].
- Điều 320 về “Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân sự
năm 2005 quy định:
1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền
sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch.
2. Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện
có hoặc được hình thành trong tương lai. Vật hình thành trong
tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của Bên bảo đảm
sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được
giao kết [26, Điều 320].
Xét tổng thể, các quy định nêu trên đã bao hàm một phạm vi rất rộng
các tài sản có thể sử dụng làm tài sản bảo đảm. Tuy nhiên theo quy định tại
khoản 1, Điều 320 về “Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân
21
sự năm 2005: Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở
hữu của Bên bảo đảm chưa thực sự phù hợp với đối tượng là tài sản hình
thành trong tương lai vì vào thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm, những tài
sản này chưa hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Bên có nghĩa vụ hoặc Bên
thứ ba. Ví dụ đối với nhà ở hình thành trong tương lai, vào thời điểm xác lập
giao dịch thế chấp, tài sản này mặc dù đã hình thành nhưng chưa thuộc sở hữu
của Bên bảo đảm vì quyền sở hữu đối với tài sản này chỉ được xác lập khi chủ

sở hữu được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
1.3.2.Phân loại tài sản bảo đảm tiền vay
Có nhiều cách phân loại tài sản bảo đảm tiền vay tùy thuộc vào các tiêu
chí khác nhau, chẳng hạn:
1.3.2.1. Tài sản bảo đảm tiền vay hữu hình và tài sản bảo đảm tiền vay
vô hình
Tài sản bảo đảm tiền vay hữu hình là tài sản tồn tại hiện hữu của Bên
vay hoặc Bên thứ ba. Tài sản hữu hình có thể là vật, hàng hóa. Về nguyên tắc,
tổ chức tín dụng có thể nắm giữ, quản lý trực tiếp những loại tài sản này.
Tài sản bảo đảm tiền vay vô hình là những tài sản phi vật chất của Bên
vay hoặc Bên thứ ba. Tải sản vô hình có thể là quyền sở hữu công nghiệp,
quyền tác giả, quyền sử dụng đất hoặc các quyền khác. Tổ chức tín dụng có
thể cầm giữ các quyền này thông qua việc nắm giữ các giấy tờ chứng minh
quyền sở hữu, quyền sử dụng các loại tài sản này của Bên vay hoặc Bên thứ
ba.
1.3.2.2. Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản hiện có hoặc tài sản hình
thành trong tương lai
Tài sản bảo đảm tiền vay hiện có là tài sản bảo đảm tiền vay đang tồn
tại và thuộc sở hữu của Bên vay hoặc Bên thứ ba. Ví dụ như: Phương tiện vận
22
chuyển đã được đăng ký sở hữu, hàng hóa, nhà ở đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất,
Tài sản bảo đảm tiền vay hình thành trong tương lai là loại tài sản bảo
đảm tiền vay sẽ thuộc sở hữu của Bên vay hoặc Bên thứ ba trong tương lai.
Tài sản hình thành trong tương lai này không có nghĩa là nó chưa tồn tại một
cách vật chất, tài sản đó hoàn toàn có thể đã tồn tại một cách vật chất khi giao
dịch bảo đảm được xác lập, tuy nhiên quyền sở hữu của Bên bảo đảm đối với
tài sản thì lại được xác lập sau thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm tiền vay.

Ví dụ như nhà ở đã hoàn thành nhưng chưa được cấp chứng nhận quyền sở
hữu vào thời điểm xác lập hợp đồng thế chấp.
1.4. Thế chấp tài sản
1.4.1.Khái niệm thế chấp tài sản
Về mặt ngữ nghĩa, thì thế chấp tài sản là việc một bên dùng một tài sản
để thay thế, chấp hành một nghĩa vụ được xác lập trước đó. Tuy nhiên nhiều
trường hợp tài sản đó không thể chuyển giao được cho bên có quyền như nhà
đang ở, quyền sử dụng đất, nhà xưởng đang sản xuất, hàng hóa luân
chuyển,… Do vậy, Bên thế chấp dùng giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu,
quyền sử dụng đối với tài sản này giao cho Bên có quyền hay Bên nhận thế
chấp giữ.
Khoản 1, Điều 342 về “Thế chấp tài sản”, Bộ luật Dân sự năm 2005
đưa ra khái niệm: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế
chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao
tài sản đó cho bên nhận thế chấp.” [26, khoản 1, Điều 342].
Căn cứ theo quy định nêu trên có thể hiểu biện pháp thế chấp tài sản là
sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó Bên thế chấp cam kết dùng tài sản của
23
mình thông qua việc chuyển giao toàn bộ hồ sơ pháp lý của tài sản cho Bên
nhận thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mà không phải chuyển
giao tài sản thế chấp đó. Như vậy, chủ sở hữu tài sản vẫn có thể dùng tài sản
bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự mà vẫn được quản lý, sử dụng tài
sản thế chấp. Có lẽ đây là ưu điểm của biện pháp thế chấp so với các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác.
1.4.2.Đặc điểm của thế chấp tài sản
Là một biện pháp bảo đảm nên thế chấp tài sản cũng mang những đặc
điểm chung của giao dịch bảo đảm: Mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ
chính; mang tính chất dự phòng, chỉ được áp dụng khi nghĩa vụ được bảo đảm
không được thực hiện hoặc bị vi phạm, đồng thời phạm vi bảo đảm không

vượt quá phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm; đối tượng giao dịch bảo đảm tiền
vay là những lợi ích vật chất; mục đích của việc xác lập giao dịch thế chấp tài
sản là nhằm tạo cơ sở kinh tế, pháp lý để Bên có quyền (Bên nhận bảo đảm)
thu hồi nợ; hiệu lực của giao dịch thế chấp tài sản không phụ thuộc vào hợp
đồng chính.
Đồng thời, giao dịch thế chấp tài sản có điểm đặc thù so với các biện
pháp bảo đảm khác đó là: Bên thế chấp chỉ chuyển giao hồ sơ pháp lý của tài
sản thế chấp cho Bên nhận thế chấp mà không chuyển giao tài sản thế chấp.
Điều này có nghĩa rằng, Bên thế chấp vẫn được quyền quản lý, sử dụng, đầu
tư,… vào tài sản thế chấp. Đặc điểm này cũng tạo cho giao dịch thế chấp có
ưu điểm vượt trội so với các biện pháp bảo đảm khác.
1.4.3.Thế chấp tài sản tại tổ chức tín dụng
Giao dịch thế chấp tài sản để bảo đảm khoản vay tại các tổ chức tín
dụng còn mang những điểm đặc thù so với giao dịch thế chấp tại các tổ chức,
cá nhân khác như sau:

×