ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
VŨ THỊ THÚY
QUẢN LÝ TRƯỜNG MẦM NON TƯ THỤC “MẸ YÊU CON”
QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
THEO TIẾP CẬN QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HÀ NỘI – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
VŨ THỊ THÚY
QUẢN LÝ TRƯỜNG MẦM NON TƯ THỤC “MẸ YÊU CON”
QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
THEO TIẾP CẬN QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 01 14
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Lê
HÀ NỘI – 2015
3
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Các Thầy, Cô giáo Khoa sau đại học trường Đại học giáo dục, Đại học
Quốc gia Hà Nội đã tham gia giảng dạy, tư vấn giúp đỡ tác giả trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tác giả xin cảm ơn Thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Văn Lê,
người trực tiếp hướng dẫn luận văn khoa học đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ tác
giả hoàn thành bản luận văn này.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới Phòng GD & ĐT quận Ba Đình,
các bạn đồng nghiệp khối mầm non ngoài công lập quận Ba Đình, các bạn
bè đồng nghiệp tại trường mầm non tư thục “Mẹ Yêu Con” đã động viên, tạo
điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn “Quản lý trường mầm non tư thục “Mẹ Yêu Con” quận Ba Đình,
thành phố Hà Nội tiếp cận quản lý chất lượng”.
Tuy bản thân đã cố gắng, song luận văn không thể tránh khỏi những thiếu
sót.Tác giả mong nhận được sự cảm thông và chỉ dẫn góp ý.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Tác giả
Vũ Thị Thúy
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CSGD : Cơ sở giáo dục
CSND : Chăm sóc nuôi dưỡng
CSVC : Cơ sở vật chất
GD – ĐT : Giáo dục và đào tạo
GDMN : Giáo dục mầm non
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
ISO : International Standard Organization
MG : Mẫu giáo
NCL : Ngoài công lập
NT : Nhà trẻ
MNTT : Mầm non tư thục
PH : Phụ huynh
PHHS : Phụ huynh học sinh
QLGD : Quản lý giáo dục
QLCL : Quản lý chất lượng
TQM : Total Quality Management
UBND : Ủy ban nhân dân
5
MỤC LỤC
Lời cảm ơn i
Danh mục chữ viết tắt ii
Mục lục iii
Danh mục bảng vi
Danh mục hình vi
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TRƯỜNG MẦM NON
THEO TIẾP CẬN QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG … 5
1.1. Vài nét tổng quan về nghiên cứu vấn đề … ………………………….5
1.2. Các khải niệm cơ bản ……………………………………………… 13
1.2.1. Quản lý 13
1.2.2. Quản lý giáo dục 14
1.2.3. Quản lý nhà trường 18
1.2.4. Chất lượng 19
1.2.5. Quản lý chất lượng ……………………………………………… 21
1.3. Lý thuyết về quản lý trường mầm non theo tiếp cận quản lý chất lượng… .28
1.3.1. Trường mầm non 28
1.3.2. Quản lý trường mầm non theo tiếp cận quản lý chất lượng … …… 31
Kết luận chương 1 ……………………………………………………… 41
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TRƯỜNG MẦM NON TƯ THỤC
“MẸ YÊU CON” QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THEO TIẾP
CẬN QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG 43
2.1. Vài nét về trường MNTT “Mẹ Yêu Con” quận Ba Đình, thành phố Hà
Nội 43
2.1.1. Lịch sử hình thành và sự phát triển của nhà trường trong giai đoạn hiện
nay 43
2.1.2. Những khó khăn 45
2.1.3. Những thuận lợi 47
6
2.2. Thực trạng quản lý trường MNTT “Mẹ Yêu Con” theo tiếp cận quản lý
chất lượng ……………………………………………………………… 48
2.2.1. Thực trạng thực hiện phương châm “Hướng vào khách hàng” để quản
lý nhà trường ………………………………………….………………… 48
2.2.2. Thực trạng vận dụng nguyên tắc “Sự lãnh đạo ” vào quản lý nhà trường 54
2.2.3. Thực trạng huy động “ Sự tham gia của mọi người” vào quản lý nhà
trường … …………………………………………………… 56
2.2.4. Thực trạng vận dụng kết hợp nguyên tắc“ Cách tiếp cận theo quá trình” và
“Cách tiếp cận theo hệ thống đối với quản lý” vào quản lý nhà trường ……57
2.2.5. Thực trạng thực hiện “Cải tiến liên tục” vào quản lý nhà trường … ………61
2.2.6. Thực trạng vận dụng nguyên tắc “Quyết định dựa trên sự kiện” và quản
lý nhà trường …………………………………….…… ………………… 62
2.2.7. Thực trạng vận dụng nguyên tắc “Hợp tác cùng có lợi với nhà cung
ứng” vào quản lý nhà trường ……… ………… ……………………….64
2.3. Đánh giá thực trạng …… …………………………………………… 65
2.3.1. Ưu điểm ……………………… ………………………………….65
2.3.2. Tồn tại, hạn chế ……………………………………… ………… 69
2.3.3. Nguyên nhân …………………………… ………………………… . 70
Kết luận chương 2 ………… …………………………………………… 71
Chương 3: CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ TRƯỜNG MNTT “MẸ YÊU
CON” QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THEO TIẾP CẬN
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG… 72
3.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp …… ………………………………72
3.2. Các biện pháp quản lý chất lượng trường MNTT “Mẹ Yêu Con” theo tiếp
cận quản lý chất lượng ………… ……………………………………73
3.2.1. Triển khai việc đưa quản lý chất lượng vào kế hoạch chiến lược phát
triển trường MNTT “Mẹ Yêu Con” … …………………………… ……73
3.2.2. Thực hiện tiêu chuẩn hóa và quy trình hóa các mặt công tác trong nhà
trường …………………… …………………………….………………….79
7
3.2.3. Tổ chức các chương trình đào tạo về quản lý chất lượng cho toàn thể
đội ngũ để biến quản lý thành tự quản. ……… …………… …………….83
3.2.4. Xây dựng và phát huy vai trò của các tổ nhóm trong cơ cấu tổ chức
quản lý chất lượng … …………………………………………………… 86
3.2.5. Xây dựng và cải tiến liên tục hệ thống quản lý chất lượng ………. 89
3.2.6. Sử dụng chuyên gia về quản lý chất lượng. … …………………….92
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp …………………………………… 93
3.4. Khảo nghiệm về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp …….94
Kết luận chương 3 … …………………………………………………… 93
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ……………………………………98
1. Kết luận ……………………………………………………98
2. Khuyến nghị …………………………………………… 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………103
PHỤ LỤC . ………………………………………………… …………….105
8
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Tiêu chí đánh giá quản lý trường mầm non tiếp cận quản lý chất lượng 39
Bảng 2.1: Số lớp học và số học sinh các năm học 2011 – 2013 và 2012– 2013 44
Bảng 2.2: Số cán bộ giáo viên, nhân viên các năm học 2011 – 2012 và 2012 – 201344
Bảng 2.3: Hướng dẫn quy trình theo dõi thông tin sức khỏe của trẻ trong ngày
và tiêu chí chất lượng khâu đón trẻ 59
Bảng 2.4: Kết quả khảo sát mức độ hài lòng của PHHS năm học 2012- 2013 66
Bảng 2.5: Kết quả khảo sát nhận thức, suy nghĩ và ý kiến của giáo viên, nhân
viên về quản lý chất lượng năm học 2012– 2013 67
Bảng 3.1. Hướng dẫn thực hiện quy trình đón trẻ mới 81
Bảng 3.2. Khảo nghiệm tính cần thiết của các biện pháp 95
Bảng 3.3. Khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp 96
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.2. Biểu đồ tỉ lệ giáo viên tính theo số năm kinh nghiệm dạy học 44
Hình 3.1. Mô tả tôn chỉ mục đích và sứ mạng của nhà trường 74
9
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam hiện
nay chỉ có thể thành công nếu huy động được sự tham gia của mọi cấp học,
mọi đơn vị, cơ sở giáo dục và toàn xã hội. Cấp học mầm non là cấp học đầu
tiên và có vai trò đặc biệt trong quá trình hình thành nhân cách cho thế hệ
tương lai. Nếu ngay từ nơi đây, chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục
trẻ mầm non được đảm bảo thì sẽ tạo nền tảng sâu gốc bền rễ cho các quá
trình phát triển tiếp theo của mỗi đứa trẻ cũng như của cả một thế hệ.
Đảng và nhà nước đã xác định lấy đổi mới quản lý là khâu then chốt để
đổi mới sự nghiệp giáo dục. Bởi lẽ hoạt động quản lý ở tầm vĩ mô hay vi mô
đều tác động trực tiếp đến chất lượng giáo dục, chất lượng nhà trường, chất
lượng sản phẩm giáo dục. Muốn đảm bảo chất lượng giáo dục, phải đảm bảo
rằng hoạt động quản lý thực sự có hiệu quả, có tầm nhìn, có chiến lược đúng
đắn.Quản lý chất lượng là phương thức quản lý được ứng dụng trong nhiều
lĩnh vực sản xuất kinh doanh.Sự hình thành và phát triển ngày một ưu việt của
các hệ thống quản lý chất lượng đã chứng minh cho tính hiệu quả của phương
thức quản lý này.Chất lượng của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ được
ngày một nâng cao, đáp ứng và vượt qua cả sự mong đợi của khách hàng.Việc
ứng dụng quản lý chất lượng vào quản lý giáo dục trong thực tiễn hiện nay
cũng là một biện pháp mang lại hiệu quả cao trong việc đổi mới các mô hình
quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục. Các bộ tiêu chuẩn chất lượng trong
giáo dục như chuẩn giáo viên, chuẩn nhà trường, chuẩn đầu ra của các cấp
học … là hệ thống các tiêu chuẩn, tiêu chí về chất lượng giáo dục được xác
định ngay từ đầu, làm thước đo, làm định hướng cho công tác quản lý. Nó đòi
hỏi sự thay đổi trong phương thức quản lý nhằm hướng tới những chuẩn mực
nhất định.Do vậy, tiếp cận phương thức quản lý chất lượng còn là một đòi hỏi
của thực tiễn.
10
Trong tình hình thực tế hiện nay, hệ thống các cơ sở mầm non công lập
mặc dù quy mô lớn và mạng lưới rộng khắp nhưng không phải đã đáp ứng
đầy đủ nhu cầu xã hội và đáp ứng mục tiêu giáo dục của đất nước. Với chủ
trương xã hội hóa sự nghiệp giáo dục, hệ thống giáo dục mầm non ngoài công
lập phát triển mạnh mẽ và đã có những đóng góp không nhỏ trong việc thỏa
mãn nhu cầu chăm sóc giáo dục trẻ của nhân dân đặc biệt là khu vực các
thành phố, các khu đô thị lớn. Do được đầu tư xây dựng và vận hành bằng
nguồn vốn của các cá nhân và tổ chức xã hội nên tính chất kinh doanh giáo
dục là điều không thể tránh khỏi. Hoạt động quản lý ở trường tư thục không
chỉ đòi hỏi đáp ứng những tiêu chuẩn, tiêu chí chất lượng của cấp học mà còn
hướng tới đáp ứng những yêu cầu cao về chất lượng, những nhu cầu đa dạng,
phong phú về sự xuất sắc, sự ưu việt trong sản phẩm giáo dục của một bộ
phận người học, phụ huynh học sinh trong xã hội. Người quản lý phải điều
hành tổ chức cơ sở giáo dục để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về đổi mới,
hiện đại hóa giáo dục, tiếp cận các hình thức, các triết lý giáo dục hiện đại
nhằm phát triển một thế hệ trẻ em tương lai khỏe mạnh, thông minh, năng
động, sáng tạo, cùng chung sống thân ái, hoà bình, trở thành những công dân
toàn cầu.Hoạt động quản lý phải nhằm đảm bảo chất lượng chăm sóc nuôi
dưỡng và giáo dục trẻ, tạo ra sự xuất sắc của mô hình nhà trường.Người quản
lý tổ chức nhà trường tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trong hệ thống các nhà
trường, thúc đẩy các mô hình giáo dục ngày càng ưu việt hơn, đem lại những
sản phẩm giáo dục ưu việt hơn cho đất nước.Then chốt là ở vấn đề chất
lượng, ở cách thức tiếp cận chất lượng trong công tác quản lý, xây dựng văn
hóa chất lượng trong tổ chức nhà trường, không ngừng nâng cao chất lượng,
tốt và tốt hơn nữa, ưu việt và ưu việt hơn nữa, xuất sắc và xuất sắc hơn nữa.
Là một người trực tiếp làm công tác quản lý tại cơ sở mầm non tư thục,
tôi nhận thấy vấn đề chất lượng là vấn đề sống còn của nhà trường, chất lượng
cần trở thành mục tiêu, quản lý chất lượng cần trở thành phương thức quan
trọng của hoạt động quản lý nhà trường. Chính vì vậy, “Quản lý trường mầm
non tư thục “Mẹ Yêu Con” quận Ba Đình, thành phố Hà Nội theo tiếp cận
11
quản lý chất lượng” là bài toán mà ngay từ đầu khi tham gia khóa học này, tôi
đã quan tâm và tìm kiếm phương án trả lời nhằm đảm bảo chất lượng chăm
sóc giáo dục trẻ mầm non, phát triển nhà trường vững mạnh.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, xác định các biện pháp cụ
thể để đưa quản lý chất lượng trở thành phương thứcquản lý trường mầm non
tư thục “Mẹ Yêu Con” có hiệu quả, xây dựng được văn hóa chất lượng trong
nhà trường, làm cho chất lượng trở thành mục tiêu cụ thể trong từng khâu của
quá trình chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ mầm non ở đây.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quản lý trường mầm non tư thục trong bối cảnh
hiện nay.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Việc tiếp cận quản lý chất lượng trong công tác quản
lý trường MNTT “Mẹ Yêu Con” quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý chất lượng, quản lý giáo dục, quản lý
nhà trường và lý thuyết về quản lý nhà trường theotiếp cận quản lý chất
lượng.
4.2. Đánh giá thực trạngquản lý trường mầm non tư thục “Mẹ Yêu Con”theo
tiếp cận quản lý chất lượng.
4.3. Xây dựng các biện pháp quản lý trường mầm non tư thục “Mẹ Yêu
Con”theotiếp cận quản lý chất lượng trong giai đoạn hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Tiếp cận quản lý chất lượng, vận dụng một cách thích hợp các nguyên
tắc của quản lý chất lượng trong quản lý trường MNTT “Mẹ Yêu Con” và xây
dựng được một hệ thống biện pháp quản lý chất lượng sẽ góp phần cải tiến
nâng cao hiệu lực của hệ thống quản lý, nâng cao chất lượng nhà trường, tạo
ra sức cạnh tranh lành mạnh và phát triển bền vững cho một mô hìnhtrường tư
thục nói riêng và các nhà trường nói chung.
12
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Sưu tầm văn kiện, văn bản, tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu.
- Hệ thống hóa các khái niệm để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Quan sát, ghi chép, tập hợp, khái quát các thông tin về thực tế hoạt
động và công tác quản lý của cơ sở giáo dục mầm non tư thục “Mẹ Yêu Con”
từ ngày thành lập đến nay.
- Quan sát, đối chiếu, phân tích thực tế quản lý nhà trường theo tiếp
cận quản lý chất lượng.
6.3. Nhóm phương pháp toán thống kê và xử lý các số liệu
- Thu thập các dữ liệu, thống kê dữ liệu để làm cơ sở phân tích và đưa
ra kết luận về tỉ lệ đảm bảo các yêu cầu công việc.
- Thu thập ý kiến, thống kê tỉ lệ đồng thuận/ không đồng thuận để làm
căn cứ kết luận về tính thiết yếu của một việc làm nhất định.
- Thu thập ý kiến đánh giá, phân loại và thống kê tỉ lệ hài lòng/ không hài
lòng/ kì vọng cao hơn để kết luận mức độ đáp ứng nhu cầu khách hàng.
7. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý trường mầm non theo tiếp cận quản
lý chất lượng
Chương 2: Thực trạng quản lý trường mầm non tư thục “Mẹ Yêu Con”,
quận Ba Đình, thành phố Hà Nội theo tiếp cận quản lý chất lượng.
Chương 3: Các biện pháp quản lý chất lượng trường mầm non tư thục
“Mẹ Yêu Con” , quận Ba Đình, thành phố Hà Nộitheo tiếp cận quản lý chất
lượng trong giai đoạn hiện nay.
13
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TRƯỜNG MẦM NON
THEOTIẾPCẬN QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
1.1. Vài nét tổng quan về nghiên cứu vấn đề
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục
thế hệ trẻ. Đối với các cháu nhỏ, Người đã từng nói: “Trẻ em như búp trên
cành/ Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”. Đúng vậy, trẻ nhỏ học hỏi và
trưởng thành từ những điều nhỏ nhất, đó là bữa ăn và giấc ngủ, sau đó mới
đến việc học hành. Ngày nay, bên cạnh gia đình, tất cả những điều thiết yếu
đó các cháu có thể và cần phải được thụ hưởngtrong một môi trường chuyên
môn, đó là Trường mầm non. Bác cũng từng căn dặn: “Muốn có chủ nghĩa xã
hội phải có con người xã hội chủ nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa
phải nuôi dạy con người ngay từ lúc mới lọt lòng. Đó là công việc tỉ mỉ, lâu
dài”.Và công việc tỉ mỉ lâu dài ấy bắt đầu ngày từ khi trẻ còn trong bụng mẹ
(thai giáo), khi trẻ được chăm sóc tại gia đình và khi trẻ đến môi trường sư
phạm đầu tiên, đó là Trường mầm non.
Các nhà giáo dục lớn trên thế giới cũng khẳng định chất lượng con
người trong giáo dục được đặt nền móng cơ bản trong những năm đầu đời,
khẳng định tầm quan trọng của giáo dục nhân cách con người ngay ở độ tuổi
mầm non. “Những cơ sở cơ bản của việc giáo dục trẻ đã có từ trước 5 tuổi.Tất
cả những điều dạy trẻ trong thời gian này chiếm 90%. Về sau sự giáo dục và
đào tạo con người vẫn tiếp tục, nhưng lúc ấy là lúc bắt đầu nếm quả, còn
những nụ hoa thì đã vun trồng trong 5 năm đầu tiên” (Macarencô, nhà giáo
dục học Xô Viết).
Làm tốt giáo dục mầm non nghĩa là chuẩn bị vững chắc cho thành công
trong giáo dục đào tạo con người ở những giai đoạn tiếp theo.
Những nghiên cứu để nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, đáp ứng
nhu cầu xã hội và yêu cầu về con người thời kì hội nhập quốc tế, công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước được các nhà nghiên cứu khoa học giáo dục tiếp
14
cận từ nhiều hướng khác nhau. Từ việc đổi mới nâng cao chất lượng chương
trình giáo dục mầm non đến nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non,
đầu tư cơ sở vật chất xây dựng và phát triển mạng lưới trường lớp cơ sở giáo
dục mầm non, xã hội hóa giáo dục, thu hút nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội
dành cho giáo dục mầm non .v.v. Trong đó, nâng cao chất lượng công tác
quản lý giáo dục mầm non cũng là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất
lượng giáo dục mầm non nói chung. Quản lý được coi là khâu đột phá, khâu
then chốt. Quản lý tốt thì sử dụng tốt và phát huy tối đa các nguồn lực, mang
lại kết quả như mong muốn đối với mọi lĩnh vực nói chung và với giáo dục
mầm non nói riêng.
Đối với mỗi nhà trường, việc trả lời các câu hỏi: ai quản lý ?quản lý ai
? và quản lý như thế nào ? chính là những vấn đề cơ bản của quản lý. Trong
đó, quản lý như thế nào là vấn đề đặc biệt quan trọng.Lý thuyết quản lý và
quản lý giáo dục đã chỉ ra những mô hình quản lý khác nhau và quản lý chất
lượng cũng là một trong những câu trả lời mà thực tiễn mang lại.
Nghiên cứu ứng dụng phương thức quản lý chất lượng, vận dụng những
nguyên tắc và cách thức hiệu quả trong quản lý các lĩnh vực sản xuất vào ứng
dụng trong hoạt động quản lý giáo dục là một hướng tiếp cận mới hiện
nay.Nhiều đơn vị, tổ chức giáo dục và trường học ở Việt Nam được cấp
chứng nhận ISO về quản lý.Nhiều học giả ở Việt Nam đã nghiên cứu về quản
lý chất lượng trong giáo dục.
Đặt vấn đề trực tiếp về quản lý chất lượng giáo dục, tác giả Nguyễn
Đức Chính đã nêu ra 4 vấn đề liên quan đến chất lượng giáo dục:
1. Những thay đổi lớn nhất tác động đến quan điểm chất lượng là gì ?
2. Chất lượng giáo dục cần phải được hiểu như thế nào ?
3. Ai sẽ xác định chất lượng ?
4. Chất lượng được xác định như thế nào ?
Những thay đổi lớn đang diễn ra trong xã hội đã làm thay đổi quan
điểm chất lượng.Sự toàn cầu hóa các xã hội làm cho chất lượng giáo dục
15
không thể được xác định chỉ trong giới hạn đường biên của hệ thống riêng của
nước mình về các giá trị mà cần tính đến quan niệm về “ngôi làng toàn cầu”
với một kho tàng những lý tưởng có tính phổ biến, một nền tảng những giá trị
cốt lõi chung và sự giải hòa những xung đột cạnh tranh giữa những hệ thống
giá trị trong khi phải tôn trọng quan niệm bảo vệ bản sắc dân tộc. Sự toàn cầu
hóa các nền kinh tế đòi hỏi giáo dục coi trọng hình thành những kĩ năng, hành
vi thái độ để có thể cùng hợp tác, chia sẻ hơn là những kiến thức cơ bản,
những kĩ năng khác nhau, liên ngành chứ không chỉ những kĩ năng cơ bản
chuyên biệt để thích ứng với môi trường kinh tế toàn cầu hóa và không đoán
trước được. Sự dịch chuyển trong những nhiệm vụ được phân phối giữa
những người chủ trì hệ thống giáo dục, cho thấy nhà nước không còn độc
quyền về giáo dục.Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ đã
phát triển những hệ thống cung cấp giáo dục không chính quy và phi chính
quy với sự giao lưu thông tin tốc độ nhanh làm đa dạng, phong phú nhưng
cũng phức tạo và khó kiểm soát hơn.
Trước những thay đổi đó, các hệ thống giá trị và các yêu cầu về năng
lực phẩm chất con người được kì vọng là sẽ hình thành thông qua quá trình
giáo dục cũng không cố định và không giống nhau. Tuy nhiên vẫn có những
bộ cốt lõi chung về quan niệm chất lượng giáo dục được phản ánh trong chất
lượng con người làm cho hệ thống giáo dục có mục đích và được cấu trúc để
tạo ra những giá trị cốt lõi đó trong nhân cách người học. UNESCO thúc đẩy
ý tưởng học cách học, nhiệm vụ của nhà giáo dục là dạy cho người học cách
lựa chọn, tìm ra con đường riêng của bản thân, học tập suốt đời.
Nhà nước cần thực hiện sự thiết lập những chuẩn mực chất lượng cao
và rõ về thực hiện những vấn đề cốt lõi, sự xác định mục tiêu về nguồn lực
nhằm đảm bảo sự công bằng được hưởng giáo dục với chất lượng thích hợp,
nhất quán với những giá trị dân tộc và những mục tiêu giáo dục. Bên cạnh đó,
cần có sự tham gia của những người sử dụng và người cung cấp giáo dục (cha
mẹ, giáo viên, học sinh, phương tiện truyền thông, thế giới lao động, khu vực
16
công cộng) trong việc xác định chất lượng giáo dục. Mặc dù, định nghĩa về
chất lượng sẽ là khác nhau giữa những người chủ trì giáo dục, những người
tham gia xác định chất lượng nhưng cuối cùng, đứng ở trung tâm của quá
trình định nghĩa chất lượng, là cơ chế hình thành chính sách, cơ chế kế hoạch
hóa, cung cấp và đánh giá giáo dục. Một cơ chế cuốn hút và cho phép sự tham
gia của những người chủ trì giáo dục (các nhà lãnh đạo, giáo viên, phụ huynh,
người sử dụng lao động sau đào tạo, các tổ chức phi chính phủ …) được hi
vọng rằng sẽ vượt qua những xung đột về cách nhìn chất lượng giáo dục và
tìm ra con đường và sự tán đồng và chẩn đoán về một khung chung để xác
định chất lượng giáo dục.
Trong tập bài giảng Quản lý chất lượng trong giáo dục, Hà Nội, tác giả
cũng phân tích:
“Đảm bảo chất lượng được thực thi trong giáo dục, trong nhà trường
nói chung trong đó có nhà trường Việt Nam theo nhiều cách khác nhau.
Những kì thi chung (tốt nghiệp THPT, thi đại học v.v.) là một trong
những ví dụ điển hình về hệ thống đảm bảo chất lượng.
Một ví dụ khác về đảm bảo chất lượng là bộ chuẩn kiến thức kĩ năng
trong chương trình chuẩn cho từng môn học do bộ GD & ĐT ban hành.
Bộ tiêu chuẩn kiểm định các cơ sở giáo dục Đại học, Cao đẳng, THCN
cũng là những tiêu chuẩn định hướng cho các cơ sở giáo dục phấn đấu và là
thước đo mức độ đạt chuẩn đảm bảo chất lượng.
Những ví dụ trên về đảm bảo chất lượng trong giáo dục cho thấy cần
nhấn mạnh những đặc điểm sau:
1. Đảm bảo chất lượng là bộ chuẩn do các chuyên gia xác lập.
2. Đảm bảo chất lượng được giới thiệu như tập hợp nhữngyêu cầu hay
kì vọng mà nhà trường phải phấn đấu để đạt được.
3. Các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng được đánh giá bằng các tiêu chí.
4. Các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng có thể cho phép xây dựng các
phương án khác nhau tùy thuộc vào từng trường.
17
5. Các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng bao gồm một số hình thức thi cử,
thanh tra, tự đánh giá và đánh giá ngoài.
“Sự khác biệt giữa đảm bảo chất lượng và chất lượng theo hợp đồng là
ở chỗ những đặc trưng về chất lượng theo hợp đồng thường do người cung
ứng dịch vụ quyết định chứ không phải xuất phát từ người tiếp nhận dịch vụ
đó” [10, tr11, 12]
“Chất lượng của khách hàng có ngụ ý nói tới những kì vọng của người
tiếp nhận dịch vụ và chất lượng được xác định khi sản phẩm hay dịch vụ đó
đáp ứng hoặc vượt quá sự mong đợi của khách hàng”.
“Xu thế lấy người học làm trung tâm có thể xem là ví dụ điển hình về
khái niệm chất lượng là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng”.[10, tr13]
Tác giả cũng nhấn mạnh “Cuộc cách mạng chất lượng” [10, tr14], “
trong tương lai gần, nhà trường phải tập trung nhiều hơn vào khái niệm chất
lượng thông qua khách hàng. Để đáp ứng kì vọng tối thiểu của khách hàng,
nhà trường phải không ngừng quan tâm tới việc đảm bảo chất lượng, có gia
tăng thêm các yếu tố của chất lượng hợp đồng”.“Sự cân đối giữa 3 kiểu chất
lượng, trong đó đáp ứng nhu cầu, kì vọng của khách hàng là khâu chủ yếu. Đó
là sự thay đổi quan trọng trong tư duy đòi hỏi phải thay đổi cơ bản trong văn
hóa của tổ chức ”[10, tr15]
Các tác giả Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Thành Vinh đã khẳng định:
“Ngày nay, nhà trường không chỉ được coi là thiết chế sư phạm mà còn là một
thiết chế kinh tế, một loại “xí nghiệp” đặc biệt có chức năng hình thành và
phát triển sức lao động kĩ thuật, nhân lực kĩ thuật cho đất nước, dù rằng đó là
cơ sở ban đầu, nhưng là cơ sở ban đầu rất quan trọng để đất nước có được
nguồn lao động lành nghề” [2, tr105] Do đó, “Quán triệt tư duy kinh tế vào
phân tích hoạt động nhà trường, quản lý nhà trường là đặc trưng nổi bật của
đổi mới quản lý nhà trường hiện nay” [2, tr107]. Một trong những yêu cầu của
việc quán triệt tư duy kinh tế đó là người lãnh đạo quản lý nhà trường phải
“nắm vững các mô hình quản lý chất lượng từ lĩnh vực kinh tế và vận dụng
18
vào quản lý chất lượng nhà trường phù hợp với hoàn cảnh địa phương ” [2,
tr107]
Tác giả Nguyễn Trọng Hậu cũng nêu ra yêu cầu cần phải xác định đâu
là đời sống thực sự của nhà trường, đâu là nhu cầu thực sự mà các nhà quản lý
cần quan tâm khi chỉ ra rằng: “Việc quản lý các nhà trường đã bị quyết định
bởi cả hai phương diện ý thức hệ và thực tiễn của tính thứ bậc và sự kiểm tra
tới độ chúng cuốn hút theo nghĩa tiêu cực cái gọi là chủ nghĩa quản lý và nhà
trường, do đó những nhu cầu ngụy tạo của người quản lý, của tổ chức, của hệ
thống, của thuyết quan liêu hoặc công việc hành chính thường nhật trở thành
những tác nhân thống trị đời sống nhà trường thay vì những nhu cầu thực sự
của học sinh – sinh viên” [14, tr127] và tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ
“khách hàng” giữa giáo viên với học sinh, giữa giảng viên với sinh viên và
lưu ý điểm khác biệt so với mỗi quan hệ nhà chuyên môn – khách hàng ở các
lĩnh vực hoạt động khác [14, tr4]. Học sinh sinh viên ít có cơ hội lựa chọn
giáo viên, lựa chọn trường học, nhất là sau khi đã trải qua những thủ tục và
thử thách nhất định để được vào học ở một nhà trường nào đó. Vì vậy, những
vấn đề của quản lý nhà trường được đặt ra không chỉ đối với bản thân những
người quản lý đơn vị giáo dục đó mà còn với các nhà hoạch định chiến lược
phát triển giáo dục sao cho học sinh, phụ huynh có nhiều hơn cơ hội lựa chọn,
tạo ra sự cạnh trạnh lành mạnh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng
nhu cầu thực sự của đời sống nhà trường, đó là nhu cầu của chính người học,
của những người thụ hưởng kết quả giáo dục (gia đình, đất nước, xã hội).
Tác giả Phạm Quang Huân cũng đã phân tích quản lý nhà trường về
bản chất là kiến tạo hệ thống những tác động nhằm biến đổi trạng thái chất
lượng của các đối tượng quản lý, mà đối tượng cuối cùng là nhân cách người
học. Nhưng thực tiễn quản lý chất lượng ở nhà trường phổ thông Việt Nam lại
có những bất cập lớn như quan niệm về chất lượng giáo dục ở nước ta chưa
đầy đủ và đồng bộ; phương pháp tiếp cận quản lý chất lượng chủ yếu còn
nhằm vào mục tiêu mà chưa coi trọng quá trình; về chuẩn mực thì chưa có
19
một hệ tiêu chí và phương pháp đánh giá quá trình quản lý chất lượng, việc
đánh giá chất lượng giáo dục còn nặng về thanh tra, kiểm tra do cấp trên hay
do các đoàn từ bên ngoài, thiếu hẳn việc tự kiểm tra, tự đánh giá, tự rút kinh
nghiệm, tự điều chỉnh cải tiến thường xuyên và chủ động để trở thành nhân tố
nội sinh thúc đẩy phát triển bền vững; quản lý chất lượng vẫn được coi như
trách nhiệm và đặc quyền của một vài cấp như ban giám hiệu, tổ trưởng
chuyên môn chứ chưa coi trọng vai trò then chốt và trực tiếp của người giáo
viên trong việc tạo ra chất lượng; và một bất cập nghiêm trọng nữa là chưa coi
trọng việc hướng dẫn học sinh về động cơ học tập, thái độ, phương pháp học
tập để các em trở nên chủ động, tích cực cải thiện, nâng cao kết quả học tập
và chất lượng nhân cách của chính mình. Từ đó, tác giả đề xuất vận dụng xây
dựng hệ thống quản lý chất lượng định hướng vào chất lượng tổng thể của hệ
thống sản phẩm trong quá trình giáo dục.
Trong phạm vi quản lý giáo dục mầm non, gần đây cũng có rất nhiều
các nghiên cứu ứng dụng phương thức quản lý chất lượng vào quản lý nhà
trường. Các luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục đã coi tiếp cận
quản lý chất lượng là một hướng đi cho các đề tài nghiên cứu mang tính ứng
dụng, như: “Biện pháp quản lý chất lượng trường mầm non A theo quan điểm
quản lý chất lượng tổng thể” của Nguyễn Thị Bích Liên (Hà Nội, 2008),
“Quản lý chất lượng giáo dục mầm non tại Trường mẫu giáo Việt – Triều hữu
nghị , thành phố Hà Nội” (Hà Nội, 2013).
Tóm lại việc nâng cao chất lượng giáo dục mầm non không chỉ là mối
quan tâm của cấp học, ngành học mà là mối quan tâm của toàn xã hội. Để
nâng cao chất lượng giáo dục ở các cơ sở GDMN nhiều nhà quản lý đã đưa ra
nhiều biện pháp khác nhau như: quản lý bằng kế hoạch, tăng cường cơ sở vật
chất trang thiết bị dạy học, nâng cao chất lượng giáo viên, dân chủ hóa nhà
trường, … Khi nghiên cứu và vận dụng lý thuyết quản lý chất lượng vào quản
lý nhà trường, các tác giả trên cũng đã đưa ra một số giải pháp theo quan điểm
20
QLCL và đã đạt được những kết quả khả quan nhất định đối với các trường
mầm non thuộc hệ thống nhà trường công lập.
Tuy nhiên, đối với các cơ sở GDMN ngoài công lập, yêu cầu về đảm
bảo chất lượng chăm sóc nuôi dạy trẻ là yêu cầu có tính sống còn của tổ
chức.Trường mầm non tư thục không chỉ có chức năng nhiệm vụ của một tổ
chức giáo dục mà đó còn là mô hình tổ chức cung ứng một dịch vụ phổ biến
và ngày càng phát triển trong xã hội hiện đại, đó là dịch vụ trông – nuôi – dạy
trẻ. Sự tồn tại và phát triển của trường MNTT có mối liên hệ mật thiết với
việc thỏa mãn nhu cầu của phụ huynh học sinh, mà phụ huynh học sinh xét ở
phương diện là người trả phí để thụ hưởng dịch vụ này thì chính là khách
hàng của các cơ sở GDMN ngoài công lập. Quyết định của họ là sử dụng hay
không sử dụng dịch vụ mà một cơ sở GDMN ngoài công lập cung cấp cho xã
hội, và những quyết định này sẽ trực tiếp quyết định sự tồn tại hay không tồn
tại của cơ sở GDMN đó.Vì vậy, xét ở một phương diện nhất định, Trường
MNTT như một nhà cung ứng, và nó không thể không đặt vấn đề chất lượng
dịch vụ lên hàng đầu để nhận được ngày càng nhiều sự sử dụng của khách
hàng. Do đó, tiếp cận quản lý chất lượng là một hướng đi thích hợp mà hiện
nay số các công trình nghiên cứu thực tiễn quản lý trường MNTT chưa nhiều,
nghiên cứu theo tiếp cận quản lý chất lượng gần như chưa thấy.Cho nên, việc
nghiên cứu “Quản lý trường MNTT “Mẹ Yêu Con” quận Ba Đình, thành phố
Hà Nội theo tiếp cận quản lý chất lượng” là việc làm cần thiết để áp dụng cho
chính cơ sở giáo dục này và còn có thể có những ứng dụng nhất định cho các
trường MNTT khác. Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về quản lý, quản lý chất
lượng, quản lý nhà trường, những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi
trước, cùng với việc nghiên cứu thực tiễn điều hành quản lý nhà trường, tác
giả luận văn mong muốn sẽ đóng góp nhất định cho việc định hướng lý luận
cho hoạt động trong giai đoạn tới của trường MNTT “Mẹ Yêu Con” nói riêng
và đóng góp về lý luận cho việc nghiên cứu và ứng dụng quản lý chất lượng
vào quản lý nhà trường, quản lý giáo dục nói chung.
21
1.2. Các khái niệm, thuật ngữ cơ bản
1.2.1. Quản lý
Quản lý là một hoạt động phổ biến trong xã hội, có ảnh hưởng đặc biệt
đến sự phát triển của bất cứ tổ chức xã hội nào, từ các tổ chức tế bào là gia
đình cho đến các tổ chức sản xuất hàng hóa, các tổ chức xã hội, tổ chức quốc
gia, liên quốc gia, các tổ chức toàn cầu. Khoa học quản lý ngày càng phát
triển do ý nghĩa, vai trò đặc biệt đó của hoạt động quản lý đối với sự
phát triển và tiến bộ.“Theo những định nghĩa kinh điển nhất, hoạt động quản
lý là các tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản
lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) – trong một tổ chức – nhằm làm
cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [9, tr9].
Hoạt động quản lý gắn với tổ chức, trong đó các thành viên của tổ chức
gắn kết với nhau, tương tác với nhau.Tổ chức được hình thành và vận hành
như một hệ thống bao gồm các thành tố có quan hệ hữu cơ, liên thuộc với
nhau thì quản lý chính là chất kết dính, chất xúc tác của hệ thống. Bao giờ
cũng có thể nhận ra trong một tổ chức những cá nhân hay nhóm người điều
hành, kiểm soát, đánh giá, chèo lái, ra các quyết định … đối với những cá
nhân, nhóm người khác trong tổ chức. Hoạt động quản lý phân chia chức
năng của các thành viên trong tổ chức.Cá nhân hoặc nhóm thành viên nào
thực hiện các chức năng lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra được gọi là
chủ thể quản lý. Cá nhân hay nhóm thành viên đối tượng nào nhận sự tác
động của chủ thể quản lý, hoạt động dưới sự chỉ đạo, điều chỉnh của các chức
năng trên được gọi là đối tượng quản lý. Đối tượng quản lý cũng có những tác
động trở lại đối với chủ thể quản lý dẫn đến những điều chỉnh trong quản lý.
Mục tiêu cuối cùng của quản lý là hướng tới tự quản lý, khi đó mỗi thành viên
của tổ chức nhận thức rõ ràng về sứ mệnh của tổ chức, nhiệm vụ của từng vị
trí công việc, có đủ năng lực hoạt động chuyên môn hóa và năng lực liên kết
hiệu quả với nhau, làm cho toàn bộ tổ chức hoạt động hiệu quả, đạt được các
mục tiêu đã định trước.
22
Hoạt động quản lý vừa nhằm duy trì sự ổn định, duy trì hiệu quả đã đạt
được vừa nhằm tạo ra sự biến chuyển tích cực, sự đổi mới và phát triển. Vai
trò của người quản lý là tạo ra và duy trì sự nề nếp, quy củ, trật tự để tại thời
điểm nhất định, tổ chức đạt được trạng thái tồn tại hiệu quả nhất, thực hiện tốt
nhất công năng của nó. Nhưng trước những biến động của ngoại cảnh và cả
những nhân tố nội sinh, thì quản lý phải đánh giá, tiên lượng, dự báo, trù tính
cho những thay đổi nhất định sẽ xảy ra và đề xuất những thay đổi, điều chỉnh
nhất định phải thực hiện để đảm bảo đưa tổ chức đến một trạng thái vận hành
mới với những nhân tố mới nhưng vẫn đạt được mục tiêu mong muốn.Đòi hỏi
cao hơn nữa là tạo ra những thay đổi, kiến tạo những thành công mới cho tổ
chức, nâng tổ chức phát triển lên tầm cao mới với những hoạch định mang
tính chiến lược.
Tổ chức càng đa dạng, hệ thống càng phức tạp, mục tiêu càng cao thì
đặt ra những yêu cầu càng cao đối với quản lý.Vai trò của người quản lý trong
một tổ chức là hết sức quan trọng và không thể thiếu. Thành công của một tổ
chức là kết quả chung của các thành viên nhưng không thể không nhận thấy
vai trò quan trọng có khi là vai trò quyết định của các thành viên giữ vị trí
quản lý, điều hành, lãnh đạo. Quản lý bao giờ cũng gắn với quyền lực, lợi ích
và danh tiếng.Ngay trong sự thất bại cũng vậy, luôn cần có một người gánh
trách nhiệm cho thất bại, và đó thường là người đứng đầu quản lý điều hành
tổ chức. Vậy nên những cơ hội và thách thức đối với người quản lý tạo ra sức
hấp dẫn đối với công việc quản lý và càng ngày quản lý càng trở thành một
nghề đòi hỏi những năng lực đặc thù. Quản lý không chỉ là một nghề, một
khoa học mà còn là một nghệ thuật với yêu cầu cao về sức sáng tạo.
1.2.2. Quản lý giáo dục
“Quản lý giáo dục là quá trình tác động có ý thức, kế hoạch, tổ chức và
hợp quy luật của các cơ quan quản lý giáo dục tới các khâu của hệ thống giáo
dục nhằm làm cho các cơ sở giáo dục vận hành được bình thường và đạt tới
các mục tiêu đã đề ra” [9, tr64]
23
Quản lý giáo dục vừa có những đặc điểm chung của quản lý vừa có
những đặc điểm riêng của lĩnh vực giáo dục.
Quản lý giáo dục gắn liền với việc điều hành quá trình giáo dục đào tạo
con người, đặc biệt là lao động sư phạm của các nhà giáo. Phương tiện lao
động sư phạm của người giáo viên chủ yếu là phương tiện tinh thần bằng lời
nói, tấm gương, thái độ … Thời gian lao động của người giáo viên cũng vậy,
nó không được tách bạch rạch ròi như các ngành nghề khác. Ngay khi họ ở
nhà thì tâm trí và thời gian của họ có thể vẫn dành cho công việc. Vì vậy,
quản lý giáo dục cần tạo điều kiện thuận lợi về môi trường sư phạm và đáp
ứng những nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần cho giáo viênđể họ có
động lực lao động tốt nhất.
Người học vừa là đối tượng của lao động sư phạm của nhà giáo vừa là
chủ thể của hoạt động giáo dục. Kết quả giáo dục do đó không chỉ phụ thuộc
vào nhà giáo mà còn phụ thuộc vào bản thân người học với những đặc điểm
riêng về thể chất, tâm sinh lý. Vì vậy quản lý giáo dục phải quan tâm, nghiên
cứu, phân tích tất cả những đặc điểm tâm sinh lý của người học, bởi đó là một
nhân tố đầu vào quan trọng của quá trình giáo dục trong nhà trường nhằm tìm
ra những giải pháp, biện pháp quản lý thích hợp để đảm bảo kết quả giáo dục
phù hợp với mục tiêu. Sản phẩm của giáo dục là nhân cách của người
học.Nhân cách người học trước và sau quá trình giáo dục phải đạt được những
thay đổi tích cực nhất định có thể kiểm định được.Quản lý giáo dục phải chú
ý phòng ngừa, ngăn chặn những sai sót trong việc tạo ra sản phẩm, cũng như
không được phép tạo ra “phế phẩm”. Bởi vì sản phẩm của các lĩnh vực sản
xuất có thể bị loại bỏ, không đưa vào sử dụng còn sản phẩm giáo dục là con
người, nếu nhân cách lệch lạc, sai lầm thì “sản phẩm” đó vẫn đi vào cuộc
sống. Trách nhiệm phòng ngừa, trách nhiệm đảm bảo chất lượng “sản phẩm”
của quản lý giáo dục cao hơn so với bất cứ lĩnh vực hoạt động nào khác trong
xã hội.
24
Quản lý giáo dục được gắn liền với quyền lực nhà nước trong việc điều
hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục, thông qua việc xây dựng, ban hành
và chấp hành các văn bản như luật, điều lệ và các quy định, quy chế chuyên
môn sư phạm. Do đó quản lý giáo dục có tính kết hợp chặt chẽ giữa quản lý
hành chính nhà nước và quản lý chuyên môn sư phạm.
Quản lý giáo dục gắn liền với đời sống xã hội, từng gia đình, từng cộng
đồng địa phương. Do đó các giải pháp quản lý phải mang tính đồng bộ giữa
nhà trường – gia đình – xã hội mới có thể đạt hiệu quả cao.
Quản lý giáo dục phải là hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc bởi vì
chức năng của nó là duy trì, lưu giữ, truyền đạt những điều tốt đẹp, nhân văn
của con người từ thế hệ này sang thế hệ khác.Mặt khác, những lợi ích về kinh
tế xã hội mà giáo dục đào tạo mang lại cho mỗi quốc gia và toàn xã hội là siêu
lợi ích.Các quốc gia đều coi trọng giáo dục với vai trò là quốc sách, là chìa
khóa để phát triển đất nước.Bên cạnh đó, Nhà trường cũng có những chức
năng xã hội khác và nó được đặt giữa đời sống xã hội với rất nhiều nhu cầu,
mong muốn, kì vọng của xã hội đặt ra cho nhà trường. Trường phổ thông
chẳng hạn, ngoài chức năng căn bản là giáo dục thế hệ trẻ thì còn có nhiệm vụ
quản lý những công dân chưa đủ tuổi ở trong một môi trường an toàn để
cho các bậc phụ huynh lao động ngoài xã hội yên tâm làm việc. Nhiệm
vụ đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất, kinh tế xã
hội cũng đặt nhà trường trước những bài toán kinh tế và mục đích thực
dụng.Việc liên kết đào tạo, chuyển giao các công nghệ giáo dục, tổ chức các
cơ sở giáo dục đào tạo tư nhân … liên quan đến vấn đề quyền lợi, lợi ích kinh
tế.Điều đó cũng đòi hỏi quản lý giáo dục phải tìm ra những biện pháp quản lý
thích hợp.
Trong giáo dục có 2 loại hình quản lý: quản lý hệ thống và quản lý nhà
trường, trong đó quản lý nhà trường là hạt nhân cơ bản. Nhà nước quản lý, chỉ
đạo hệ thống giáo dục, hoạch định các chiến lược và đảm bảo các nguồn lực
cho phát triển giáo dục.Nhà trường là nơi trực tiếp triển khai các kế hoạch,
25
phối hợp sử dụng các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu giáo dục đã được
phê duyệt. Do đó, quản lý nhà trường là nhân tố quan trọng quyết định hiệu lực
quản lý hệ thống và quyết định việc đảm bảo mục tiêu giáo dục.
Mục tiêu giáo dục được xác định căn cứ vào yêu cầu của thời đại về
phẩm chất năng lực của con người, căn cứ vào tình hình thực tế các nhiệm vụ
xây dựng, bảo vệ và phát triển của đất nước, của địa phương, từ đó đặt ra
những yêu cầu đòi hỏi về chất lượng con người, chất lượng nguồn nhân lực
sau đào tạo.
Mỗi cấp học có mục tiêu giáo dục cụ thể được quy định trong điều lệ
nhà trường. Quản lý nhà trường theo chức năng của quản lý là kế hoạch hóa,
tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra để mọi hoạt động diễn ra trong nhà trường hướng
tới việc thực hiện được mục tiêu giáo dục. Quản lý nhà trường sử dụng các
phương pháp của quản lý như phương pháp tổ chức – hành chính, phương
pháp tâm lý – xã hội, phương pháp kinh tế …
Có nhiều cách tiếp cận trong quản lý giáo dục.Cách tiếp cận chức năng
coi các thiết chế giáo dục là một tổ chức vì vậy có thể và phải quản lý trên cơ
sở phân chia hoạt động quản lý thành những hoạt động có tính chuyên biệt
hóa, hay thường gọi là các chức năng quản lý. Cách tiếp cận khách thể/ đối
tượng coi các thành tố của quá trình sư phạm như: giáo viên, học sinh, cơ sở
vật chất, tài chính, chương trình giáo dục … là đối tượng của quản lý. Chủ thể
quản lý của nhà trường là hiệu trưởng và ban giám hiệu. Cách tiếp cận hành
vi/ quan hệ con người trong quản lý lại nhìn hoạt động giáo dục từ bản chất
của nó là một quá trình xã hội hóa con người cá thể trở thành con người xã
hội. Vì vậy, trong giáo dục, mối quan hệ qua lại giữa con người với con người
là mối quan hệ chủ đạo có tính chất quyết định thành tựu của hoạt động giáo
dục. Những mối quan hệ con người được biểu hiện tập trung ở những vấn đề:
nhân cách của người đứng đầu một cơ sở giáo dục và cách thức hành xử của
người đó đối với tập thể giáo viên và học sinh; vấn đề văn hóa, bầu không khí
tâm lý trong nhà trường; vấn đề phong cách lãnh đạo quản lý của người hiệu