Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở đắklắk hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.63 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
i
MỞ ĐẦU
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của nước ta trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. “Đặc điểm lớn nhất của nước ta trong thời kì quá độ là từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Do đó, chúng ta phải thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bởi nông nghiệp nông thôn là khu vực đông
dân cư nhất lại có trình độ phát triển nhìn chung là thấp so với các khu vực khác của
nền kinh tế. Nông dân chiếm hơn 70% dân số và hơn 76% lực lượng lao động của cả
nước, đóng góp 25% - 27% GDP của cả nước.
Đảng ta coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và
có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng nước ta trước đây và trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay. Khu vực nông nghiệp, nông thôn là khu vực có tài nguyên lớn về đất
đai và các tiềm năng thiên nhiên khác, với hơn 7 triệu hecta đất canh tác, 10 triệu hecta
đất canh tác chưa được sử dụng, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm nông
– lâm - hải sản. Nông nghiệp, nông thôn giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các
nguồn nguyên, nhiên vật liệu cho sự phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Sau 25 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, bộ mặt nông thôn đã có những
bước khởi sắc và vai trò của nông nghiệp, nông thôn ngày càng được khẳng định. Tuy
nhiên vẫn còn đó những tồn tại, hạn chế, yếu kém nền nông nghiệp còn lạc hậu, manh
mún, nông thôn trong tình trạng kém phát triển, việc làm, thu nhập và đời sống của
nông dân còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp. Tình trạng đó dẫn tới sự chênh
lệch giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn.
Bên cạnh đó, việc hội nhập kinh tế thế giới mặc dù đã đạt được những thành tựu
to lớn nhưng nông nghiệp, nông thôn nước ta đang đứng trước những thách thức
không nhỏ. Đó là sự cạnh tranh quyết liệt của hàng nông sản, các hàng rào phi thuế
quan, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, những biến đổi về giá cả… tất cả những
điều đó ảnh hưởng tiêu cực đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Là tỉnh lớn nằm ở khu vực Tây Nguyên, cùng với xu thế chung của cả nước, Đắklắk
cũng đã đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn một


cách toàn diện, và đến nay quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn ở Đắklắk càng đi đúng hướng và gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy
1
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nông nghiệp, nông thôn Đắklắk vẫn còn tồn tại
một số hạn chế. Đặc biệt nông dân Đắklắk, mặc dù đóng một vai trò to lớn trong quá trình
CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn nhưng cho đến nay đời sống của đa số nông dân vẫn
còn nghèo, và còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Để quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Đắklắk đi vào chiều sâu,
tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa, đòi hỏi Đắklắk phải nỗ lực xây
dựng, hoàn thiện một hệ thống những chủ trương, chính sách, phương hướng, giải
pháp đồng bộ nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn. Với tư cách là chủ thể, là
lực lượng nòng cốt và chủ yếu trực tiếp tham gia vào sự nghiệp này, điều quan
trọng hơn hết là phải khơi dậy sự cố gắng, lòng nhiệt tình, tính năng động, tích cực
sáng tạo của nông dân Đắklắk. Vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH - HĐH
nông nghiệp, nông thôn là vô cùng to lớn. Nhưng chỉ có một mình lực lượng nông
dân thì chưa đủ mà đòi hỏi sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân. Đây là những vấn
đề lớn đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người nông dân. Vì vậy, sức
mạnh của nông dân chỉ phát huy mạnh mẽ khi có sự quan tâm sâu sát, sự hỗ trợ kịp
thời và thường xuyên của các cấp, các ngành địa phương, của cả hệ thống chính trị.
Trên cơ sở đó em chọn đề tài “ Phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở Đắklắk hiện nay ” làm đề tài
tiểu luận triết học của mình.
2
CHƯƠNG 1
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ
VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN ĐĂKLĂK TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Đắklắk
1.1.1. Tính tất yếu của công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
CNH – HĐH là qui luật chung trong quá trình phát triển của các quốc gia dân tộc.

Đặc biệt nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa tất yếu phải tiến hành CNH – HĐH. Nhưng quá trình
CNH – HĐH ở nước ta được tiến hành trên cơ sở một nền nông nghiệp lạc hậu, phổ
biến là sản xuất nhỏ, năng suất thấp. Do đó, CNH – HĐH đất nước phải được bắt đầu
từ CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Xuất phát từ thực tiễn của đất nước, gắn với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội
và đặt trong bối cảnh của thời đại, Đảng ta xác định khái niệm CNH – HĐH nông
nghiệp, nông thôn:
- CNH – HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng sản xuất lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí
hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết
là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản
xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nông sản hàng hoá trên thị trường.
- CNH – HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động vào các ngành công nghiệp và
dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ
chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ,
công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân nông thôn.
Khái niệm trên đây là rõ ràng, đầy đủ nhất về CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn
nước ta hiện nay. Khái niệm phản ánh đầy đủ đặc trưng, bản chất của quá trình CNH –
3
HĐH nông nghiệp, nông thôn, đó là sự gắn kết hữu cơ giữa nông nghiệp, nông dân, nông
thôn trong sự gắn kết giữa CNH – HĐH nông nghiệp với CNH – HĐH nông thôn.
CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn là tất yếu đối với nước ta vì những lý do:
Một là, CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa quyết định trong sự
nghiệp đổi mới và phát triển đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối

với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta trước đây và trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay. Nông nghiệp và kinh tế nông thôn đảm bảo vững chắc an ninh lương
thực quốc gia, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và là thị trường rộng lớn tiêu thụ
sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ; xuất khẩu nông nghiệp đem lại nguồn ngoại tệ
quan trọng cho nền kinh tế; tạo việc làm và thu nhập cho đa số người dân. Nông thôn
là môi trường sinh sống chủ yếu của người dân, nơi giữ gìn và phát huy các truyền
thống văn hoá của dân tộc.
Nông dân chiếm một lực lượng xã hội đông đảo hơn 70% dân số và hơn 76% lực
lượng lao động của xã hội, trực tiếp thực hiện vai trò sản xuất nông nghiệp, là nguồn
nhân lực chủ yếu và quyết định đối với các hoạt động kinh tế ở nông thôn và góp phần
quan trọng vào các hoạt động kinh tế xã hội khác của đất nước.
Địa bàn của nông thôn rộng lớn, với hơn 70% dân số sinh sống nên có tầm quan
trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo nền tảng xã hội và lực lượng
chính trị của chế độ. Thực tế cho thấy sự phát triển và ổn định của khu vực nông
nghiệp, nông dân, nông thôn có tác dụng tạo nền tảng, thúc đẩy nhanh, có hiệu quả và
bền vững toàn bộ những tiến trình đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngược lại, sự trì trệ, lạc hậu ở khu vực này sẽ kìm hãm, thậm chí gây nên những tác
động tiêu cực khôn lường cho cả nền kinh tế, chính trị, xã hội của cả nước.
Như vậy, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến mọi
hoạt động kinh tế - xã hội. Do vậy, nó có ảnh hưởng quyết định đối với sự ổn định và
phát triển đất nước.
Hai là, CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn tạo tiền đề, điều kiện kinh tế - xã
hội cho CNH – HĐH đất nước.
Nông nghiệp, nông thôn không những là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia mà còn là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu, lao động
cho CNH – HĐH đất nước. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn là thị trường rộng
4
lớn tiêu thụ các sản phẩm của CNH – HĐH. Đảng ta khẳng định: “ Sự phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng CNH – HĐH có vai trò cực kỳ quan trọng cả
trước mắt và lâu dài, làm cơ sở ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh CNH –

HĐH đất nước theo hướng chủ nghĩa xã hội ”.
Ba là, CNH – HĐH còn là đòi hỏi cấp bách hiện nay.
Nước ta tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa mà đặc điểm lớn nhất trong thời kì
quá độ là từ một nước nông nghiệp có nền sản xuất nhỏ, thủ công, phân tán. Sản xuất
chủ yếu là hộ gia đình với qui mô và hình thức nhỏ, năng suất thấp. Việc chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp còn chậm, ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn, chăn nuôi, lâm
nghiệp, ngư nghiệp phát triển chậm. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn vẫn
còn yếu kém. Đời sống vật chất và tinh thần của nông dân vẫn còn khó khăn, tình
trạng thiếu việc làm, thu nhập thấp là phổ biến, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao chiếm trên
90% số người nghèo của cả nước.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới thì nông nghiệp, nông thôn nước ta đang
phải đối diện với những thách thức không nhỏ. Thực hiện cam kết của tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là việc mở rộng thị trường nông
sản. Việt Nam sẽ chịu sự cạnh tranh rất lớn ngay cả ở thị trường trong nước.
Chính những khó khăn thách thức đó đã đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách, đòi
hỏi phải đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH đất nước, nhất là nông nghiệp, nông thôn.
1.1.2. Mục tiêu, nội dung và phương hướng của công nghiệp hoá – hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn
CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn gồm những nội dung sau:
Một là, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông
thôn, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, đáp ứng đầy đủ những nhu cầu vật chất
và tinh thần của người dân, phát triển hài hoà giữa các vùng. Nông dân được đào tạo
có trình độ sản xuất ngang bằng với nông dân các nước tiên tiến trong khu vực và đủ
bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
Hai là, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện, theo hướng hiện đại, bền
vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
Ba là, xây dựng nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh
5

công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc
văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống
chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
Bốn là, xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân – nông dân –
trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp
CNH – HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Có thể khái quát nội dung CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trên
những phương diện cơ bản sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường.
Nội dung cơ bản của quá trình này là chuyển nền nông nghiệp còn lạc hậu, phân
tán, mang nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền sản xuất hàng hoá lớn; từng bước
xây dựng nền nông nghiệp toàn diện, hiện đại phù hợp với tiềm năng, lợi thế của từng
vùng, gắn sản xuất với chế biến và thị trường. Xây dựng hoàn thiện phát triển sản xuất
nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường và lợi thế của từng vùng, bảo đảm sử dụng đất
nông nghiệp tiết kiệm, hiệu quả; duy trì diện tích lúa, đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia. Xây dựng nền nông nghiệp gắn với phát triển công nghiệp chế biến và công
nghiệp phục vụ nông nghiệp.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá,
đưa thiết bị, kỹ thuật hiện đại, áp dụng khoa học công nghệ vào các khâu của quá trình
sản xuất nông nghiệp. Từng bước thay thế lao động thủ công và những tập quán canh
tác lạc hậu bằng công cụ và phương thức canh tác tiên tiến, hiện đại để sử dụng có
hiệu quả đất đai, tài nguyên, lao động nhằm nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh của nông sản trên thị trường.
Thứ hai, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh
tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động vào các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần
tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Nội dung cơ bản của quá trình này là đẩy mạnh các hoạt động kinh tế phi nông
nghiệp, bao gồm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nông thôn, cùng
các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật vào nông thôn ngày càng lớn, nhằm chuyển dịch và

chuyển biến nền kinh tế từ thuần nông sang cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp
và dịch vụ. Đẩy mạnh và phát triển nhanh các ngành nghề ở nông thôn, khuyến khích
6
các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản; phát triển các
làng nghề truyền thống và sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn nông thôn. Phát
triển nhanh và nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ phục vụ cho sản xuất và đời
sống của người nông dân. Trên cơ sở đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động vào các ngành công nghiệp và
dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế
nông thôn.
Thứ ba, xây dựng nông thôn mới dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn.
Đây vừa là nội dung, vừa là mục tiêu mà CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn
hướng đến. Từ một nước nông nghiệp tiến hành CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn
thì vấn đề không thể thiếu là xây dựng nông thôn mới với kết cấu hạ tầng kinh tế xã
hội đồng bộ gắn với phát triển đô thị; bảo vệ môi trường sinh thái, xây dựng đời sống
vật chất và văn hoá tinh thần phong phú, lành mạnh, giàu bản sắc truyền thống. Hệ
thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường, dân chủ ở nông thôn được
phát huy, trình độ dân trí được nâng cao, các tệ nạn xã hội được đẩy lùi; xã hội nông
thôn được ổn định, an ninh chính trị và an toàn trật tự xã hội được đảm bảo giữ vững.
Như vậy, CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn thực chất là quá trình phát triển
nông thôn theo hướng CNH – HĐH, tạo ra sự chuyển biến về chất trên mọi lĩnh vực
của đời sống nông thôn; tạo ra nông thôn mới dân chủ, công bằng, văn minh, với cơ sở
hạ tầng kinh tế hiện đại, môi trường trong lành, xã hội ổn định, có cuộc sống vật chất
và tinh thần ngày càng cao cho cư dân nông thôn.
Để hiện thực hoá các mục tiêu và nội dung trên cần thực hiện những phương
hướng sau:
- Xây dựng nền nông nghiệp nông thôn theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển
nhanh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với việc phát triển các

đô thị.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong các ngành kinh tế
nông thôn.
- Xây dựng nông thôn mới dân chủ, công bằng, văn minh.
7
- Bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững ở nông thôn trên cơ sở kết hợp hợp lý
giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường phù hợp với điều
kiện từng vùng
1.2. Vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở Đắklắk
Cùng với những đặc điểm chung của giai cấp nông dân Việt Nam, nông dân
Đắklắk còn có những đặc điểm riêng biểu hiện ở những nét cơ bản sau:
Một là, nông dân Đắklắk là lực lượng xã hội đông đảo, chiếm đại bộ phận trong
dân cư và trong lực lượng lao động.
Đắklắk là tỉnh có dân số nông thôn lớn nhất trong khu vực. Tính đến năm 2012,
nông dân Đắklắk là 1.352.343 người chiếm 77,84% trong dân cư (so với mức trung
bình của khu vực là 72%), do vậy, nông dân là lực lượng sản xuất cơ bản của kinh tế
nông nghiệp và nông thôn.
Hai là, nông dân Đắklắk có cơ cấu dân cư đa dạng.
Đắklắk là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc cùng sinh sống, cộng đồng dân cư
ĐắkLắk gồm 44 dân tộc anh em, trong đó người Kinh chiếm trên 70%; các dân tộc
thiểu số như Ê Đê, M'nông, Thái, Tày, Nùng, chiếm gần 30% dân số toàn tỉnh.
Ngoài ra, tình hình dân di cư đến Đắklắk cũng diễn ra hết sức phức tạp, phần lớn là ở
các tỉnh phía Bắc, khi đến Đắklắk họ thường co cụm lại theo từng nhóm, phá rừng làm
nương rẫy, làm đất sản xuất gây huỷ hoại môi trường sinh thái, phá vỡ quy hoạch
chung của địa phương gây khó khăn trong công tác quản lý, xây dựng cơ sở hạ tầng,
ổn định và nâng cao thu nhập của người dân.
Ba là, chất lượng nông dân Đắklắk vẫn còn thấp, nhất là trình độ sản xuất.
Hầu hết nông dân Đắklắk đều chưa qua đào tạo nghề, theo báo cáo của Tỉnh uỷ
Đắklắk năm 2011 chỉ có 33,5% lao động trong tổng số lao động được đào tạo. Sản xuất

nông nghiệp của người dân Đắklắk chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và phụ thuộc nhiều
vào tự nhiên, phổ biến là sản xuất nhỏ, hộ gia đình là chủ yếu, nhiều vùng đặc biệt là
vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn mang nặng dấu ấn tự cung tự cấp, trong sản xuất lấy
năng suất làm trọng mà ít quan tâm tới chất lượng, hiệu quả của hàng nông sản.
Bốn là, nông dân Đắklắk có tính tự lực cao.
Tính tự lực cao của nông dân Đắklắk được hình thành trong lịch sử, được rèn
luyện và trở thành truyền thống quý báu của cộng đồng các dân tộc Đắklắk qua công
8
cuộc kháng chiến kiến quốc của cả dân tộc. Tính tự lực đó biểu hiện bằng ý chí, khát
vọng xoá bỏ đói nghèo, lạc hậu và vươn lên làm giàu bằng chính lao động của mình. Ý
chí, khát vọng đó thôi thúc người nông dân Đắklắk huy động mọi tiềm năng về lao
động, tiền vốn, đất đai và kinh nghiệm, trí tuệ vào việc phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn và xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Trong tiến trình phát triển của tỉnh Đắklắk, nông dân có vai trò quan trọng. Điều
này thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, nông dân Đắklắk là nguồn nhân lực chủ yếu và quyết định trực tiếp
trong xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá.
Nông dân Đắklắk đã phá vỡ thế độc canh trong sản xuất nông nghiệp hàng chục
năm trước đây. Đến nay đã hình thành nền sản xuất toàn diện với sự phát triển của
nông, lâm, ngư nghiệp nên đã tạo ra nguồn nông sản đa dạng có giá trị kinh tế cao.
Kết quả này khẳng định vai trò to lớn của nông dân Đắklắk trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, hình thành nên nền nông nghiệp toàn diện theo hướng sản
xuất hàng hoá. Nguồn nông sản của nông dân không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu trong tỉnh
mà còn là nguồn nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Như vậy, trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn nông dân Đắklắk
không chỉ đóng vai trò là nguồn nhân lực chủ yếu và trực tiếp quyết định trong phát
triển nền kinh tế nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá mà còn cung
cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Thứ hai, nông dân Đắklắk là nguồn nhân lực cơ bản trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng CNH – HĐH.

Cùng với phát triển nền nông nghiệp toàn diện thì phát triển công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn cũng là nội dung cơ bản của quá trình CNH –
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Đắklắk. Đây là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng nâng dần tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, giảm
dần tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế lao động ở
nông thôn. Trong quá trình đó, cùng với các lực lượng xã hội khác, nông dân Đắklắk
chiếm vai trò là nguồn nhân lực cơ bản nhất, với đa số trong dân cư và trong lực lượng
lao động, nông dân là lực lượng sản xuất cơ bản, tại chỗ, đáp ứng tốt nhất cho phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Phát triển
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp không chỉ góp phần giải quyết việc làm, nâng cao
9
thu nhập cho người nông dân mà còn góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng CNH – HĐH.
Thứ ba, nông dân Đắklắk là lực lượng giữ vai trò trực tiếp, quyết định trong xây
dựng nông thôn mới.
Xây dựng nông thôn mới là nội dung cơ bản đồng thời cũng là mục tiêu của quá
trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Đắklắk. Trong quá trình
đó, với tư cách là trung tâm trong đời sống xã hội ở nông thôn, nông dân Đắklắk có vai
trò to lớn, là lực lượng trực tiếp quyết định trong xây dựng nông thôn mới. Nông dân
đã thể hiện vai trò của mình trong việc đóng góp xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội, với phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm” để xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn, cùng với sự quan tâm đầu tư của nhà nước cho
các công trình điện, đường, trường, trạm, thuỷ lợi và một số công trình trọng điểm
khác. Nông dân Đắklắk còn là lực lượng chủ lực, giữ vai trò quyết định trong xây
dựng đời sống văn hoá trên địa bàn nông thôn.
Đắklắk là nơi hội tụ 44 dân tộc anh em cùng sinh sống với những bản sắc văn hoá
truyền thống khác nhau. Nông dân Đắklắk không chỉ là lực lượng sáng tạo mà còn lực
lượng lưu giữ và truyền bá các giá trị văn hoá truyền thống cho các thế hệ mai sau. Vai
trò này biểu hiện qua phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư”.

Thứ tư, nông dân Đắklắk còn là chỗ dựa vững chắc của hệ thống chính trị nông
thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Phát huy truyền thống yêu nước của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, trong thời kì CNH – HĐH nông dân Đắklắk vẫn là chỗ dựa vững chắc
cho hệ thống chính trị nông thôn, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ. Tham gia xây
dựng hệ thống chính trị, đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực trong xã hội như
tham nhũng, mất đoàn kết trong nhân dân, chống diễn biến hoà bình trên địa bàn nông
thôn.
Tóm lại, từ những phân tích ở trên, ta thấy rằng sự nghiệp CNH – HĐH nông
nghiệp, nông thôn nói riêng và sự ổn định, phát triển về mọi mặt của tỉnh Đắklắk nói
chung lệ thuộc vào việc khai thác, phát huy vai trò, tiềm năng của người nông dân.
10
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở ĐĂKLĂK
2.1. Những thành tựu và nguyên nhân trong việc phát huy vai trò của nông
dân Đắklắk trong sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn từ năm 2000 đến nay
2.1.1. Những thành tựu
Phát triển nông nghiệp toàn diện, đồng thời phát triển công nghiệp, dịch vụ và
xây dựng nông thôn mới là nội dung cơ bản của quá trình CNH – HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở Đắklắk. Trong quá trình đó, với tư cách là lực lượng sản xuất cơ bản, lực
lượng chính trị - xã hội đông đảo, nông dân Đắklắk khẳng định vai trò quyết định của
mình trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn Đắklắk. Vai trò này biểu
hiện trong nỗ lực phấn đấu của người dân trong sản xuất nông nghiệp và trong xây
dựng nông thôn mới.
Thứ nhất, nông dân Đắklắk đã phát huy tính tích cực trong phát triển nền nông
nghiệp có cơ cấu toàn diện, gắn với sản xuất hàng hoá.
- Là một tỉnh miền núi với tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, đặc biệt là
tài nguyên đất nên không chỉ thuận lợi cho việc trồng các loại cây lương thực, cây

công nghiệp như càfê, cacao, cao su… mà còn thuận lợi cho phát triển chăn nuôi gia
súc như lợn, bò, dê… theo hướng sản xuất hàng hoá.
Nhờ vậy, nông dân Đắklắk đã tạo ra được nền nông nghiệp toàn diện theo hướng
sản xuất hàng hoá lớn, giá trị sản phẩm ngày càng tăng. Năm 2010 chiếm 5279 tỷ
đồng, đến năm 2012 chiếm 8293 tỷ đồng trong tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn. Đến
năm 2012 thì tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp đã chiếm tới 22.658 tỷ đồng, trong đó,
nông nghiệp chiếm 21.085 tỷ đồng, lâm nghiệp chiếm 346 tỷ đồng, ngư nghiệp chiếm
227 tỷ đồng. Nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tỷ trọng tổng sản phẩm trên địa bàn ngày
càng giảm, năm 2010 chiếm 59,63%, năm 2011 chiếm 57,2%, năm 2012 chiếm 53,6%.
Cơ cấu kinh tế trên địa bàn đang chuyển dịch theo hướng tích cực là tăng nhanh sản
xuất công nghiệp và dịch vụ và giảm dần tỷ trọng sản xuất nông nghiệp nhưng số
lượng hàng nông nghiệp sản xuất ra vẫn tăng.
11
Ngoài trồng cây lương thực và cây lâu năm thì nông dân Đắklắk còn phát triển
nền sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, là việc nông dân đã mở
nhiều trang trại chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm như là lợn, bò, dê, gà… hiện nay
tỉnh đã có trên 200 trang trại chăn nuôi trâu, bò và hàng trăm trang trại chăn nuôi các
loại gia súc có giá trị kinh tế khác như trang trại nuôi nhím, heo rừng, ba ba, nai, kì đà,
rùa, chồn hương… Sản lượng của ngành chăn nuôi không ngừng tăng lên. Năm 2010,
đàn trâu, bò là 108.200 con, đến năm 2012 là 183.600 con; đàn gà từ 3.090.800 con
năm 2010, đến năm 2012 tăng lên 4.481.500 con; năm 2010 đàn lợn là 428.500 con,
năm 2012 là 643.600 con, năm 2012 đàn bò tăng 37%, đàn lợn tăng 7%, đàn gia cầm
tăng 12,1% so với các năm trước.
- Thực hiện chủ trương CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn nông dân Đắklắk
đã áp dụng nhiều thành tựu của khoa học – công nghệ vào sản xuất nông nghiệp làm
tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp.
Đắklắk là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số cùng sinh sống với tập quán du
canh, du cư, đốt rừng làm nương rẫy, với phương thức sản xuất thô sơ, lạc hậu. Được
sự quan tâm của Đảng, nhà nước và các cơ quan ban ngành của tỉnh những năm qua
việc chuyển đổi phương thức sản xuất mới, thực hiện định canh định cư cho các đồng

bào dân tộc thiểu số đã được đẩy mạnh. Nhờ vậy, một bộ phận nông dân, trong đó có
cả một bộ phận dân tộc thiểu số đã mạnh dạn chuyển đổi tập quán canh tác cũ, năng
suất thấp sang áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp
như trồng thâm canh, trồng xen canh các loại cây trồng, áp dụng kỹ thuật nuôi trồng có
năng suất, chất lượng cao làm cho năng suất nông nghiệp tăng. Năm 2012 sản lượng
lương thực có hạt ước đạt 989.900 tấn, vượt 3.800 tấn so với kế hoạch; diện tích cây
lâu năm tiếp tục tăng, nhất là cafê và cao su. Tổng diện tích cafê niên vụ 2012 – 2013
là 182.434 ha, sản lượng khai thác đạt 380.000 tấn, cây cao su là 24.861 ha, sản lượng
khai thác ước đạt 28.163 tấn mủ quy khô; cây điều 41.535 ha, sản lượng 14.023 tấn;
cây cacao 933 ha, sản lượng 1.609 tấn quả tươi; cây hồ tiêu 4.703 ha, sản lượng 12.198
tấn. Chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục phát triển ổn định; duy
trì được đàn trâu, bò, lợn và đàn gia cầm, tăng diện tích nuôi trồng thuỷ sản có hiệu
quả, tổng đàn trâu có 31.300 con, đàn bò 213.000 con, đàn lợn 625.000 con, đàn gia
cầm 6.000.000 con, đàn ong mật 170.000 đàn. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt 7.000
ha, sản lượng 8.200 tấn, sản lượng cá bột đạt 720 triệu con…
12
- Nông dân Đắklắk tạo ra nguồn nông sản, nguyên liệu đáp ứng cho yêu cầu sản
xuất công nghiệp và xuất khẩu.
Công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp chiếm 60% cơ cấu công nghiệp
của tỉnh, đặc biệt là cây cafê không những đáp ứng cho nhu cầu ở trong nước mà còn
xuất khẩu ra nước ngoài. Vì vậy, để đáp ứng cho nhu cầu trên đòi hỏi phải phát huy tính
tích cực và vai trò của nông dân Đắklắk trong sự nghiệp CNH – HĐH nông nghiệp,
nông thôn. Trong những năm qua, diện tích và sản lượng cafê ở Đắklắk không ngừng
tăng lên về chất và lượng. Từ khi vào Việt Nam năm 1857 đến sau năm 1930 có khoảng
5.900 ha, năm 1957 có 20.000 ha, năm 1975 Đắklắk có trên 37.000 ha, năm 1990 có
trên 76.000 ha, hiện nay là 178.196 ha (2012). Trong đó có 172.047 ha cafê kinh doanh,
sản lượng hàng năm đạt 430.000 tấn. Niên vụ 2011 – 2012 toàn tỉnh Đắklắk có 5.035 ha
hồ tiêu, sản lượng năm 2010 ước đạt 11.881 tấn (bằng 98% vụ trước); có 25.124 ha cao
su, sản lượng 28.038 tấn (tăng 397 tấn so với năm trước); 36.421 ha điều, sản lượng đạt
24.106 tấn; 940 ha cacao, sản lượng đạt 1.609 tấn quả tươi. Đây là nguồn nguyên liệu vô

cùng quan trọng cho sản xuất công nghiệp và xuất khẩu.
Với lợi thế về đồng cỏ tự nhiên, diện tích thảm cỏ dưới tán rừng thưa là nguồn
thức ăn dồi dào phục vụ cho phát triển chăn nuôi đại gia súc. Mặt khác với diện tích
đất nông nghiệp khá lớn, đất đai phì nhiêu màu mỡ, hàng năm sản xuất các loại nông
sản với khối lượng lớn đáp ứng yêu cầu nguyên liệu phục vụ cho chế biến thức ăn gia
súc, gia cầm và chăn nuôi thủy sản. Những năm gần đây, chăn nuôi đã có bước phát
triển đáng kể, tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp tăng dần và luôn duy trì
mức độ tăng trưởng từ 5-7%. Việc tổ chức sản xuất đang có sự chuyển biến tích cực từ
chăn nuôi nhỏ lẻ, kinh tế hộ với quy mô nhỏ sang chăn nuôi với quy mô lớn, chăn nuôi
tập trung, kinh tế trang trại chăn nuôi phát triển mạnh, đã góp phần tạo ra sự chuyển
dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp. Mô hình kinh tế chăn nuôi trang trại đã tỏ
rõ ưu thế về quy mô, vốn đầu tư cũng như hiệu quả kinh tế. Cơ cấu giống đàn gia súc,
gia cầm có sự chuyển biến từ giống truyền thống năng suất thấp sang giống mới, giống
lai cho năng suất và chất lượng. Một số doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp đã đầu
tư vào chăn nuôi bò thịt, bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế khá. Kinh tế trang trại
của tỉnh hiện có 1.719 trang trại, trong đó, trang trại trồng trọt là 1.091, trang trại chăn
nuôi là 205, trang trại lâm nghiệp là 233, trang trại thuỷ sản 25, và 165 trang trại tổng
13
hợp. Nhiều trang trại đã tổ chức sản xuất có hiệu quả, giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn, tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Thứ hai, nông dân Đắklắk nêu cao tinh thần trách nhiệm trong xây dựng nông
thôn mới.
Với phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” nông dân Đắklắk đã nêu
cao tinh thần trách nhiệm trong việc đóng góp kinh phí, lao động của mình trong việc
phát triển, hiện đại hoá kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn. Theo số liệu
của Hội nông dân tỉnh từ năm 2008 – 2010, Hội nông dân đã vận động hội viên, nông
dân tham gia đóng góp 14,4 tỷ đồng, 43.900 ngày công lao động để nâng cấp, làm mới
520 km đường giao thông nông thôn, mở mới, tu bổ và kiên cố hoá 192 km kênh
mương, thuỷ lợi, làm mới và sửa chữa 124 cây cầu và hàng ngàn phòng học… Chính
vì vậy, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước được xây dựng tương đối hoàn chỉnh

đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn nông thôn.
Hưởng ứng cuộc vận động “toàn dân xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”
nông dân Đắklắk đã nêu cao tinh thần trách nhiệm trong xây dựng đời sống văn hoá ở
khu vực nông thôn. Năm 2012 có 72.4% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá, 100%
buôn, thôn có hội trường, điểm sinh hoạt văn hoá. Điều này đã góp phần nâng cao đời
sống văn hoá tinh thần cho cư dân nông thôn, đồng thời, tạo động lực cho quá trình
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn.
Ngoài ra, nông dân Đắklắk còn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở trên địa bàn nông thôn. Nông dân tự giác và ý thức cao trong việc
xây dựng Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội cũng như giám sát việc
thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn nông thôn.
Như vậy, với sự chủ động, tích cực và tinh thần trách nhiệm cao nông dân Đắklắk
đã khẳng định được vai trò to lớn vào quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn
ở Đắklắk. Thúc đẩy nền nông nghiệp toàn diện, xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng ở nông
thôn, hệ thống chính trị - xã hội được tăng cường, đời sống vật chất và tinh thần của
nông dân từng bước được cải thiện.
2.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu
Một là, Được sự tập trung chỉ đạo và quản lý của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh
cùng sự phối hợp của các cơ quan ban, ngành bằng những cơ chế, chính sách cụ thể đã
tạo ra động lực mới đối với nông dân Đắklắk cả về kinh tế và chính trị, kích thích, thúc
14
đẩy họ, không chỉ trong lao động sản xuất, xoá đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu mà
còn củng cố, tăng cường lòng tin của nông dân đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ
nghĩa. Chính vì vậy, đã tạo ra động lực mới thúc đẩy nông dân Đắklắk tích cực, chủ
động và phát huy tinh thần, trách nhiệm trong CNH – HĐH.
Nhiều chính sách, cơ chế và kế hoạch đầu tư, hỗ trợ cho nông nghiệp, nông dân,
nông thôn trong tỉnh được ban hành và triển khai thực hiện, tiêu biểu như:
- Chương trình thực hiện nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn.
- Chỉ đạo thực hiện Chương trình 134: đã hoàn thành các nội dung về giải quyết

đất ở, làm nhà ở và nước sinh hoạt cho các hộ nông dân.
- Nghị quyết của Ban thường vụ Tỉnh ủy về phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh
đến năm 2015.
- Hỗ trợ từ ngân sách Tỉnh thông qua các Trung tâm khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ mới, xây dựng mô hình chuyển
đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đào tạo, bồi dưỡng và hướng dẫn nông dân trong sản
xuất. Sử dụng nguồn vốn Trung ương và địa phương tổ chức bồi dưỡng, tập huấn, đào
tạo, xây dựng mô hình, phổ biến, chuyển giao các thành tựu khoa học – công nghệ
phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Hai là, sự động viên, hỗ trợ kịp thời của Hội nông dân các cấp ở tỉnh Đắklắk.
Với tư cách là người đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nông dân
Đắklắk, Hội nông dân đã tích cực phối hợp với các cấp uỷ Đảng, chính quyền tổ chức
phong trào thi đua yêu nước, đặc biệt là phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh
doanh giỏi, đoàn kết, giúp nhau xoá đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu chính đáng.
Bằng những việc làm cụ thể, thiết thực như:
- Cụ thể, Hội nông dân đã vận động được 344.533 lượt hộ gia đình nông dân đăng kí
sản xuất kinh doanh giỏi và đã có 149.831 lượt hộ đạt danh hiệu nông dân sản xuất kinh
doanh giỏi ba cấp. Phối hợp tập huấn kĩ thuật cho 194.707 lượt hội viên, nông dân tín
chấp với ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn giúp hàng chục hộ nông dân vay
vốn với số tiền trên 250 tỷ đồng.
- Hội đã đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân trong
toàn tỉnh tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ để nâng cao hiệu quả trong
15
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ góp phần thực hiện CNH – HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
- Chương trình phối hợp hoạt động hỗ trợ nông dân phát triển kinh tế nông
nghiệp và xây dựng nông thôn mới giữa Sở Nông nghiệp & phát triển nông thôn và
Hội nông dân Việt Nam tỉnh Đắklắk.
- Hội nông dân đã chủ động phối hợp, kết hợp với các ngành chức năng tổ chức
mở trên 6.000 lớp tập huấn, chuyển giao các tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho 316.621

lượt Hội viên, nông dân, xây dựng 900 mô hình trình diễn các loại, tổ chức thăm quan
học tập trong và ngoài tỉnh, thành lập và duy trì có hiệu quả 150 câu lạc bộ khuyến
nông, 143 câu lạc bộ gia đình nông dân văn hoá… Năm 2012, tỉnh Hội đã tiến hành
thành lập Trung tâm dạy nghề và hỗ trợ việc làm nông dân thuộc Hội nông dân tỉnh.
Tuy mới hoạt động nhưng Trung tâm dạy nghề và hỗ trợ việc làm đã phối kết hợp với
Sở Lao động - thương binh và xã hội, Trường Cao đẳng Nghề thanh niên dân tộc,
Trung tâm dạy nghề các Huyện, thành phố tổ chức được 98 lớp dạy nghề ngắn hạn về
chăn nuôi thú y, trồng trọt và bảo vệ thực vật, may dân dụng, điện, sửa chữa máy nông
nghiệp cho 3.404 nông dân. Triển khai 7 dự án vay vốn quĩ Quốc gia hỗ trợ việc làm
cho 115 hộ hội viên nông dân vay 900 triệu đồng để đầu tư sản xuất, giải quyết cho
một số lao động có việc làm hiệu quả; Tín chấp với ngân hàng đầu tư và phát triển
nông thôn và uỷ thác vay vốn với Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh cho 64.964 lượt
hộ hội viên, nông dân khó khăn, hộ nghèo vay 304,11 tỷ đồng. Tín chấp với các doanh
nghiệp mua 210 tấn ngô giống và 30.000 tấn phân bón các loại theo hình thức trả
chậm, trị giá trên 56 tỷ đồng. Vận động xây dựng Quỹ hỗ trợ nông dân được 2.322 tỷ
đồng, triển khai thực hiện các dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn do Trung
ương Hội nông dân Việt Nam và địa phương đầu tư với số vốn trên 800 triệu đồng ở
vùng đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, các cấp Hội còn vận động hội viên nông dân
giúp nhau xoá 242 nhà tạm cho hội viên nông dân nghèo, trị giá 2,5 tỷ đồng, trong đó
hội viên nông dân đóng góp ủng hộ 600 triệu đồng và hàng nghìn công lao động; giúp
nhau 42.299 cây, con, giống, 11.000 công lao động, 5.057 tỷ đồng, 700 tấn phân bón
các loại… Với phong trào này, hội đã trực tiếp tham gia giúp 13.590 hộ hội viên, nông
dân thoát nghèo và có nhiều hộ vươn lên có cuộc sống khá giả.
Tất cả những hoạt động đó là sự động viên, hỗ trợ kịp thời, thiết thực của chính
quyền các cấp, xứng đáng làm nòng cốt tổ chức các phong trào phát triển kinh tế - xã
16
hội, xây dựng nông thôn mới, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nông dân
Đắklắk trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Ba là, tính tự lực vươn lên của chính bản thân người nông dân Đắklắk.
Tính tự lực cao là một trong những truyền thống của nông dân Đắklắk. Truyền thống

đó càng được phát huy cao độ trong điều kiện tiềm năng nông nghiệp đa dạng cùng với
những động lực mới được tạo ra từ chính quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Tính tự lực đó biểu hiện bằng ý chí, khát vọng xoá bỏ đói nghèo, lạc hậu và vươn lên làm
giàu bằng chính lao động của mình. Minh chứng cho điều này chính là kết quả xoá đói,
giảm nghèo vươn lên làm giàu của người nông dân tỉnh Đắklắk. Theo Báo cáo chuyên đề
về thực hiện Chương trình mục tiêu giảm nghèo từ năm 2011 – 2015 của Tỉnh ủy Đắklắk,
toàn tỉnh đã giảm được 90.247 hộ nghèo năm 2010 xuống còn 39.500 hộ nghèo năm
2012, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 27.55% năm 2010 xuống còn dưới 10% cuối năm 2012,
bình quân mỗi năm giảm 10.149 hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm từ
48,26% năm 2011 xuống còn 21% năm 2012 so với tổng số hộ dân tộc thiểu số.
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong việc phát huy vai trò của nông
dân Đắklắk trong sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn từ năm 2000 đến nay
2.2.1. Những hạn chế
Một là, đời sống vật chất và tinh thần của nông dân Đắklắk vẫn còn gặp nhiều
khó khăn, thiếu thốn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Với tình trạng thu nhập thấp, thiếu việc làm là phổ biến nên đời sống vật chất và
tinh thần của nông dân Đắklắk vẫn còn gặp nhiều khó khăn thiếu thốn. Cuối năm 2012
vẫn còn 124 thôn, buôn thuộc 40 xã ở 11 huyện có tỷ lệ hộ nghèo từ 80% trở lên.
Trong đó, có 9 thôn, buôn đang có 100% hộ nghèo, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo tăng
từ 52.35% đầu 2010 lên 60.34% cuối năm 2012. Tình trạng thiếu đói cục bộ vẫn xảy ra
ở một số nơi vào mùa giáp hạt như huyện Ea Súp, Lắk, M’Đrắk…
Chính đời sống vật chất của nông dân còn nhiều còn nhiều khó khăn nên việc tiếp
cận các dịch vụ giáo dục, chăm sóc sức khoẻ cơ bản, các dịch vụ vui chơi, giải trí…
của người nông dân Đắklắk còn nhiều hạn chế.
Hai là, trình độ kỹ thuật và khả năng tiếp cận thị trường của nông dân Đắklắk vẫn
còn thấp.
17
Theo đánh giá của Hội Nông dân tỉnh, trong thực tế, quy mô sản xuất, ứng dụng

công nghệ trong nông nghiệp còn nhiều hạn chế, chất lượng và khả năng cạnh tranh
của sản phẩm chưa cao. Nông dân cũng hạn chế về khả năng tiếp cận thị trường,
không biết, hoặc không thể tăng thu nhập của mình được nhờ chuỗi giá trị hàng hóa.
Ngay cả khi làm được, không phải lúc nào họ cũng có phương tiện để đáp ứng các yêu
cầu an toàn thực phẩm theo quy định. Từ đó nảy sinh một loạt vấn đề: tổ chức nào ban
hành, giám sát, chứng nhận quy chuẩn này, chi phí bao nhiêu; nông dân tiếp cận bằng
cách nào; cơ sở hạ tầng cho các công đoạn đã đồng bộ chưa, khắc phục ra sao… Cũng
vì còn nhiều vướng mắc chưa thể tháo gỡ nên tình trạng sản phẩm làm ra không có
nhãn mác, không bảo quản được lâu ngày và phải bán qua khâu trung gian vẫn phổ
biến, nông dân vẫn phải chịu thiệt thòi.
Ba là, nông dân Đắklắk vẫn còn chưa yên tâm trong sản xuất nông nghiệp.
Do những biến đổi về thời tiết, khí hậu và dịch bệnh liên tục xảy ra ở nhiều nơi
trong tỉnh gây thiệt hại về kinh tế đối với người nông dân. Riêng năm 2013 do ảnh
hưởng của bão, sản xuất vụ Đông – Xuân năm 2012 - 2013 thiệt hại về nông nghiệp
trên 300 tỷ đồng, tiếp đó hạn hán làm cho 1.200 ha cây trồng khô hạn, thiệt hại khoảng
200 tỷ đồng. Bên cạnh đó, tình hình lạm phát, giá vật tư nông nghiệp tăng, giá sản
phẩm nông nghiệp trên thị trường thường xuyên biến động bất lợi cho người sản xuất.
Tất cả những điều đó làm ảnh hưởng tới tốc độ, hiệu quả và động lực vươn lên
của nông dân Đắklắk trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn.
2.2.2. Nguyên nhân
Những tồn tại, hạn chế trên đây ngoài những nguyên nhân khách quan như sự yếu
kém của cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; di dân tự do; thiên tai, dịch bệnh với cây trồng
vật nuôi; giá cả các mặt hàng phục vụ nông nghiệp tăng, giá thành các sản phẩm nông
nghiệp lại thường xuyên biến đổi do những biến động của kinh tế thị trường, cùng
những tác động tiêu cực từ việc hội nhập kinh tế quốc tế thì còn có những nguyên
nhân chủ quan cơ bản sau:
Thứ nhất, nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị -
xã hội về vị trí, vai trò của nông dân còn nhiều hạn chế.
Nhìn lại quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Đắklắk
thì vấn đề nông nghiệp, nông thôn nói chung và vấn đề nông dân nói riêng chưa được

sự quan tâm đúng mức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã
18
hội trong hệ thống chính trị. Nguyên nhân của tình trạng này là do sự hạn chế trong
nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, và các đoàn thể chính trị, xã hội về vị trí,
vai trò của nông dân trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn dẫn tới chưa
nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của nông dân trong quá trình phát triển kinh
tế nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới ở Đắklắk.
Hai là, các cơ chế, chính sách của Tỉnh để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và
nông thôn chưa đủ mạnh để tạo ra động lực mạnh thúc đẩy nông dân gắn bó với sản
xuất nông nghiệp nhằm phát huy nội lực và thu hút các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài.
Việc phát huy vai trò của nông dân Đắklắk trong quá trình CNH – HĐH nông
nghiệp, nông thôn phụ thuộc nhiều vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
trực tiếp là sự cụ thể hoá của Đảng bộ và chính quyền địa phương bằng hệ thống cơ
chế, chính sách trên lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nếu hệ thống các cơ
chế, chính sách phù hợp, đáp ứng được nguyện vọng, nhu cầu của nông dân sẽ có tác
dụng kích thích, thúc đẩy nông dân đầu tư mọi nguồn lực, trí tuệ vào việc phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Ngược lại, sẽ kìm hãm,
hạn chế tính tích cực, chủ động và tính tự giác của họ, làm suy giảm vai trò của họ
trong quá trình xây dựng CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Từ quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Đắklắk trong
thời gian qua cho thấy, hệ thống cơ chế, chính sách đối với nông nghiệp, nông dân,
nông thôn bộc lộ nhiều bất cập, chưa tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy nông dân và phát
triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa tạo điều kiện để nông dân tiếp cận
với những tiến bộ khoa học – công nghệ nhằm phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu
lao động, tăng tỷ trọng thương mại, dịch vụ, phát triển ngành nghề.
Chính sách hỗ trợ giảm nghèo và đào tạo nguồn nhân lực khu vực nông thôn
chưa mang lại hiệu quả. Mặc dù đã được đầu tư, triển khai thực hiện trên diện rộng
nhưng về cơ bản, chính sách hỗ trợ giảm nghèo thiếu tính bền vững và khả năng tái
nghèo còn cao, nhất là các hộ gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số. Theo báo cáo của

Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắklắk, nhiều chính sách, dự án hỗ trợ người nghèo đạt kết quả
rất thấp như: chính sách tín dụng ưu đãi cho người nghèo còn thấp là 9,6 triệu đồng
(2012) trong khi đó giá các vật tư phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và cho nhu cầu
tiêu dùng của người nông dân lại cao; chính sách hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở, nước sinh
19
hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số đạt kết quả thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao và công cuộc
xoá đói giảm nghèo thiếu sự bền vững
Chính sách đào tạo, nâng cao chất lượng lao động nông thôn còn chưa theo kịp
yêu cầu phát triển của CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn. Mặc dù, các cơ sở đào
tạo nghề đã được đầu tư xây dựng trên khắp các huyện, thành phố, nhưng tỷ lệ lao
động nông nghiệp qua đào tạo còn thấp đặc biệt lao động là người dân tộc thiểu số. Tỷ
lệ lao động được đào tạo là 20.5% năm 2011, đến năm 2012 là 29%, nhìn chung lao
động nông nghiệp hầu hết là lao động phổ thông, dựa vào kinh nghiệm là chính. Điều
này làm hạn chế lớn đến việc phát huy vai trò của nông dân trong quá trình CNH –
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Đắklắk.
Công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn được ưu tiên phát triển song chưa đạt kế hoạch
đề ra, công tác quy hoạch còn nhiều hạn chế, nhiều cơ sở thuỷ lợi xuống cấp, hiệu quả
sử dụng thấp, ảnh hưởng lớn đến sản xuất, gây thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng lớn đến
đời sống của người nông dân.
Trong xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông thôn,
tỉnh Đắklắk quy định mức hỗ trợ của Nhà nước đối với các huyện, thôn, buôn là 70%
giá thành xây dựng, còn 30% là do dân vùng hưởng lợi đóng góp. Với mức hỗ trợ này,
trong điều kiện giá thành xây dựng cao trong khi thu nhập của nông dân Đắklắk hầu hết
là rất thấp thì mức đóng góp đó càng làm cho thu nhập người nông dân thấp hơn. Ngoài
các khoản đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của xã, nông dân Đắklắk
còn đóng góp các quỹ theo qui định của Nhà nước như nghĩa vụ lao động công ích, quỹ
phòng chống thiên tai bão lụt, quỹ bảo trợ trẻ em, quỹ an ninh quốc phòng, quỹ đền ơn
đáp nghĩa… Điều này làm cho đời sống của người nông dân thêm khó khăn, khả năng
tích luỹ để đầu tư phát triển sản xuất cũng bị suy giảm, góp phần vào làm giảm vai trò
của nông dân trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Đắklắk.

Mặc dù đã có nhiều cơ chế, chính sách có tác dụng thúc đẩy sự phát triển nhưng
nhìn chung chưa mang tính đòn bẩy tạo ra sự phát triển đối với nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Chính vì vậy, tiềm năng của nông dân nói riêng và của nông nghiệp, nông
thôn nói chung là khá dồi dào nhưng chưa được khai thác, phát huy hiệu quả vào quá
trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Đắklắk.
20
Thứ ba, chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn
chưa đáp ứng yêu cầu phát huy vai trò của nông dân trong quá trình CNH – HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
Một trong những nguyên nhân cơ bản làm hạn chế nhiều đến việc phát huy vai
trò của nông dân tỉnh Đắklắk trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn
trong thời gian qua là bắt nguồn từ những hạn chế trong hoạt động của hệ thống chính
trị ở cơ sở trên địa bàn nông thôn. Đó là sự thiếu tập trung trong công tác lãnh đạo của
Đảng uỷ cơ sở, sự yếu kém trong quản lý điều hành của chính quyền và thiếu sự hỗ trợ
tích cực, có hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là hội nông dân ở cơ sở.
Công tác chính trị tư tưởng còn thiếu nhạy bén trong đấu tranh chống “diễn biến
hoà bình”, đấu tranh phản bác các quan điểm cơ hội, cực đoan, chưa chủ động phối
hợp giải quyết kịp thời những bức xúc về tư tưởng trong nhân dân. Đội ngũ báo cáo
viên và trình độ một số cán bộ làm công tác tuyên giáo chưa đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới. Một số cấp uỷ Đảng còn lúng túng trong việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng. Nội dung sinh hoạt ở một số tổ chức Đảng còn thiếu
chiều sâu, tự phê bình và phê bình còn yếu, ban hành các nghị quyết, chỉ thị nhưng
thiếu kiểm tra đôn đốc thực hiện.
Bên cạnh đó, tinh thần, thái độ và ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân của một
bộ phận cán bộ, công chức cấp xã ở khu vực nông thôn chưa cao. Tình trạng sách
nhiễu, phiền hà đối với nhân dân còn diễn ra khá phổ biến, điển hình là gây khó khăn
với nông dân khi tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi của Nhà nước vào phát triển kinh
tế, giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn .
Trong khi đó, các tổ chức chính trị - xã hội cơ sở trên địa bàn nông thôn Đắklắk
nhất là Hội nông dân chưa phát huy được hết vai trò đại diện cho nông dân trong phát

triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới. Hoạt động của hội chỉ mang tính chất tuyên
truyền, vận động chưa đi vào chiều sâu với những hoạt động cụ thể, thiết thực như đào
tạo nghề, chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất…
Hoạt động của Hội nông dân cấp cơ sở ở Đắklắk còn mang nặng tính thụ động,
trong việc phối hợp với các ngành, các cấp hỗ trợ người nông dân trong sản xuất nông
nghiệp, xây dựng nông thôn và nâng cao đời sống của người dân. Việc phối hợp hoạt
động của Hội nông dân cấp cở sở ở tỉnh Đắklắk thông qua thực hiện các chương trình
liên tịch giữa Hội nông tỉnh với các ngành như Ngân hàng Chính sách – xã hội tỉnh,
21
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở Lao động thương binh và xã hội, Sở Khoa
học và công nghệ, Sở Công nghiệp… còn thiếu chủ động và chưa hiệu quả. Nội dung,
hình thức hoạt động của Hội ở một số cơ sở chậm đổi mới, và có phần lúng túng.
Vai trò đại diện cho nông dân Đắklắk của Hội nông dân, nhất là cấp cơ sở trong
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền chưa được phát huy hiệu quả. Nông dân Đắklắk
chưa đóng góp nhiều và cũng chưa được hưởng lợi từ các chương trình phát triển kinh tế -
xã hội trên địa bàn nông thôn, thậm chí còn nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc.
Chính vì vậy, Hội nông dân cấp cơ sở ở tỉnh Đắklắk chưa làm tốt vai trò đại diện
cho nông dân, chưa có sự giúp đỡ, hỗ trợ cho nông dân một cách có hiệu quả. Do đó,
tiềm năng của tỉnh Đắklắk chưa được khai thác, phát huy có hiệu quả vào phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Chính sự yếu kém trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành của chính quyền
nói riêng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị nông thôn nói chung, không
những làm mất đi tính tích cực, sự chủ động của người nông dân trong phát triển kinh
tế – xã hội, mà còn gây ra bất bình, bức xúc trong đời sống nông thôn.
Thứ tư, xuất phát từ những hạn chế của chính người nông dân Đắklắk.
Người dân Đắklắk còn mang nặng tính bảo thủ, ít chịu bỏ cái cũ thay cái mới, sản
xuất nông nghiệp mang tính kinh nghiệm, ít áp dụng thành tựu của khoa học – công nghệ.
Một bộ phận nông dân thiếu ý thức tự lực vươn lên mà trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ
trợ của Nhà nước nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tâm lí thoã mãn, bằng lòng
với lối canh tác hiện tại, với thu nhập hiện tại, với nghề nghiệp hiện tại nên thụ động

trong việc áp dụng khoa học – công nghệ mới, trong chuyển đổi giống cây trồng vật
nuôi, cũng như trong học nghề, trong chuyển đổi nghề nghiệp để tăng giá trị sản xuất
và nâng cao thu nhập.
Biểu hiện rõ nét nhất trong công tác học nghề và chuyển đổi nghề nghiệp. Nông
dân ít đầu tư vào việc học nghề và chuyển đổi nghề nghiệp, mà chỉ chấp nhận làm thuê
dưới dạng lao động phổ thông. Mặc dù, cơ sở đào tạo nghề đã có ở 13/13 huyện, thành
phố nhưng số lượng lao động nông thôn tham gia học nghề là rất hạn chế chưa có sự
hỗ trợ và kinh phí đào tạo của Nhà nước. Chính vì vậy, số lượng lao động nông thôn
được đào tạo nghề hàng năm thấp, năm 2012 là 26,5% . Điều này không chỉ làm cho
nông dân gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội mà còn làm hạn chế vai
trò của nông dân trong trong sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
22
CHƯƠNG 3
NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN ĐẮKLẮK TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
3.1. Phương hướng
Một là, phát huy vai trò của nông dân trong quá trình công nghiệp hoá – hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn phải gắn kết chặt chẽ với phát triển nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới ở tỉnh Đắklắk
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn có mối quan hệ tự nhiên, nội tại, gắn bó
hữu cơ không thể tách rời. Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất cơ bản của nông dân;
nông thôn là địa bàn sinh sống chủ yếu của nông dân, nông dân vừa là chủ thể vừa là
động lực trong sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn. Vai trò của nông dân
được thể hiện và thực hiện trong mối quan hệ hữu cơ với sản xuất nông nghiệp và đời
sống nông thôn. Do vậy, phát huy vai trò của nông dân phải đặt nông dân vào đúng vị
trí chủ thể của quá trình phát triển, hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp và xây dựng
nông thôn mới. Xuất phát từ thực tế của tỉnh Đắklắk có thể khẳng định, nông dân là
chủ thể, là động lực chính trong phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới. Chính vì vậy, việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà

nước trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn Đắklắk phải
phát huy vai trò của nông dân trên cơ sở đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ với quá trình
hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hoá nông thôn.
Tỉnh Đắklắk xác định: tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng trong nông thôn là 5 – 6 % năm.
Vì vậy, đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển mạnh cả nông,
lâm và ngư nghiệp trên cơ sở áp dụng những thành tựu của khoa học – công nghệ hiện
đại vào sản xuất nông nghiệp để sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên, lao động,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản nhằm nâng
cao thu nhập, cải thiện đời sống của nông dân. Đồng thời đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút lao động trên địa bàn nông thôn.
23
Đi đôi với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tăng cường đầu tư phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển các đô thị trên địa bàn theo qui hoạch. Tập
trung là giao thông, thuỷ lợi, điện, chợ, trường học, cơ sở y tế… tạo điều kiện thuận
lợi, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và nâng cao đời sống cư dân nông thôn.
Như vậy, sự gắn bó hữu cơ giữa nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá
trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Đắklắk đòi hỏi mỗi bước phát triển
của sản xuất nông nghiệp, kinh tế - xã hội của nông thôn đồng thời làm tăng thu nhập
và nâng cao đời sống của nông dân. Điều này tạo ra động lực to lớn, đảm bảo người
nông dân thật sự gắn bó với sản xuất nông nghiệp và chủ động, tự giác xây dựng nông
thôn trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Đắklắk. Việc khẳng
định và đặt đúng vị trí chủ thể của nông dân trong mối quan hệ với nông nghiệp và
nông thôn sẽ khơi dậy và phát huy được sự cố gắng, nhiệt tình, tính tích cực, năng
động sáng tạo và các nguồn lực của nông dân Đắklắk đầu tư vào phát triển sản xuất
nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại.
Hai là, kết hợp tăng trưởng kinh tế với chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của
nông dân trong quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở
tỉnh Đắklắk

Bảo đảm kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ
môi trường sinh thái là yêu cầu chiến lược của quá trình CNH – HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở nước ta. Đảng ta khẳng định: “Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng
cao đời sống vật chất tinh thần cho nông dân phải dựa trên kinh tế thị trường định
hướng xã hội chũ nghĩa”. Gắn tăng trưởng kinh tế nông nghiệp, nông thôn với tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái trên địa bàn nông thôn.
Chính vì vậy, mục tiêu của quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh
Đắklắk phải hướng đến mục tiêu là nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông
thôn, đảm bảo các điều kiện ăn, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, thể
thao… ở hầu hết các vùng nông thôn tạo điều kiện để nông dân hưởng lợi nhiều hơn
trong quá trình phát triển.
Nông dân không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu của quá trình CNH – HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Suy cho cùng mục tiêu của quá trình CNH – HĐH nông
nghiệp, nông thôn là nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân. Do
vậy, quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Đắklắk phải gắn phát triển
24

×