Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

hoàn thiện quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ tại công ty bảo minh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.83 KB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP &PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM



VŨ HUY THẮNG




HOÀN THIỆN QUẢN LÝ THU VÀ CHI BỒI THƯỜNG BẢO
HIỂM PHI NHÂN THỌ TẠI CÔNG TY BẢO MINH BẮC NINH



CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số : 60 34 01 02



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN QUỐC OÁNH




Hà Nội - 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page i

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn
toàn trung thực và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn




Vũ Huy Thắng






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh của mình, ngoài sự
nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều
cá nhân và tập thể.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của
các thầy, cô giáo khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh; Học viện Nông nghiệp

Việt Nam; đặc biệt là sự quan tâm, chỉ dẫn tận tình của thầy giáo TS. Nguyễn
Quốc Oánh đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Công ty Bảo Minh Bắc
Ninh đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và thu thập tài
liệu phục vụ cho luận văn.
Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình và bạn bè đã
giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn



Vũ Huy Thắng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

MỤC LỤC


Lời cam đoan i

Lời cảm ơn ii

Mục lục iii

Danh mục bảng vi

Danh mục sơ đồ viii


Phần I MỞ ĐẦU 1

1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2

1.2.1 Mục tiêu chung 2

1.2.2 Mục tiêu cụ thể 2

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu: 3

1.3.2 Phạm vi nghiên cứu: 3

Phần II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4

2.1 Cơ sở lý luận 4

2.1.1 Khái niệm cơ bản 4

2.1.2 Đặc trưng và vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ 6

2.1.3 Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ 13

2.1.4 Hoạt động chính của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ 17

2.1.5 Nội dung quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm gốc của doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ 20


2.1.6 Nhân tố tác động tới quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm gốc
của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ 34

2.2 Cơ sở thực tiễn 38

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

2.2.1 Kinh nghiêm quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm gốc ở một
số nước trên thế giới 38

2.2.2 Kinh nghiệm quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm gốc ở
Việt Nam 40

2.2.3 Những bài học kinh nghiệm rút ra khi áp dụng tại Việt Nam 41

Phần III ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 44

3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 44

3.1.1 Vị trí địa lý tỉnh Bắc Ninh 44

3.1.2 Tình hình cơ bản của Công ty Bảo Minh Bắc Ninh 44

3.2 Phương pháp nghiên cứu 52

3.2.1 Phương pháp thu thập số liệu 52


3.2.2 Phương pháp phân tích số liệu 53

3.3 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 54

Phần IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 55

4.1 Hệ thống quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ tại
Bảo Minh Bắc Ninh 55

4.2 Quản lý thu bảo hiểm phi nhân thọ Bảo Minh Bắc Ninh 62

4.2.1 Chính sách phí bảo hiểm, hoa hồng đại lý 62

4.2.2 Kết quả thu bảo hiểm phi nhân thọ trong giai đoạn 2012-2014 69

4.2.3 Công tác quản lý tiền mặt 74

4.2.4 Công tác quản lý hợp đồng bảo hiểm 76

4.3 Quản lý chi bảo hiểm phi nhân thọ Bảo Minh Bắc Ninh 78

4.3.1 Thực trạng chi bảo hiểm phi nhân thọ trong giai đoạn 2012-2014 78

4.3.2 Hoạt động tuyên truyền, đề phòng tai nạn hạn chế tổn thất 81

4.3.3 Công tác chuẩn bị tiền bồi thường cho khách hàng 83

4.3.4 Quản lý khâu tiếp nhận thông tin tai nạn, giám định, bồi thường 84

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page v

4.3.5 Công tác hạn chế trục lợi bảo hiểm 89

4.4 Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lý thu và chi bồi thường bảo
hiểm phi nhân thọ tại công ty Bảo Minh Bắc Ninh 93

4.4.1 Trình độ và năng lực của lực lượng lao động 93

4.4.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật 94

4.4.3 Sự nhận thức của khách hàng trong dịch vụ bảo hiểm 95

4.5 Giải pháp quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ
tại Bảo Minh Bắc Ninh 97

4.5.1 Định hướng phát triển 97

4.5.2 Nhóm giải pháp hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm phi nhân thọ tại
Bảo Minh Bắc Ninh 98

4.5.3 Giải pháp hoàn thiện quản lý chi bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ
tại Bảo Minh Bắc Ninh 101

Phần V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 103

5.1 Kết luận 103

5.2 Kiến nghị 104


TÀI LIỆU THAM KHẢO 107

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi

DANH MỤC BẢNG

STT Tên Bảng Trang

3.1 Tình hình đội ngũ nhân sự của Bảo Minh Bắc Ninh 50

3.2 Nguồn vốn của Công ty Bảo Minh Bắc Ninh 51

3.3 Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Bảo Minh Bắc Ninh
qua ba năm 2011 – 2013 52

3.4 Số mẫu phỏng vấn 53

4.1 Đánh giá của khách hàng về giá thành của bảo hiểm phi nhân thọ
theo loại hình bảo hiểm tại thị trường tỉnh Bắc Ninh 66

4.2 Đánh giá của khách hàng về giá thành của bảo hiểm phi nhân thọ
theo khu vực tại thị trường tỉnh Bắc Ninh 66

4.3 Tỷ lệ chi hoa hồng cho hệ thống tổ chức khai thác bảo hiểm 68

4.4 Doanh thu bảo hiểm gốc Bảo Minh Bắc Ninh giai đoạn 2012-2014 71

4.5 Doanh thu từ các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ của Bảo Minh
Bắc Ninh giai đoạn 2012-2014 73


4.6 Chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch của doanh thu 74

4.7 Hệ số thu đủ phí bảo hiểm các năm 2012-2014 75

4.8 Chi bồi thường bảo hiểm gốc Bảo Minh Bắc Ninh giai đoạn 2012-2014 79

4.9 Chi bồi thường các nghiệp vụ bảo hiểm gốc Bảo Minh Bắc Ninh
giai đoạn 2012-2014 80

4.10 Chi phí chi đề phòng và hạn chế tổn thất giai đoạn 2012-2014 81

4.11 Đánh giá của khách hàng về hoạt động tuyên truyền, đề phòng tai
nạn của Bảo Minh Bắc Ninh 82

4.12 Đánh giá của khách hàng về hoạt động chuẩn bị tiền bồi thường
cho khách hàng của Bảo Minh Bắc Ninh 83

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

4.13 Đánh giá của khách hàng về khâu tiếp nhận thông tin tai nạn, giám
định, bồi thường cho khách hàng của Bảo Minh Bắc Ninh 89

4.14 Số vụ gian lận, trục lợi bảo hiểm từ năm 2012-2014 của Bảo
Minh Bắc Ninh 92

4.15 Tình hình lao động của Công ty 94

4.16 Năng lực cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của công ty tính đến

31/12/2014 95

4.17 Nhận biết tính chất quan trọng của bảo hiểm phi nhân thọ 96

4.18 Mức độ tin tưởng của khách hàng vào bảo hiểm phi nhân thọ 96

4.19 Đánh giá của khách hàng về lợi ích kinh tế khi rủi ro của bảo
hiểm phi nhân thọ 97
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii

DANH MỤC SƠ ĐỒ

STT Tên sơ đồ Trang

3.1 Sơ đồ tổ chức bộ máy công ty Bảo Minh Bắc Ninh 48
4.1 Quy trình quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ tại
Bảo Minh Bắc Ninh 57
4.2 Hệ thống tổ chức khai thác bảo hiểm phi nhân thọ tại Bảo Minh
Bắc Ninh 68
4.3 Quy trình tiếp nhận thông tin, giám định bảo hiểm tại Bảo Minh
Bắc Ninh 86
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

Phần I. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua kinh tế xã hội Bắc Ninh không ngừng phát triển,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá từng
bước nâng cao hiệu quả, tốc độ tăng trưởng kinh tế và đô thị hoá nhanh, thu

hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Cùng với sự phát triển đó, các công ty bảo hiểm nói chung và bảo hiểm
phi nhân thọ nói riêng đã có những đóng góp thiết thực nhằm đảm bảo đời
sống kinh tế xã hội, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng, nâng
cao chất lượng dịch vụ, phục vụ khách hàng, giải quyết bồi thường, nhận thức
của người dân về bảo hiểm cũng được cải thiện đáng kế. Ngành bảo hiểm
cũng đã thực hiện tốt vai trò là kênh huy động vốn quan trọng cho sự phát
triển kinh tế, tạo việc làm cho xã hội.
Sự phát triển của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam trong
những năm qua là một xu thế tất yếu trong quá trình hội nhập và phát triển
kinh tế, với tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân hàng năm đạt trên
20%/năm trong 10 năm qua, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã lớn mạnh
nhanh chóng. Năm 2010 doanh thu của các Công ty bảo hiểm phi nhân thọ đạt
trên 17 nghìn tỷ đồng, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đã đầu tư lại
nền kinh tế với số tiền trên 35 nghìn tỷ đồng, chi trả cho khách hàng bị rủi ro
thuộc phạm vi bảo hiểm số tiền trên 7 nghìn tỷ đồng. Trong 3 tháng đầu năm
2014, tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc của thị trường phi nhân thọ ước đạt
6.400 tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2013 (Bộ Tài chính, 2014).
Sự tăng trưởng cao về doanh thu, chi phí và gia tăng số lượng nghiệp vụ
bảo hiểm đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ phải xây dựng
đồng bộ và hoàn thiện các quy trình quản lý doanh thu và chi phí.
Thời gian qua thị trường bảo hiểm đã chứng kiến nhiều doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ tăng trưởng “nóng” doanh thu trong khi công tác quản
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

lý chưa chặt chẽ đã dẫn đến tình trạng cán bộ, đại lý thu phí bảo hiểm nộp
chậm, không nộp về Công ty trong khi hợp đồng bảo hiểm vẫn cấp cho khách
hàng. Nhiều trường hợp khách hàng bị rủi ro mới tham gia bảo hiểm, cán bộ
bảo hiểm làm hồ sơ khống rút tiền từ các Công ty với số tiền hàng trăm tỷ

đồng đã gây thiệt hại lớn về tài chính, uy tín cho doanh nghiệp cũng như ảnh
hưởng đến sự phát triển chung của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Công ty Bảo Hiểm Bảo Minh là một doanh nghiệp Bảo Hiểm phi nhân
thọ có doanh thu tăng trưởng đều qua các năm và đang gặp rất nhiều khó khăn
trong công tác quản lý thu và chi bồi thường hiểm phi nhân thọ.
Xuất phát từ lý do trên, lựa chọn đề tài “Hoàn thiện quản lý thu và chi
bồi thường Bảo hiểm phi nhân thọ tại Công ty Bảo Minh Bắc Ninh” sẽ góp
phần cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn cho các nhà quản lý liên quan và
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thu
và chi bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ tại công ty Bảo Minh
Bắc Ninh.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý thu và chi bồi thường bảo
hiểm phi nhân thọ.
- Phân tích thực trạng quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm phi nhân
thọ tại Công ty Bảo Minh Bắc Ninh
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu và chi
bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ tại Công ty Bảo Minh Bắc Ninh.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng
đến quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ tại công ty Bảo
Minh Bắc Ninh.

1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Hoàn thiện quản lý thu và chi bồi thường bảo hiểm gốc,
đánh giá chung những tồn tại và phân tích nguyên nhân. Từ đó đề xuất những
giải pháp mang tính chất định hướng hoàn thiện quản lý thu và chi bồi thường
bảo hiểm phi nhân thọ của công ty Bảo Minh Bắc Ninh.
- Về thời gian: Khảo sát quá trình phát triển thu qua từng quý, năm
cũng như công tác chi bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ của công ty Bảo
Minh Bắc Ninh từ năm 2010 – 2013.
Thời gian thực hiện đề tài : Từ tháng 05/2014 đến tháng 03/2015
- Về không gian: Đề tài được thực hiện tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

Phần II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Bảo hiểm
Bảo hiểm là một sự thỏa thuận hợp pháp thông qua đó một cá nhân
hay tổ chức (người tham gia bảo hiểm) chấp nhận đóng góp một khoản tiền
nhất định (phí bảo hiểm) cho tổ chức khác (người bảo hiểm) để đổi lấy
những cam kết về những khoản bồi thường hoặc chi trả khi có sự kiện quy
định trong hợp đồng xảy ra (Nguyễn Văn Định, 2008).
- Thỏa thuận hợp pháp về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng và hợp
pháp về các nội dung ký kết trong hợp đồng. Ví dụ các điều kiện bảo hiểm,
mức phí phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên tham gia ký kết hợp
đồng phải có đầy đủ tư cách pháp lý.
- Người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm đại diện cho cả cá
nhân hoặc tổ chức ( hội, nhóm, công ty…có đăng ký chính thức). Ở Việt
Nam, chỉ có các công ty có đăng ký và được cấp phép thì mới được kinh
doanh bảo hiểm. Bởi vậy, người bảo hiểm ở đây chỉ bao gồm các công ty

bảo hiểm. Nhu cầu an toàn đối với các cá nhân và tổ chức xã hội là vĩnh
cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách để bảo vệ chính bản thân và tài sản
của mình trước những bất hạnh của số phận, những biến cố bất ngờ xảy ra
trong quá trình sản xuất kinh doanh, lao động và học tập… Bảo hiểm là
hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia
bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với
điều kiện người tham gia bảo hiểm cho chính anh ta hoặc người thứ ba.
Điều này có nghĩa là người tham gia bảo hiểm chuyển giao hậu quả của rủi
ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ.
Khi người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

dùng quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm
cho người tham gia bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người
tham gia đăng ký và thoả thuận với người bảo hiểm.
Vậy bản chất của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người
tham gia từ đó khôi phục và phát triển sản xuất đời sống, đồng thời tạo
nguồn vốn cho phát triển kinh tế đất nước. Bảo hiểm là quá trình phân phối
lại tổng sản phẩm trong nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng
nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất
đối với người tham gia bảo hiểm. Phân phối trong bảo hiểm là phân phối
không đều, nghĩa là không ai tham gia cũng được phân phối và phân phối
với số tiền như nhau. Phân phối trong bảo hiểm là phân phối cho số ít
người tham gia bảo hiểm không may gặp rủi ro bất ngờ, bất khả kháng và
không lường trước được gây thiệt hại đến đời sản xuất và đời sống trên cơ
sở mức thiệt hại thực tế và điều kiện bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là phân
phối trong bảo hiểm không mang tính chất bồi hoàn, tức là dù có tham gia
đóng góp vào quỹ bảo hiểm chung nhưng không tổn thất thì không được
phân phối (Nguyễn Văn Định, 2008).

2.1.1.2 Bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm phi nhân thọ là một trong hai loại hình bảo hiểm thương
mại. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm qua đó công ty bảo hiểm cam
kết sẽ trả một số tiền thỏa thuận khi có sự kiện quy định xảy ra liên quan
đến sinh mạng và sức khỏe của con người.
Bảo hiểm phi nhân thọ là các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại khác
không phải là bảo hiểm nhân thọ, là loại hình bảo hiểm qua đó công ty bảo
hiểm cam kết sẽ chi trả bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra liên
quan đến tổn thất về vật chất và tai nạn con người, trách nhiệm của người
tham gia bảo hiểm (Nguyễn Văn Định, 2008).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

2.1.2 Đặc trưng và vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ
2.1.2.1 Đặc trưng của bảo hiểm
- Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vô hình: Sản phẩm bảo hiểm, về
bản chất là một dịch vụ, một lời hứa, một lời cam kết mà công ty bảo hiểm
đưa ra với khách hàng. Khách hàng đóng phí để đổi lấy những cam kết bồi
thường hoặc chi trả trong tương lai (Nguyễn Văn Định, 2009).
Khác với sản phẩm vật chất mà người mua có thể cảm nhận được qua
cac giác quan, người mua sản phẩm bảo hiểm không thể chỉ ra màu sắc, hình
dáng, kích thước hay mùi vị của sản phẩm. Họ cũng không thể cảm nhận
được bằng các giác quan như cầm nắm, sờ mó, ngửi hoặc nếm thử…
Để khắc phục những khó khăn đó, cũng là để củng cố lòng tin của
khách hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm tìm cách tăng tính hữu hình của sản
phẩm: chú ý những lợi ích có liên quan đến dịch vụ; sử dụng những người nổi
tiếng, có uy tín tuyên truyền dịch vụ; phát triển hệ thống đại lý chuyên nghiệp;
xây dựng uy tín của công ty bảo hiểm; tăng cường vai trò quan trọng của hoạt
động marketing. Như vậy, lòng tin và chất lượng dịch vụ khách hàng chính là
chìa khóa để bán sản phẩm bảo hiểm.

- Bảo hiểm có chu trình kinh doanh ngược
Khác với chu trình sản xuất hàng hóa thông thường, khi giá cả được
quyết định sau khi đã biết được chi phí sản xuất ra hàng hóa đó. Như vậy, các
doanh nghiệp sản xuất hàng hóa hữu hình phải bỏ vốn ra trước, mua các máy
móc, nguyên vật liệu, thuê nhân công thì mới sản xuất ra sản phẩm và thực
hiện quy trình đưa sản phẩm đến người tiêu dùng, khi sản phẩm đó bán được
doanh nghiệp mới thu tiền về, trong khoản tiền này bao gồm cả vốn doanh
nghiệp bỏ ra và lãi doanh nghiệp nhận được. Còn doanh nghiệp bảo hiểm
không phải bỏ vốn trước, họ nhận phí bảo hiểm trước của người tham gia bảo
hiểm đóng góp và thực hiện nghĩa vụ sau với bên được bảo hiểm khi xảy ra sự
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7

cố bảo hiểm. Do vậy, không thể tính được chính xác hiệu quả của một sản
phẩm bảo hiểm vào thời điểm bán sản phẩm (Nguyễn Văn Định, 2009).
Thông thường, hợp đồng bảo hiểm được coi là có hiệu lực ngay sau khi
có sự chấp nhận của Người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đã đóng phí
bảo hiểm đầy đủ theo hợp đồng. Phí bảo hiểm mà khách hàng đóng khi ký
hợp đồng chính là giá bán một hợp đồng bảo hiểm. Công ty bảo hiểm bán bảo
hiểm tai nạn con người, người tham gia bảo hiểm đóng phí để mua dịch vụ
bảo hiểm vào ngày đầu năm. Công ty bảo hiểm có ngay doanh thu từ đầu
năm. Các hợp đồng bảo hiểm này sẽ kết thúc vào ngày cuối năm, khi đó trách
nhiệm của các công ty bảo hiểm trước các tổn thất - theo như thỏa thuận trong
hợp đồng - sẽ chấm dứt. Đến ngày cuối năm, công ty bảo hiểm mới có thể
tính được chi phí triển khai dịch vụ bảo hiểm này. Tương tự như vậy là chi
phí hoạt động của công ty. Chu trình kinh doanh của bảo hiểm có đặc điểm là
công ty bảo hiểm định giá bán dịch vụ của mình trước khi tính toán được chi
phí mình bỏ ra.
Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đưa loại sản phẩm nào
ra thị trường. Nếu một sản phẩm đưa ra được đông đảo người mua chấp nhận,

công ty bảo hiểm sẽ thu về một khoản tổng phí bảo hiểm rất lớn. Khi rủi ro
xảy ra cho một số khách hàng nào đó, công ty bảo hiểm có đủ khả năng chi
trả mà không bị bội chi. Ngược lại, nếu chỉ có một số ít khách hàng chấp
nhận, tổng phí thu được nhỏ bé. Công ty bảo hiểm sẽ dễ rơi vào tình trạng thu
không đủ chi nếu như nhóm khách hàng đó có tỷ lệ rủi ro quá cao trong
khoảng thời gian các hợp đồng bảo hiểm còn có hiệu lực.
Mặt khác, chu trình kinh doanh ngược còn có tác dụng chi phối trách
nhiệm đề phòng hạn chế tổn thất của người được bảo hiểm khi họ đã được một
hợp đồng bảo hiểm bảo vệ. Bởi lẽ nếu tổn thất xảy ra ít, giá bán của các hợp
đồng bảo hiểm năm sau đó sẽ được giảm đi (hay nói cách khác, khách hàng sẽ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

được giảm phí), ngược lại, nếu tỷ lệ tổn thất lớn, khách hàng sẽ phải trả phí cao
hơn vào những năm sau.
- Tâm lý người mua hàng không muốn tiêu dùng dịch vụ này
Người mua bảo hiểm không mong muốn có sự kiện rủi ro xảy ra để
được nhận quyền lợi bảo hiểm dù rằng quyền lợi đó có thể nhiều hơn gấp bội
lần so với số phí phải đóng (Nguyễn Văn Định, 2008).
Quá trình mua sản phẩm bảo hiểm chịu sự chi phối của các yếu tố tâm
lý. Do chi phối bởi những tập tục, quan niệm có thể mang nặng yếu tố tâm
linh, nên nói chung người mua không muốn nói đến rủi ro, không muốn thấy
cụ thể những hậu quả của rủi ro có thể được bảo hiểm, điển hình nhất trong
bảo hiểm tử vong hay thương tật.
Nhưng ngược lại, người mua coi việc mua một sản phẩm bảo hiểm như
một chiếc bùa hộ mệnh, giúp họ yên tâm hơn về mặt tinh thần đồng thời có sự
đảm bảo về mặt vật chất khi điều không may xảy ra. Người bán cũng dễ bị ý
nghĩ chiều lòng, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mà thiếu sự cân nhắc cần
thiết cho việc lực chọn và đánh giá những rủi ro có thế đảm nhận.
Trong khi tiến hành giao dịch chào bán dịch vụ, cán bộ bảo hiểm phải

chú ý tới đặc điểm này để thuyết phục khách hàng khi họ nói không quan tâm
đến rủi ro và không mong muốn rủi ro xảy ra đối với họ. Bởi lẽ, tất cả đều
không mong muốn những tai nạn, tổn thất xảy ra. Mặt khác, bảo hiểm là tấm
lá chắn cho những điều không mong muốn này. Thông qua thực tế tình hình
thiên tai, tai nạn, cũng như giải quyết bồi thường tổn thất tại địa phương, để
minh chứng về lợi ích của bảo hiểm và sự cần thiết tham gia bảo hiểm.
Ngoài những đặc điểm chung của bảo hiểm đã đề cập ở trên, bảo hiểm
phi nhân thọ còn có những đặc điểm riêng cơ bản sau:
- Thứ nhất: Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ là một hợp đồng có thời
hạn bảo hiểm thường là một năm hoặc ngắn hơn (như bảo hiểm cho một
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9

chuyến hoạt động từ A đến B hoặc một chuyến du lịch ngắn ngày…).
- Thứ hai: Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ chỉ bồi thường và chi trả
tiền bảo hiểm khi có rủi ro được bảo hiểm xảy ra trong thời gian hợp đồng
còn hiệu lực
- Thứ ba: Phí bảo hiểm phi nhân thọ được tính cho thời hạn bảo hiểm,
thông thường phí tính cho từng năm bảo hiểm hoặc từng chuyến. Phí bảo
hiểm cho những năm tiếp theo sẽ có sự thay đổi. Phí bảo hiểm phi nhân thọ
còn phụ thuộc mức độ rủi ro. Ví dụ với điều khoản bảo hiểm nếu Người tham
gia bảo hiểm giới hạn phạm vi bảo hiểm một vài rủi ro không tham gia thì phí
bảo hiểm được xem xét giảm đi, ngược lại nếu mở rộng bảo hiểm thêm một
số rủi ro phụ khác thì phí bảo hiểm sẽ tăng lên. Hoặc cùng một thời gian đi du
lịch là 2 ngày nhưng nếu tới khu du lịch có mức độ rủi ro lớn hơn, như vùng
núi rừng nguy hiểm thì phí bảo hiểm cao hơn.
- Thứ tư: Trừ các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ, còn các
nghiệp vụ khác như tài sản, trách nhiệm dân sự giữa Người bảo hiểm, Người
được bảo hiểm và Người thứ ba có liên quan tới rủi ro bảo hiểm đều có mối
quan hệ về quyền lợi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

2.1.2.2 Vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm phi nhân thọ là sự cam kết giữa người tham gia bảo hiểm với
người bảo hiểm mà trong đó, người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia hoặc
người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm một số tiền nhất định khi có các sự kiện
đã định trước xảy ra, còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ,
đúng hạn.
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có
nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên
nhân, ví dụ như:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, rét, hạn,
sương muối, dịch bệnh
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học và kỹ thuật.
Khoa học và kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất và tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc sống của con người: nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai
nạn bất ngờ như tai nạn ô tô, hàng không, tai nạn lao động
- Các rủi ro do môi trường xã hội: Đây cũng là một trong những nguyên
nhân gây ra rủi ro cho con người. Chẳng hạn, nếu xã hội tổ chức quản lý chặt
chẽ - mọi người làm việc và sống theo pháp luật thì sẽ không xảy ra hiện
tượng thất nghiệp, trộm cắp; nếu làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ sẽ hạn
chế được các rủi ro không đáng có như hoả hoạn, bạo lực
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con
người những khó khăn trong cuộc sống như mất việc hoặc giảm thu nhập, phá
hoại nhiều tài sản, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân, v.v làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau
nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây nên. Hiện nay,

theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, có hai nhóm biện pháp đối phó
với rủi ro và hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm các biện pháp kiểm soát
rủi ro và nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro.
+ Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các hiện tượng tránh
né rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiếu rủi ro. Các biện pháp này thường
được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
- Tránh né được rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong
cuộc sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những
biện pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức loại trừ cơ hội dẫn
đến tổn thất. Chẳng hạn, để tránh các tai nạn giao thông người ta hạn chế việc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

đi lại; để tránh các tai nạn lao động người ta chọn những nghề không nguy
hiểm… Tránh né rủi ro chỉ với những rủi ro có thể né tránh được. Nhưng
trong cuộc sống có rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể né tránh được.
- Ngăn ngừa tổn thất: Các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành
động làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ, để
giảm thiểu các tai nạn lao động, người ta tổ chức các khóa học nâng cao trình
độ của người lao động hay nâng cao chất lượng các hoạt động đảm bảo an
toàn lao động; đề phòng chống hoả hoạn người ta thực hiện tốt việc phòng
cháy chữa cháy.
- Giảm thiểu tổn thất: người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các
biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Ví dụ, như khi có hoả
hoạn, để giảm thiểu tổn thất, người ta cố gắng cứu các tài sản còn dùng được;
hay trong một tai nạn giao thông; để giảm thiểu các thiệt hại về người và của
người ta đưa ra ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu và điều trị.
Mặc dù các biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn
chặn hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể
lường hết được hậu quả.

+ Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận
rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra
với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có.
+ Chấp nhận rủi ro: Đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất tự
chấp nhận khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro
là tự bảo hiểm. Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận
rủi ro, tuy nhiên có thể phân chia làm hai nhóm: chấp nhận rủi ro thụ động và
chấp nhận rủi ro chủ động. Trong chấp nhận rủi ro thụ động, người gặp tổn
thất không có sự chuẩn bị trước và họ có thể phải vay mượn để khắc phục hậu
quả tổn thất. Đối với chấp nhận rủi ro chủ động, người ta lập ra quỹ dự trữ dự
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

phòng và quỹ này được sử dụng để bù đắp tổn thất do rủi ro gây ra. Tuy nhiên,
việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu hoặc nếu
đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất…
- Bảo hiểm: Đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý
rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý
rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm
xã hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do
việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất
khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro
gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của
cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do đòi hỏi về sự tự chủ và sự an toàn về tài chính cũng như các nhu
cầu của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và khôn thể thiếu
đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lưu
kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày
càng mở rộng.
Vì vậy, khái niệm "bảo hiểm" trở nên gần gũi, gắn bó với con người,

với các đơn vị sản xuất kinh doanh. Có được quan hệ đó vì bảo hiểm đã mang
lại lợi ích kinh tế xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơn vị có tham gia
bảo hiểm.
Tác dụng đó được thể hiện:
- Người tham gia bảo hiểm (cá nhân hay tổ chức) được trợ cấp, bồi
thường những thiệt hại thực tế do rủi ro, bất ngờ gây ra thuộc phạm vi bảo
hiểm. Nhờ đó họ nhanh chóng ổn định kinh tế, khôi phục đời sống và sản xuất
kinh doanh…
- Nhờ có bảo hiểm những người tham gia đóng góp một số phí tạo
thành nguồn quỹ bảo hiểm lớn ngoài chi trả hay bồi thường còn là nguồn vốn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

để đầu tư phát triển kinh tế…
- Bảo hiểm, nhất là bảo hiểm thương mại còn đóng góp tích luỹ cho ngân sách…
- Bảo hiểm cùng với người tham gia bảo hiểm thực hiện các biện pháp
để phòng ngừa tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả thiệt hại.
- Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức; giúp họ
yên tâm trong cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh doanh; bảo hiểm thể
hiện tính cộng đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc.
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các
nước, nhất là thông qua hoạt động tái bảo hiểm…
- Cuối cùng, hoạt động bảo hiểm thu hút một số lao động nhất định, góp phần
giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội (theo thống kê, bảo hiểm các nước
thu hút 1% lực lượng lao động xã hội).
2.1.3 Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ
2.1.3.1 Bảo hiểm tài sản
Bảo hiểm tài sản là thể loại bao gồm những nghiệp vụ có đối tượng là
tài sản có thể tính được giá trị bằng tiền.
Có nhiều loại tài sản: Những tài sản hữu hình, tồn tại dưới hình thể vật

chất (như nhà cửa, phương tiện vận chuyển, hàng hóa…) và tài sản vô hình
(như phát minh, sáng chế, bản quyền, giọng hát…).
Bảo hiểm thiệt hại do hậu quả tài sản được bảo hiểm bị tổn thất. Thực
tế, khi tài sản bảo hiểm bị tổn thất thì hậu quả để lại không chỉ thiệt hại đối
với chính tài sản đó mà còn làm ngưng trệ, dẫn tới thiệt hại kinh doanh sản
xuất và thiệt hại tài chính do phải giải quyết hậu quả tổn thất.
* Các nghiệp vụ của loại hình bảo hiểm tài sản
- Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
- Bảo hiểm thân tàu thủy
- Bảo hiểm xây dựng lắp đặt
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

- Bảo hiểm hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí
- Bảo hiểm cháy
- Bảo hiểm tiền gửi tiền cất trữ trong kho và trong quá trình vận chuyển
- Bảo hiểm vật chất các phương tiện
- Bảo hiểm trong nông nghiệp.
2.1.3.2 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
“ Trách nhiệm dân sự” là gì? Trong Bộ Luật dân sự nước ta không có
định nghĩa. Song với nghĩa rộng có thể hiểu, trách nhiệm dân sự là trách
nhiệm phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự.
Nghĩa vụ trách nhiệm dân sự thường có 2 loại
- Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng: Đây là trách nhiệm nghĩa vụ mà
các bên đã cam kết thỏa thuận trong một hợp đồng.
Ví dụ: Hợp đồng vận chuyển hàng hóa từ cảng A đến cảng B. Hợp
đồng vận chuyển hành khách (vé là hợp đồng). Hợp đồng thuê thuyền viên
làm việc trên tàu.
- Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng: Đây là trách nhiệm phát sinh do
pháp luật quy định mà người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi

thường.
Ví dụ: Lái xe ô tô đâm vào nhà dân, đâm phải người đang đi trên hè
phố. Do đóng cọc móng nhà làm rung nứt đổ nhà bên cạnh.
Trách nhiệm dân sự: Là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó nó mang
đặc tính chung của trách nhiệm pháp lý.
+ Thứ nhất, được coi là biện pháp cưỡng chế bắt buộc phải thực hiện
nghĩa vụ trách nhiệm đã thỏa thuận (trong hợp đồng).
+ Thứ hai, có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm theo quy định của luật
pháp vì đã có những hành vi vi phạm pháp luật.
Thông thường thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm này bằng 2 hình thức tự
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

nguyện tham gia thương lượng thỏa thuận và hình thức cưỡng chế của luật pháp
tòa án.
Các nghiệp vụ của bảo hiểm trách nhiệm:
- Bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
- Bảo hiểm trách nhiệm pháp lý của người vận chuyển trong ngành
hàng không dân dụng
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ doanh nghiệp
- Bảo hiểm trách nhiệm công cộng và trách nhiệm sản phẩm…
2.1.3.3 Bảo hiểm con người phi nhân thọ
Mặc dù cùng là loại hình bảo hiểm con người, nhưng bảo hiểm con
người phi nhân thọ trong bảo hiểm thương mại có những đặc điểm chủ yếu
sau đây.
Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm ở đây
là tai nạn, bệnh tật, ốm đau thai sản liên quan đến thân thể và sức khỏe của con
người. Những rủi ro ở đây khác với 2 sự kiện “ sống”, “chết” trong bảo hiểm
nhân thọ và vì thế tính chất rủi ro được bộc lộ khá rõ còn tính chất tiết kiệm
không được thể hiện.

Người được bảo hiểm thường được quy định trong một khoảng tuổi nào
đó, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những người có độ
tuổi quá thấp hoặc quá cao. Bởi vì ở độ tuổi quá thấp hoặc quá cao tình trạng
rủi ro diễn biến phức tạp, xác suất rủi ro cao, việc kiểm soát và quản lý rủi ro rất
khó thực hiện. Chẳng hạn ở nước ta, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo
hiểm cho những em bé dưới 12 tháng tuổi và những người trên 65 tuổi. Nhưng ở
nước Anh lại quy định khác, những đứa trẻ dưới 3 tuổi và những người trên 65
tuổi không được các công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm.
So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm con người phi nhân thọ
ngắn hơn và thường là 1 năm như: bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ cấp
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16

nằm viện phẫu thuật… Thậm chí có nghiệp vụ bảo hiểm thời hạn chỉ trong vài
ngày, vài giờ đồng hồ như: bảo hiểm tai nạn hành khách. Do đó, phí bảo hiểm
thường nộp một lần khi ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ thường được triển khai
kết hợp với các nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm.
Chẳng hạn: Bảo hiểm tai nạn được lồng ghép trong bảo hiểm nhân thọ hỗn
hợp… Việc triển khai kết hợp này làm cho chi phí khai thác, chi phí quản
lý… của công ty bảo hiểm giảm đi từ đó có điều kiện giảm phí bảo hiểm.
Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của sự phát triển
ngành bảo hiểm, bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai sớm hơn
bảo hiểm nhân thọ, họ vừa triển khai vừa rút kinh nghiệm, đến khi điều kiện
kinh tế đã chín muồi mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ. Chính vì vậy,
bảo hiểm con người phi nhân thọ được coi là loại hình bảo hiểm bổ sung hữu
hiệu nhất cho các loại hình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Ở Việt Nam, hầu
hết các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ đều ra đời trong những
năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, mãi đến năm 1996 mới tổ chức triển
khai bảo hiểm nhân thọ.

Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ
Bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai rất đa dạng và linh
hoạt tùy theo tình hình cụ thể ở từng nước và ngay trong phạm vi một nước,
cũng có sự khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các công ty bảo hiểm về một số
nội dung cơ bản như: phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm,
thủ tục trả tiền bảo hiểm… Điều này cũng thật dễ hiểu vì bảo hiểm thương
mại là hoạt động mang tính kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên
trong quá trình ký kết hợp đồng hoặc triển khai một sản phẩm mới đều phải
tuân thủ khung pháp lý của mỗi nước.

×