Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Quản lí đào tạo tại trường đại học sân khấu điện ảnh hà nội theo tiếp cận đảm bảo chất lượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.26 MB, 137 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ HỒNG HIỀN

QUẢN LÍ ĐÀO TẠO
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÂN KHẤU - ĐIỆN ẢNH HÀ NỘI
THEO TIẾP CẬN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60140114

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS Trịnh Thị Hồng Hà

HÀ NỘI, 2015


i

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ và hỗ trợ của các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp và các em sinh viên.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn - Tiến sĩ
Trịnh Thị Hồng Hà – người đã tạo mọi điều kiện, động viên và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn. Sự hiểu biết sâu sắc về khoa học
cũng như kinh nghiệm trong công tác quản lí của cô chính là tiền đề giúp tôi đạt
được những thành tựu và kinh nghiệm quý báu để hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Ban Giám hiệu và Phòng
Sau đại học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện tốt
nhất để tôi được học tập, rèn luyện trong suốt thời gian học tập tại Trường.


Cảm ơn các thầy cô đã trang bị cho tôi những kiến thức về công tác quản lí
giáo dục và phương pháp nghiên cứu khoa học để thực hiện luận văn.
Tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Hà
Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi có thể tham gia khóa học. Cảm ơn các
thầy, cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp và các bạn sinh viên trong Trường đã giúp
đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, khảo sát, tập hợp tư liệu để thực hiện luận văn.
Trong quá trình thực hiện, mặc dù đã cố gắng đi sâu nghiên cứu, tìm
hiểu và giải quyết vấn đề đặt ra trong đề tài nhưng chắc chắn luận văn vẫn sẽ
còn tồn tại những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các
thầy cô và các bạn đồng nghiệp để hoàn thiện hơn nghiên cứu của mình.
Hà Nội, 08 tháng 12 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Hồng Hiền


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Học viên

Nguyễn Thị Hồng Hiền


iii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. Cơ sở lí luận về quản lý đào tạo các ngành năng khiếu nghệ
thuật ở trường đại học theo tiếp cận đảm bảo chất lượng .......................... 6


iv

Chương 2. Thực trạng quản lí đào tạo các ngành năng khiếu nghệ thuật
tại Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội ....................................... 35

Chương 3: Biện pháp quản lý đào tạo ngành năng khiếu nghệ thuật tại
Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội theo tiếp cận đảm bảo chất
lượng ............................................................................................................... 70


v

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 100


vi

BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Cán bộ quản lý
Công tác chính trị, Quản lí học sinh, sinh viên
Đảm bảo chất lượng
Đào tạo, Quản lí khoa học
Giáo dục đại học
Giáo dục và Đào tạo

Giáo sư
Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục
Khoa học và công nghệ
Kiểm định chất lượng
Kiểm soát chất lượng
Nghệ sĩ nhân dân
Nghệ sĩ ưu tú
Nghiên cứu khoa học
Nhà giáo nhân dân
Phó Giáo sư
Phổ thông trung học
Phương pháp giáo dục
Quản lí đào tạo
Quản lí giáo dục
Quản lí trường học
Thạc sĩ
Thanh niên cộng sản
Tiến sĩ
Tổ chức cán bộ, Đối ngoại
Văn hóa chất lượng
Văn hóa nghệ thuật
Văn hóa, Thể thao và Du lịch

CBQL
CTCT, QLHSSV
ĐBCL
ĐT, QLKH
GDĐH
GD&ĐT
GS

KT&KĐCLGD
KH&CN
KĐCL
KSCL
NSND
NSƯT
NCKH
NGND
PGS
PTTH
PPGD
QLĐT
QLGD
QLTH
ThS
TNCS
TS
TCCB, ĐN
VHCL
VHNT
VH,TT&DL


vii

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

TT
I.
1.

2.
II.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

Nội dung

Trang

Danh mục sơ đồ
Sơ đồ 1.1. Mô hình tổng thể QLĐT theo tiếp cận CIPO
Sơ đồ 2.1. Bộ máy quản lí đào tạo của Trường Đại học Sân
khấu – Điện ảnh Hà Nội

15
35

Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 2.1. Nhận thức của CBQL và giảng viên về vai trò của
công tác QLĐT ngành năng khiếu nghệ thuật
Biểu đồ 2.2. Đánh giá chung của đội ngũ CBQL và giảng viên
về thực hiện quản lí mục tiêu đào tạo
Biểu đồ 2.3. Đánh giá chung của CBQL và giảng viên về thực
hiện quản lí công tác tuyển sinh

Biểu đồ 2.4. Đánh giá chung của CBQL và giảng viên về thực
hiện quản lí nội dung và chương trình đào tạo
Biểu đồ 2.5. Đánh giá chung của CBQL và giảng viên về thực
hiện quản lí hoạt động dạy của giảng viên
Biểu đồ 2.6. Đánh giá chung của CBQL và giảng viên về thực
hiện quản lí hoạt động học của sinh viên
Biểu đồ 2.7. Đánh giá chung của CBQL và giảng viên về thực
hiện quản lí cơ sở vật chất, tài chính phục vụ dạy học
Biểu đồ 2.8. Đánh giá chung của đội ngũ CBQL và giảng viên
về thực hiện quản lí môi trường đào tạo

39
39
42
45
48
54
57
62

Biểu đồ 3.1. Kết quả đánh giá mức độ cần thiết của các biện pháp

93

10. Biểu đồ 3.2. Kết quả đánh giá mức độ khả thi của các biện pháp

94

9.


11.

Biểu đồ 3.3. So sánh mức độ rất cần thiết và rất khả thi của các
biện pháp

95


viii

TT

Nội dung

Trang

III. Danh mục bảng
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.

Bảng 2.1. CBQL và giảng viên đánh giá về quản lí mục tiêu đào
tạo thông qua các tiêu chí cụ thể
Bảng 2.2. CBQL và giảng viên đánh giá về thực hiện quản lí

công tác tuyển sinh qua các tiêu chí cụ thể
Bảng 2.3. CBQL và giảng viên đánh giá về quản lí nội dung và
chương trình đào tạo qua các tiêu chí cụ thể
Bảng 2.4. CBQL và giảng viên đánh giá thực hiện quản lí hoạt
động dạy của giảng viên qua các tiêu chí cụ thể
Bảng 2.5. CBQL và giảng viên đánh giá thực hiện quản lí hoạt
động học của sinh viên qua các tiêu chí cụ thể
Bảng 2.6. CBQL và giảng viên đánh giá về thực hiện quản lí cơ
sở vật chất, tài chính phục vụ dạy học qua các tiêu chí cụ thể
Bảng 2.7. CBQL và giảng viên đánh giá thực hiện quản lí môi
trường đào tạo qua các tiêu chí cụ thể
Bảng 2.8. Đánh giá của CBQL và giảng viên về thực trạng các
biện pháp quản lý đào tạo
Bảng 2.9. Đánh giá chung của CBQL và giảng viên về thực
trạng công tác quản lý đào tạo

40
43
46
49
55
57
62
64
65

10. Bảng 3.1. Kết quả đánh giá mức độ cần thiết của các biện pháp

92


11. Bảng 3.2. Kết quả đánh giá mức độ khả thi của các biện pháp

93


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Về mặt thực tiễn
Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội được thành lập theo
Quyết định số 372/CP ngày 17/12/1980 của Hội đồng Chính phủ, trên cơ sở
sát nhập các ngành nghệ thuật của Trường Điện ảnh Việt Nam vào Trường
Sân khấu Việt Nam với 5 khoa chuyên môn ban đầu là: Sân khấu, Điện ảnh,
Mỹ thuật, Múa và Kịch hát dân tộc. Năm 1995, Trường tiếp nhận thêm hai cơ
sở: Viện Sân khấu Việt Nam và Trường Trung cấp Điện ảnh Việt Nam, hình
thành hai đơn vị mới của trường là Viện Sân khấu - Điện ảnh và Khoa Kinh tế
- Kỹ thuật điện ảnh (nay là Khoa Kỹ thuật, Công nghệ điện ảnh - truyền hình).
Trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, ngành giáo
dục đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức. Nhiệm vụ trước mắt của các
trường đại học là phải đào tạo được đội ngũ cán bộ có đủ tư cách đạo đức, đủ
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đối
với Trường ĐH SK-ĐA HN, những thách thức đó lại càng lớn hơn, bởi
Trường là cơ sở đào tạo nghệ thuật trình độ đại học đầu tiên, cung cấp nguồn
nhân lực chuyên nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sân khấu, điện ảnh,
nhiếp ảnh, múa, và truyền hình cho cả nước. Sinh viên tốt nghiệp ra trường
đòi hỏi phải có phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực sáng tạo tốt để góp
phần tích cực vào sự nghiệp giữ gìn, kế thừa và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Để định hướng phát triển Nhà trường, đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn

nhân lực cho ngành và cho xã hội, Trường đã xây dựng Đề án “Phát triển
Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội giai đoạn 2014 – 2020, tầm nhìn
đến năm 2030”. Trong đó xác định những mục tiêu cơ bản phải thực hiện là:


2

“Đổi mới căn bản và toàn diện các hoạt động giảng dạy - học tập, tiếp tục nâng
cao chất lượng đào tạo, đưa Trường thực sự trở thành một trung tâm đào tạo và
nghiên cứu có uy tín trong cả nước với các chương trình đào tạo, các cấp học
tiên tiến, hoàn chỉnh; có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đủ năng lực và điều
kiện để giao lưu hội nhập quốc tế; đáp ứng nhu cầu và cung cấp cho xã hội
những nghệ sĩ có tài năng, những chuyên gia giỏi trong lĩnh vực nghệ thuật, lí
luận, kỹ thuật và quản lí các ngành sân khấu, điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp ảnh,
múa và truyền hình. Trường phải là trung tâm đề xuất, góp phần tích cực giải
quyết những vấn đề thuộc các lĩnh vực lí luận và lịch sử nghệ thuật liên quan
đến các ngành nghệ thuật biểu diễn và nghe nhìn; sưu tầm, khai thác và phát
huy những di sản truyền thống, góp tiếng nói riêng của mình vào việc xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.” [50]
Công tác đào tạo của Nhà trường đóng vai trò sống còn trong việc đào
tạo nguồn nhân lực nghệ thuật, đáp ứng yêu cầu phát triển của VHNT trong
giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên hiện nay kết quả đào tạo của Nhà trường chưa
hoàn toàn đạt được như mong muốn: nhiều sinh viên thuộc khối ngành điện
ảnh – truyền hình ra trường còn bỡ ngỡ khi tiếp cận với các trang thiết bị kỹ
thuật hiện đại tại cơ sở sản xuất; chất lượng sinh viên một số ngành, chuyên
ngành chưa thực sự đáp ứng được đúng theo chuẩn đầu ra nhà trường đã công
bố; Mặc dù Trường là một trong rất ít trường ở Việt Nam đào tạo nhân lực
trong lĩnh vực sân khấu – điện ảnh, nhưng tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm
đúng chuyên môn chưa cao: Ngành Lí luận phê bình điện ảnh – truyền hình
(khóa học 2009 – 2013: đạt 76%, khóa học 2010 – 2014 đạt 80%), Ngành

Công nghệ điện ảnh – truyền hình (khóa học 2009 – 2013: đạt 78%, khóa học
2010 – 2014 đạt 72%). Một trong những nhân tố quan trong góp phần ĐBCL
đào tạo của nhà trường là công tác QLĐT hiện nay vẫn còn có những bất cập:
việc tuyển sinh học sinh có năng khiếu nghệ thuật còn có khó khăn, các


3

phương tiện vật chất cho giảng dạy nghệ thuật còn chưa đầy đủ hoặc chưa
ĐBCL, phương tiện dạy học đặc thù còn chưa đáp ứng v.v…
1.2 Về lí luận
Quản lí đào tạo ở trường đại học là một nhiệm vụ quan trọng không thể
thiếu trong quá trình đào tạo ở bất kì một trường đại học nào. Đó là quá trình
gây ảnh hưởng, điều khiển, phối hợp các lực lượng tham gia quản lí đào tạo và
sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nhà trường để đạt được mục tiêu đào tạo.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về QLĐT trong GDĐH, tuy nhiên
nghiên cứu về QLĐT ngành năng khiếu nghệ thuật gần như chưa có. Đào tạo
ngành nghệ thuật có những đặc thù riêng khác so với đào tạo các ngành khác,
do đó nó cũng cần có một phương thức QLĐT phù hợp. Bên cạnh đó, để đảm
bảo hiệu quả của QLĐT ngành nghệ thuật thì việc tìm kiếm những tiếp cận
mới trong bối cảnh hiện nay là một việc làm cần được khuyến khích. Chính vì
thế nghiên cứu về QLĐT ngành năng khiếu nghệ thuật theo tiếp cận ĐBCL là
một ý tưởng mới. Theo nghĩa chung nhất, ĐBCL bao gồm các hệ thống chính
sách, thủ tục, quy trình, quan điểm, hoạt động được xác định từ trước nhằm
đạt được, duy trì, giám sát và củng cố chất lượng các sản phẩm, dịch vụ, hoạt
động v.v… ĐBCL được thực hiện để sao cho sản phẩm, dịch vụ không có lỗi
khi đến với khách hàng. Như vậy tiếp cận ĐBCL ở đây hiểu là việc vận dụng
tư tưởng của lí thuyết về ĐBCL để giải quyết vấn đề QLĐT nhằm mang lại
hiệu quả quản lí cao hơn. Và vấn đề đặt ra là tiếp cận ĐBCL trong quản lí là
gì? Và áp dụng thế nào trong QLĐT ngành năng khiếu nghệ thuật tại Trường

ĐH SK-ĐA HN để ĐBCL, góp phần đào tạo sinh viên ra trường đáp ứng được
yêu cầu xã hội và có đóng góp tích cực vào sự phát triển VHNT của đất nước?
Vì những lí do trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Quản lí đào tạo tại
Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội theo tiếp cận đảm bảo chất
lượng” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.


4

2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lí đào tạo ở Trường ĐH SK-ĐA HN theo
tiếp cận đảm bảo chất lượng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo các ngành sân
khấu, điện ảnh, truyền hình, múa, nhiếp ảnh và thiết kế mỹ thuật; góp phần
quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển
của Nhà trường giai đoạn 2014 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lí luận về QLĐT theo tiếp cận ĐBCL ở trường đại học
- Đánh giá thực trạng QLĐT ngành năng khiếu nghệ thuật tại Trường
ĐH SK-ĐA HN
- Đề xuất các biện pháp QLĐT ngành năng khiếu nghệ thuật tại Trường
ĐH SK-ĐA HN theo tiếp cận ĐBCL.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lí đào tạo tại Trường ĐH SK-ĐA HN theo tiếp cận ĐBCL.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu QLĐT được giới hạn ở các ngành đào tạo nghệ
thuật trình độ đại học được coi là truyền thống của Trường ĐH SK-ĐA HN
và cũng là ngành đào tạo giúp Nhà trường khẳng định vị trí dẫn đầu trong lĩnh
vực nghệ thuật trong cả nước, đó là các khối ngành: sân khấu, điện ảnh truyền hình và thiết kế mỹ thuật.

- Các biện pháp QLĐT được giới hạn ở cấp trường đại học do hiệu
trưởng đứng đầu phối hợp với các chủ thể quản lí khác trong nhà trường thực
hiện.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận


5

- Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các tài liệu khoa học,
các văn bản liên quan đến đề tài.
- Phương pháp so sánh
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra (điều tra phỏng vấn, điều tra qua bảng hỏi...)
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
5.3. Nhóm phương pháp khác
- Phương pháp chuyên gia (hỏi ý kiến chuyên gia, các đồng nghiệp, các
nhà quản lí);
- Phương pháp thống kê toán học để xử lí số liệu, cụ thể hoá bằng các
sơ đồ, bảng biểu v.v…
6. Giả thuyết khoa học
Nếu các biện pháp QLĐT ngành năng khiếu nghệ thuật tại Trường ĐH
SK-ĐA HN được đề xuất trên cơ sở vận dụng những tư tưởng, nguyên tắc và
đặc điểm của tiếp cận ĐBCL thì sẽ góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng
đào tạo của Trường ĐH SK-ĐA HN.


6


Chương 1. Cơ sở lí luận về quản lý đào tạo các ngành năng khiếu nghệ thuật ở trường đại học theo tiếp cận đảm bảo chất lượng

Chương 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ ĐÀO TẠO
NGÀNH NĂNG KHIẾU NGHỆ THUẬT Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
THEO TIẾP CẬN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG
Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những nghiên cứu về đảm bảo chất lượng trong giáo dục – đào tạo
ĐBCL là một khâu trong hệ thống QLCL. QLCL bao gồm: lập kế
hoạch chất lượng (quality planning), giám sát chất lượng (quality control),
đảm bảo chất lượng (quality assurance) và cải thiện chất lượng (quality
improvement). ĐBCL là quá trình xảy ra trước và trong khi thực hiện nhằm
phòng ngừa sự xuất hiện những sai sót bằng các quy trình và cơ chế, chính
sách, thủ tục… nhất định nhằm đảm bảo cho sản phẩm cuối cùng ra đời
không bị lỗi.
Bàn về vấn đề ĐBCL trong GDĐH, đã có nhiều công trình nghiên cứu
của các tác giả nước ngoài phân tích, đề cập đến những khía cạnh khác nhau.
Một số công trình tiêu biểu như sau:
Trong bài “Con đường đưa tới chất lượng giáo dục ở giáo dục đại học”
của tác giả Fabrice Henard và Solenie Leprince – Ringuet [59] nhấn mạnh
chất lượng giáo dục là một vấn đề quan trọng ở bậc đại học, việc ĐBCL giáo
dục sẽ là nhân tố làm chất lượng giáo dục thay đổi và là nhân tố thay đổi cho
sự phát triển của xã hội, thay đổi ý thức học tập của sinh viên, gia tăng nhu
cầu giá trị đồng tiền và là cơ sở cho sự phát triển khoa học kỹ thuật. Hầu hết ở
các quốc gia, ĐBCL giáo dục được xây dựng trên các nguyên tắc: sự liên kết
của các thành viên trong nhà trường, việc thi hành tiến trình ĐBCL giáo dục,
thực hiện các báo cáo về ĐBCL của bản thân các giảng viên, nhân viên trong
nhà trường dựa trên kết quả đánh giá.



7

Trong bài: “Cải tiến đánh giá giảng viên để cải thiện chất lượng giảng
dạy” của NGA Center for Best Practices, Education Policy Studies Division
[63] có bàn về ĐBCL giáo dục, tác giả nhấn mạnh: các nhà giáo dục đã thấy
được sự quan trọng của việc ĐBCL giáo dục, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng
chất lượng giảng dạy tác động đến kết quả học tập của sinh viên lớn hơn là tác
động về các mặt khác trong nhà trường.
Sylvia Chong trong bài “Chất lượng dạy và học: khung đảm bảo chất
lượng cho các chương trình chuẩn bị giáo viên ban đầu” [64] đã nói lên chất
lượng giảng dạy của giảng viên là nhân tố quan trọng đầu tiên trong quá trình
đào tạo. Những giảng viên có đủ năng lực và giảng dạy có hiệu quả sẽ xây
dựng hệ thống giáo dục ngày càng vững mạnh, điều này chính là bước đầu
tiên trong công việc ĐBCL.
Mark Freman trong bài viết “Phát triển dạy và học thông qua những mô
hình khuyến khích và kỷ luật đặc trưng” [62] đã chỉ ra rằng: ở Úc các nghiên
cứu về ĐBCL giáo dục chủ yếu là hướng về các hoạt động của sinh viên và
giảng viên theo các mô hình ĐBCL. Bài viết này đã đưa ra các mô hình
ĐBCL giáo dục và so sánh hiệu quả của chúng.
Nhìn chung, các nghiên cứu về ĐBCL trong GDĐH ở nhiều nước
thường tập trung vào việc nghiên cứu các mô hình, phương pháp để quản lí
chất lượng trong GDĐH trong đó có khâu ĐBCL. Ngoài ra các nghiên cứu
còn đi sâu vào việc đề ra những chính sách, thủ tục, qui trình phù hợp để
ĐBCL trong GDĐH.
Ở Việt Nam, trong khoảng 20 năm trở lại đây cũng rất quan tâm đến
vấn đề quản lí chất lượng và ĐBCL trong GDĐH. Một số công trình nghiên
cứu về chất lượng và bảo chất lượng trong GDĐH tiêu biểu như:
Cuốn chuyên khảo “Quản lí chất lượng giáo dục đại học” [41], Phạm
Thành Nghị đã đưa ra các khái niệm về chất lượng và chất lượng GDĐH, các



8

chỉ số thực hiện, chuẩn mực chất lượng trong GDĐH, một số hình thức đánh
giá trong GDĐH. Ngoài ra trong tài liệu này tác giả cũng đề cặp tới vấn đề vai
trò của cán bộ giảng dạy trong quá trình ĐBCL v.v…
Cuốn “Đánh giá chất lượng giảng dạy - Nội dung - Phương pháp - Kỹ
thuật” [36], Trần Thị Bích Liễu đã cho rằng đánh giá chất lượng giáo dục như
là một hoạt động thường xuyên và được chú trọng trong một tổ chức nhà
trường, nơi mà chất lượng giáo dục được đặt lên hàng đầu. Tác giả đưa ra rất
nhiều phương pháp và hình thức đánh giá chất lượng giáo dục để nhằm
ĐBCL giáo dục và quá trình giảng dạy của giảng viên là một phần trong
ĐBCL giáo dục.
Trong cuốn “Giáo dục đại học, một số thành tố của chất lượng” [39],
Nguyễn Phương Nga và Nguyễn Quý Thanh đã đề cập đến các thành tố dẫn
đến chất lượng như việc cải tiến thi đại học, sinh viên đánh giá giảng viên,
hoạt động học tập của sinh viên, học vị khoa học của giảng viên v.v… và
phương pháp giáo dục là một trong những thành tố ĐBCL trong GDĐH.
Ngoài ra còn có các báo cáo khoa học, các bài báo khoa học nghiên cứu
về quản lí chất lượng và ĐBCL trong GDĐH.
Bài báo “Về quản lí chất lượng và đảm bảo chất lượng trong giáo dục
đại học” [10] Trịnh Thị Hồng Hà đã cho rằng quản lí chất lượng gồm: lập kế
hoạch chất lượng, giám sát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất
lượng, như vậy ĐBCL là một khâu trong quản lí chất lượng. Và ĐBCL trong
GDĐH là việc hoạch định và thực hiện các chính sách, thủ tục, qui trình v.v…
nhằm đảm bảo cơ sở GDĐH hoặc chương trình GDĐH đạt các chuẩn đã đề ra.
Bài “Đề xuất quản lí chương trình đào tạo theo cách tiếp cận đảm bảo
chất lượng của AUN” in trong kỷ yếu Hội thảo “Đảm bảo chất lượng” Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh,
2014 khẳng định: ĐBCL bên trong là một yêu cầu không thể thiếu đối với các



9

trường đại học trong quá trình tham gia kiểm định chất lượng. Tác giả đề xuất
hệ thống nội dung quản lí chương trình đào tạo theo tiếp cận ĐBCL của Đại
học An Giang (AUN) dựa trên bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng CTĐT của
AUN và các tiêu chuẩn thuộc hệ thống IQA của AUN.
Những nghiên cứu về quản lí đào tạo trong các trường đại học
Các công trình nghiên cứu về QLĐT chủ yếu là các nghiên cứu dưới
dạng luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ ngành Quản lí giáo dục [7], [16], [38],
[45], [46], [49], [13]. Nhìn chung, các nghiên cứu này đã đặt ra và giải quyết
vấn đề QLĐT ở một trường đại học cụ thể, hoặc giải quyết vấn đề QLĐT đáp
ứng theo yêu cầu nào đó, chẳng hạn:
Các luận văn của: Nguyễn Tiến Dũng “Những biện pháp quản lý đào
tạo của Học viện Cảnh sát Nhân dân đáp ứng chuẩn đầu ra” [7, 2011];
Nguyễn Quang Hải “Những biện pháp tăng cường quản lý đào tạo hệ chính
quy tại Học viện Kỹ thuật quân sự” [16, 1999]; Phan Đình Mãi “Các giải
pháp tăng cường quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ tại Trường Đại học Bách
khoa - Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh” [38, 2011]; Lê Văn Tâm
“Quản lí đào tạo Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Thành phố Hồ
Chí Minh đáp ứng nhu cầu xã hội” [45, 2010]; Lê Hữu Thỉnh “Các biện pháp
quản lý quá trình đào tạo nhằm nâng cao các kĩ năng thực hành của học viên
khoa học quân sự phòng không tại Học viện Phòng không Không quân” [46,
2004]; Nguyễn Điệp Trà “Các biện pháp quản lý quá trình đào tạo theo tín chỉ
tại trường Cao đẳng Nông - Lâm giai đoạn 2010 – 2015” [49, 2010]. Luận án
của Nguyễn Thị Hà “Quản lý đào tạo của Trường Đại học Kinh tế - Kĩ thuật
công nghiệp đáp ứng nhu cầu nhân lực vùng Sông Hồng” [13, 2015] v.v…
Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào về QLĐT theo tiếp cận ĐBCL
cũng như chưa có nghiên cứu nào về QLĐT ở Trường ĐH SK-ĐA HN.



10

Một số khái niệm cơ bản
Quản lí và Quản lí giáo dục
Quản lí
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, nhiều học giả trong
và ngoài nước đã đưa ra cách giải thích không giống nhau về quản lí. Một số
định nghĩa tiêu biểu hay gặp trong các tài liệu như sau:
- Theo Hard Koont: “Quản lí là xây dựng và duy trì một môi trường tốt
giúp con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định”. [52]
- Theo Fayel: “Quản lí là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình,
doanh nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lí chính là thực hiện kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”. [52]
- Theo Peter. F. Dalark: “Định nghĩa quản lí phải được giới hạn bởi môi
trường bên ngoài nó. Theo đó, quản lí bao gồm 3 chức năng chính là: Quản lí
doanh nghiệp, quản lí giám đốc, quản lí công việc và nhân công” [52].
Một số cách giải thích rất quen thuộc ở Việt Nam đã xuất hiện từ lâu
trong các giáo trình, tài liệu và bài báo:
- Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lí là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lí đến tập thể những người lao động (nói chung là
khách thể quản lí) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [44].
- Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ định nghĩa “Quản lí là một quá trình
định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lí có hệ thống là quá trình tác động
đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này
đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lí mong muốn” [21]
Hoặc cũng có cách giải thích khác: “Quản lí là một hoạt động thiết yếu,
nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của

nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lí là nhằm hình thành một môi trường mà


11

trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền
bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lí
là một nghệ thuật, còn kiến thức có tổ chức quản lí là khoa học” [22].
Những định nghĩa về quản lí trên đây đứng từ nhiều góc độ khác nhau
nhưng chủ yếu nói về chức năng của quản lí hoặc nói cụ thể về các công việc
trong quản lí, tuy nhiên chưa thực sự đầy đủ và chưa nói lên bản chất của nó.
Chúng tôi sử dụng khái niệm “Quản lí là một dạng lao động đặc biệt
nhằm gây ảnh hưởng, điều khiển, phối hợp lao động của người khác hoặc của
nhiều người khác trong cùng tổ chức hoặc cùng công việc nhằm thay đổi
hành vi và ý thức của họ, định hướng và tăng hiệu quả lao động của họ, để
đạt mục tiêu của tổ chức hoặc lợi ích của công việc cùng sự thỏa mãn của
những người tham gia” [25]. Có thể nói, đây là định nghĩa đầy đủ và chỉ ra
được bản chất của quản lí đó là gây ảnh hưởng, điều khiển, phối hợp người
khác hay nhiều người khác chứ không phải sản xuất trực tiếp, mặc dù để sản
xuất ra sản phẩm thì cần phải quản lí; mục tiêu là cái chung chứ không phải
của cá nhân nào.
Quản lí giáo dục
Chúng tôi sử dụng khái niệm “quản lý giáo dục” theo nghĩa khoa học.
Vì quản lí được thực hiện trong và đối với những lĩnh vực khác nhau, trong
đó có giáo dục. QLGD là dạng quản lí dành cho một lĩnh vực xã hội cụ thể là
giáo dục. Bản chất của QLGD cũng là quản lí chứ không có gì khác. Nhưng
cái khác ở đây là mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nguồn lực, công cụ và môi
trường… và chỉ khác khi so sánh với quản lí lĩnh vực khác. Vì vậy chúng tôi
tán thành định nghĩa khái niệm QLGD của Đặng Thành Hưng “Quản lí giáo
dục là dạng lao động xã hội đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục nhằm gây ảnh

hưởng, điều khiển hệ thống giáo dục và các thành tố của nó, định hướng và
phối hợp lao động của những người tham gia công tác giáo dục để đạt được


12

mục tiêu giáo dục và mục tiêu phát triển giáo dục, dựa trên thể chế giáo dục
và các nguồn lực giáo dục” [26].
Theo ông, QLGD thường được thực hiện ở 3 cấp: cấp trung ương, cấp
địa phương và cấp cơ sở. Cấp trung ương và cấp chính quyền địa phương
tỉnh, thành phố được gọi chung là cấp cao. Cấp ngành ở tỉnh, thành phố và
cấp chính quyền quận. huyện gọi là cấp trung, và cấp trường là cấp cơ sở.
Những cấp quản lí này có lẽ không đồng nhất với ý tưởng quản lí vĩ mô và
quản lí vi mô. Ở cấp quản lí nào cũng có cả quản lí vĩ mô lẫn quản lí vi mô.
Đối tượng của QLGD vĩ mô là những yếu tố ảnh hưởng đến toàn cục, đến
toàn bộ hệ thống giáo dục. Đối tượng của QLGD vi mô là những yếu tố chỉ
ảnh hưởng cục bộ, đơn lẻ [26].
Quản lí trường học
Chúng tôi tán thành và sử dụng quan điểm của Đặng Thành Hưng [28]
về quản lí trường học. Theo ông, trường học là đơn vị cơ sở của tổ chức và hệ
thống giáo dục, đồng thời là một dạng của tổ chức trong xã hội. Vì vậy có thể
hiểu QLTH theo hai nghĩa cơ bản sau:
1. Là quản lí giáo dục tại cơ sở.
2. Là quản lí một loại tổ chức trong xã hội, cụ thể ở đây là tổ chức giáo dục.
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng theo nghĩa thứ nhất. Theo nghĩa này,
QLTH lại có hai khía cạnh khác nhau nhưng thống nhất với nhau mật thiết
đến mức đôi khi khó phân biệt. Khía cạnh thứ nhất liên quan đến các cấp quản
lí chính quyền và chuyên môn thuộc các cấp trên của trường. Mỗi trường học
thực chất vẫn do các cấp nhà nước từ địa phương đến trung ương quản lí. Khi
nói quản lí dựa vào trường học chính là bàn đến quản lí của các cấp trên

trường, chứ không phải bàn về chuyện quản lí nội bộ hay tự quản ở trường.
Nhưng trường học còn được quản lí bởi bộ máy bên trong trường do
hiệu trưởng đứng đầu. Đó là QLTH tại cấp trường / quản lí tại cơ sở, hay quản


13

lí bên trong trường. Thông thường, quản lí trường học chỉ được hiểu theo
nghĩa này, mà khía cạnh thứ nhất hay bị lãng quên. Trên thực tế, QLTH tại
cấp trường vừa có tính chủ động, độc lập tương đối tùy theo cơ chế phân cấp
cụ thể, song chính nó vẫn chịu sự chi phối và tác động quản lí của các cấp
trên trường. Cả bộ máy quản lí cấp trường hoàn toàn do các cấp trên trường
bổ nhiệm hoặc bãi miễn.
Vì vậy, có thể định nghĩa khái niệm QLTH là quản lí giáo dục tại cấp
cơ sở, trong đó chủ thể quản lí là các cấp chính quyền và chuyên môn trên
trường, các nhà quản lí trong trường do hiệu trưởng đứng đầu, đối tượng quản
lí chính là nhà trường như một tổ chức chuyên môn - nghiệp vụ, nguồn lực
quản lí là con người, cơ sở vật chất - kĩ thuật, tài chính, đầu tư khoa học công nghệ và thông tin bên trong trường và được huy động từ bên ngoài
trường dựa vào luật, chính sách, cơ chế và chuẩn hiện có [28].
Nội dung của QLTH bao gồm: 1) Quản lí tài chính giáo dục; 2) Quản lí
cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật (tài sản vật chất); 3) Quản lí nhân sự (cán bộ,
công chức, nhân viên, giảng viên, sinh viên - tài nguyên con người); 4) Quản
lí chuyên môn (chương trình, hoạt động giảng dạy, hoạt động học tập, phát
triển nguồn nhân lực giảng dạy và quản lí, các hoạt động nghiên cứu và phát
triển khác); 5) Quản lí môi trường (tự nhiên và văn hóa); 6) Quản lí các quan
hệ giáo dục của ngành giáo dục với các thiết chế xã hội khác (Đoàn, Đội,
Công đoàn, các hội nghề nghiệp, các hội chính trị - xã hội, gia đình sinh viên,
cộng đồng dân cư).
Quản lí đào tạo
Về khái niệm đào tạo, có một số định nghĩa sau:

- Theo Polat: Đào tạo được hiểu là hoạt động cùng nhau có hướng đích
của người dạy và người học mà trong đó thực hiện sự phát triển nhân cách,
trình độ học vấn và mức độ giáo dục của nhân cách. [51]


14

- Theo Cenzo & Robbins: Đào tạo được hiểu là tiến trình bao gồm
những phương pháp được sử dụng tác động lên quá trình học tập nhằm nâng
cao kiến thức và kỹ năng thực hành. [51]
- Theo Nguyễn Minh Đường: Đào tạo là quá trình hoạt động có mục
đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống các tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo, thái độ... để hoàn thiện nhân cách cho mọi cá nhân, tạo tiền đề cho họ
có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả. [9]
- Theo Đào Quang Ngoạn: Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích,
có tổ chức nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo và thái độ, nhân cách... trong lí thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực cho
mỗi cá nhân để thực hiện thành công một hoạt động chuyên môn nhất định.
Quá trình này được thực hiện chủ yếu trong hệ thống các nhà trường chuyên
nghiệp (trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề) và hệ thống các trường đại học,
cao đẳng với những chương trình, mục tiêu, nội dung, phương pháp, quy trình
đào tạo cụ thể nhằm giúp người học đạt được trình độ đào tạo nhất định về
một lĩnh vực chuyên môn để có thể lập nghiệp. Khi nói đến đào tạo là nói đến
lĩnh vực cung ứng nguồn nhân lực cho các hoạt động kinh tế - xã hội. [42].
Chúng tôi hiểu đào tạo nói đến các hoạt động giáo dục, dạy học trong
nhà trường chuyên nghiệp nhằm mục đích giúp cho người học đạt được các
mục tiêu về phẩm chất, năng lực và các điều kiện cần thiết khác của một nghề
chuyên môn theo chuẩn đầu ra đã được các trường xác định từ trước. Trung
tâm của quá trình đào tạo trong nhà trường là hoạt động của người dạy, người
học và các tổ chức sư phạm trong nhà trường nhằm thực hiện các kế hoạch,

chương trình nhằm đạt mục tiêu đào tạo đã đề ra.
QLĐT chính là quản lí công tác giáo dục và dạy học trong các nhà
trường, thực ra về bản chất đào tạo cũng là giáo dục nhưng thuật ngữ này
thường được dùng trong hệ thống giáo dục đại học và dạy nghề.


15

QLĐT cũng chính là quản lí nhưng đó là quản lí công tác đào tạo trong
các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục chuyên nghiệp. Chúng tôi sử dụng định
nghĩa khái niệm quản lí đào tạo như sau: QLĐT trong nhà trường là một dạng
lao động xã hội nhằm gây ảnh hưởng, điều khiển, phối hợp hoạt động của
những người tham gia công tác đào tạo trong nhà trường để đạt được mục
tiêu đào tạo dựa vào thể chế giáo dục và nguồn lực của nhà trường.
Mục tiêu của QLĐT trong nhà trường là gây ảnh hưởng, điều khiển, và
phối hợp những người tham gia công tác đào tạo trong nhà trường như cán bộ
quản lí, giảng viên, nhân viên, sinh viên, giúp cho họ nhận thấy trách nhiệm
của mình và cùng nhau thực hiện các nhiệm vụ được trao để đạt được mục
tiêu đào tạo là cho ra đời những sản phẩm giáo dục đáp ứng nhu cầu xã hội.
Để thực hiện được mục tiêu đào tạo, các chủ thể quản lí trong nhà trường phải
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực như: con người, tài chính, cơ sở vật chất kĩ
thuật theo thể chế giáo dục qui định.

Sơ đồ 1.1. Mô hình tổng thể QLĐT theo tiếp cận CIPO
Về nội dung/nhiệm vụ QLĐT, nếu theo tiếp cận CIPO (Context, Input,
Procees, Outcome) thì QLĐT có nhiệm vụ quản lí: đầu vào, quá trình và đầu


16


ra của quá trình đào tạo trong trường đại học trong sự tác động của bối cảnh
cụ thể. QLĐT theo tiếp cận CIPO được thể hiện trong sơ đồ 1.1 ở trên (các
yếu tố này đặt trong bối cảnh cụ thể).
QLĐT nhìn dưới góc độ các hoạt động sẽ bao gồm nhiệm vụ hoặc nội
dung yếu sau: Quản lí mục tiêu đào tạo; quản lý công tác tuyển sinh; quản lí
nội dung, chương trình đào tạo; quản lí hoạt động của người dạy, người học
trong việc thực hiện kế hoạch, chương trình đào tạo của nhà trường; quản lí
đánh giá kết quả đào tạo; quản lí cơ sở vật chất - kĩ thuật phục vụ cho đào tạo.
Ngành năng khiếu nghệ thuật
Trong luận văn này, chúng tôi hiểu ngành năng khiếu, nghệ thuật là
một chuyên ngành trong GDĐH. Đó là một chuyên ngành trong đào tạo
chuyên môn (professional) về nghệ thuật đòi hỏi người học phải có năng
khiếu về nghệ thuật trong lĩnh vực mình muốn theo đuổi. Đặc trưng của các
ngành nghệ thuật là nếu không có năng khiếu thì không thể thành công. Năng
khiếu là nói về phẩm chất hoặc tiềm năng riêng có của cá nhân do khi sinh ra
đã vốn có tuy nhiên muốn thành nhà chuyên nghiệp trong lĩnh vực nghệ thuật
nào đó thì cần được đào tạo, rèn luyện.
Trường ĐH SK-ĐA HN đào tạo những sinh viên có năng khiếu về nghệ
thuật như: biên kịch, đạo diễn, quay phim điện ảnh; biên tập truyền hình, đạo
diễn truyền hình; nhiếp ảnh nghệ thuật, nhiếp ảnh báo chí; diễn viên kịch nói,
diễn viên điện ảnh; diễn viên tuồng, chèo, cải lương; nhạc công kịch hát dân
tộc; biên đạo múa, huấn luyện múa; thiết kế mỹ thuật sân khấu, điện ảnh,
phim hoạt hình; công nghệ dựng phim, âm thanh điện ảnh – truyền hình v.v…
Những yêu cầu cơ bản đối với sinh viên theo học ngành này là trước
hết cần phải có năng khiếu, lòng đam mê nghệ thuật, tiếp đến là khả năng tư
duy sáng tạo, học tập và rèn luyện các kỹ năng dàn dựng các tác phẩm sân
khấu, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, hội họa… Sau khi tốt nghiệp ra trường,



×