Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

điều tra, nghiên cứu tình hình bệnh nấm hại lạc vụ thu năm 2014 tại ninh bình; biện pháp phòng trừ một số bệnh hại chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.62 MB, 89 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





TRƯƠNG THỊ ĐÀO


ĐIỀU TRA, NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH BỆNH NẤM HẠI LẠC
VỤ THU NĂM 2014 TẠI NINH BÌNH;
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ MỘT SỐ BỆNH HẠI CHÍNH


CHUYÊN NGÀNH : BẢO VỆ THỰC VẬT
MÃ SỐ : 60.62.01.12

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGÔ BÍCH HẢO


HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn Thạc sĩ “Điều tra, nghiên cứu tình hình bệnh nấm hại lạc vụ thu
2014 tại Ninh Bình và biện pháp phòng trừ một số bệnh hại chính ” chuyên ngành


Bảo vệ thực vật mã số 60.62.01.12
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung
thực và chưa sử dụng vào một học vị, một công trình nghiên cứu nào.
Trong luận văn tôi có sử dụng các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, các
thông tin trích dẫn được sử dụng đều được tôi ghi rõ các nguồn gốc, xuất xứ.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



TRƯƠNG THỊ ĐÀO















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn Thạc sĩ “Điều tra, nghiên cứu tình hình bệnh nấm
hại lạc vụ thu 2014 tại Ninh Bình và biện pháp phòng trừ một số bệnh hại chính”
chuyên ngành Bảo vệ thực vật ngoài sự nỗ lực phấn đấu của bản thân, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của PGS. TS Ngô Bích Hảo là giáo viên trực tiếp hướng
dẫn tôi và các thầy cô giáo trong khoa Nông học, các anh chị, các bạn sinh viên
trong phòng thí nghiệm của Bộ môn Bệnh cây – Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Ngô Bích Hảo và các thầy cô
giáo, các anh chị, các bạn đã luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Bộ môn Bệnh cây, Khoa Nông học – Học viện
Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập tại
trường cũng như trong thời gian thực hiện đề tài này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tập thể, cá nhân, bạn bè và người thân
đã động viên khích lệ trong thời gian học tập tại trường và thực hiện đề tài tốt
nghiệp này.
Hà Nội, ngày 11 tháng 4 năm 2015
Tác giả luận văn


Trương Thị Đào








Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv

MỤC LỤC


Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
Danh mục bảng vii
Danh mục hình ix
MỞ ĐẦU 1
1 Đặt vấn đề 1
2 Mục đích và yêu cầu của đề tài 2
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1 Tình hình nghiên cứu nước ngoài 4
1.1.1 Nghiên cứu thành phần bệnh trên lạc
4
1.1.2 Những nghiên cứu về biện pháp sinh học phòng trừ nhóm nấm gây hại
13
1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước 15
1.2.1 Nghiên cứu thành phần bệnh hại lạc
15
1.2.2 Những nghiên cứu về biện pháp sinh học phòng trừ nấm hại
17
Chương 2 ĐỊA ĐIỂM - THỜI GIAN - VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 26
2.1 Địa điểm nghiên cứu 26
2.2 Thời gian nghiên cứu 26
2.3 Vật liệu nghiên cứu 26
2.4 Nội dung nghiên cứu 26

2.4.1 Điều tra, nghiên cứu ngoài đồng ruộng
26
2.4.2 Nghiên cứu trong nhà lưới
26
2.4.3 Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
27
2.5 Phương pháp nghiên cứu 27
2.5.1 Phương pháp thu thập mẫu hạt lạc
27
2.5.2 Phương pháp điều tra nghiên cứu ngoài đồng ruộng
27
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

2.5.3 Phương pháp thí nghiệm ngoài ruộng
29
2.5.4 Phương pháp thí nghiệm trong nhà lưới
30
2.5.5 Phương pháp nghiên cứu trong phòng
31
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 34
3.1 Kết quả điều tra, nghiên cứu ngoài đồng ruộng 34
3.1.1 Thành phần bệnh nấm hại lạc trên đồng ruộng vụ thu năm 2014 tại
Ninh Bình
34
3.1.2 Tình hình một số bệnh nấm hại lạc chính trong vụ thu năm 2014 tại
Yên Mô - Ninh Bình
40
3.2 Kết quả nghiên cứu, giám định nấm hại trên hạt giống lạc 44
3.2.1 Thành phần bệnh nấm hại hạt giống lạc tại Ninh Bình năm 2014

44
3.2.2 Mức độ nhiễm nấm hại hạt giống trên các giống lạc
48
3.3 Kết quả thí nghiệm trong nhà lưới 52
3.3.1 Thử nghiệm ảnh hưởng của dịch chiết từ sả đến nấm gây bệnh héo
rũ gốc mốc đen ở lạc L27 và một số chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển
của lạc trong điều kiện chậu vại
52
3.3.2 Thử nghiệm ảnh hưởng của dịch chiết từ tỏi đến nấm gây bệnh héo
rũ gốc mốc đen ở lạc L27 và một số chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển
của lạc trong điều kiện chậu vại
54
3.4 Khảo sát mốt số biện pháp phòng trừ bệnh nấm hại trên hạt giống lạc
L27 và trên đồng ruộng 55
3.4.1 Khảo sát hiệu lực của chế phẩm sinh học BIMA đối với nấm gây
bệnh héo rũ gốc mốc đen , héo rũ gốc mốc trắng và một số chỉ tiêu
sinh trưởng, phát triển của giống lạc L27
55
3.4.2 Khảo sát ảnh hưởng của biện pháp bón vôi đối với nấm gây bệnh
héo rũ gốc mốc đen và nấm gây bệnh héo rũ gốc mốc trắng và một
số chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của giống lạc L27
59
3.4.3 Thử nghiệm dịch chiết từ sả trong việc ức chế một số nấm bệnh hại
hạt giống lạc L27
63
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

3.4.4 Thử nghiệm dịch chiết từ tỏi trong việc ức chế một số nấm bệnh hại
hạt giống lạc

64
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 67
1 Kết luận 67
2 Đề nghị 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
PHỤ LỤC 71
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

3.1 Thành phần bệnh nấm hại lạc trên đồng ruộng tại huyện Yên Mô –
Ninh Bình vụ thu năm 2014 34
3.2 Diễn biến của bệnh đốm nâu hại lạc tại các xã Yên Phong, Yên Lâm,
Yên Thành vụ thu năm 2014 40
3.3 Diễn biến của bệnh đốm đen hại lạc tại các xã Yên Phong, Yên Lâm,
Yên Thành vụ thu năm 2014 41
3.4 Diễn biến của bệnh gỉ sắt hại lạc tại các xã Yên Phong, Yên Lâm, Yên
Thành vụ thu năm 2014 42
3.5 Diễn biến của bệnh cháy lá hại lạc tại các xã Yên Phong, Yên Lâm,
Yên Thành vụ thu năm 2014 43
3.6 Diễn biến bệnh héo rũ gốc mốc trắng (Sclerotium rolfsii) trên một số
giống lạc vụ thu năm 2014 tại Yên Mô – Ninh Bình 44
3.7 Thành phần bệnh nấm hại trên hạt giống lạc L27 thu thập ở Ninh Bình
vụ Xuân năm 2014 45
3.8 Mức độ nhiễm nấm bệnh gây hại các giống lạc thu thập tại Ninh Bình
vụ xuân năm 2014 48
3.9 Ảnh hưởng của dịch chiết từ sả đến nấm gây bệnh héo rũ gốc mốc đen

ở lạc L27 và một số chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của lạc trong điều
kiện chậu vại 53
3.10 Ảnh hưởng của dịch chiết từ tỏi đến nấm gây bệnh héo rũ gốc mốc
đen ở lạc L27 và một số chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của lạc trong
điều kiện chậu vại 54
3.11 Ảnh hưởng của chế phẩm sinh học BIMA đối với nấm gây bệnh héo
rũ gốc mốc đen và một số chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của giống lạc
L27 56
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

3.12 Ảnh hưởng của việc bón chế phẩm sinh học BIMA đến nấm gây bệnh
héo rũ gốc mốc trắng và một số yếu tố cấu thành năng suất của giống
lạc L27 58
3.13 Ảnh hưởng của biện pháp bón vôi đối với nấm gây bệnh héo rũ gốc
mốc đen và một số chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của giống lạc L27 60
3.14 Ảnh hưởng của biện pháp bón vôi đến nấm gây bệnh héo rũ gốc mốc
trắng và một số yếu tố cấu thành năng suất của giống lạc L27 61
3.15 Ảnh hưởng của dịch chiết từ sả trong việc ức chế một số nấm bệnh hại
hạt giống lạc L27 63
3.16 Ảnh hưởng của dịch chiết từ tỏi trong việc ức chế một số nấm bệnh
hại hạt giống lạc L27 64


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ix

DANH MỤC HÌNH



STT Tên hình Trang

3.1 Triệu chứng bệnh héo rũ gốc mốc đen Aspergillus niger 36
3.2 Triệu chứng bệnh héo rũ gốc mốc trắng Sclerotium rolfsii 36
3.3 Triệu chứng bệnh gỉ sắt hại lạc Puccinia arachidis 38
3.4 Triệu chứng bệnh cháy lá Pestalotiopsis sp. 38
3.5 Triệu chứng bệnh đốm nâu hại lạc Cercospora arachidicola 39
3.6 Triệu chứng bệnh đốm đen hại lạc Cercospora personata 39
3.7 Hạt nhiễm nấm Aspergillus niger 47
3.8 Hạt nhiễm nấm Aspergillus flavus 48
3.9 Cành và BTPS của nấm Aspergillus flavus 49
3.10 Cành BTPS của nấm Aspergillus niger 49
3.11 Hạt nhiễm nấm Penicillium spp. 50
3.12 Hạt nhiễm nấm Sclerotium rolfsii 51
3.13 Hạt nhiễm nấm Fusarium spp. 52
3.14 Ảnh hưởng của số lần bón chế phẩm sinh học BIMA đến một số chỉ
tiêu sinh trưởng phát triển của giống lạc L27 57
3.15 Cây lạc thu hoạch ở công thức có bón vôi (bên phải) và công thức đối
chứng (bên trái). 62

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Cây lạc (Arachis hypogaea L.) là cây công nghiệp ngắn ngày, thuộc họ đậu,
có nguồn gốc ở Nam Mỹ, hiện nay được trồng hầu khắp các nước trên thế giới. Lạc
là cây trồng có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao, là cây công nghiệp đứng thứ
2 trong các cây lấy dầu thực vật. Sản phẩm chế biến từ lạc rất đa dạng trong đó chủ

yếu từ hạt. Hạt lạc chứa khoảng 40 - 60% lipit và 26-34% prôtêin, là nguồn nguyên
liệu quan trọng cho công nghiệp chế biến và khô dầu.
Do cây lạc phù hợp và thích ứng nhanh với điều kiện nhiệt đới, á nhiệt đới,
các vùng khí hậu ẩm nên hiện nay nó được trồng ở nhiều nơi, như Ấn Độ, Trung
Quốc, Senegan, Inđônêxia, Malayxia, Việt Nam,…
Theo số liệu thống kê của FAO, từ năm 2008 – 2012 diện tích lạc trên thế
giới đạt từ 24,2 – 25,4 triệu ha, năng suất từ 1,5 – 1,6 tấn/ha và sản lượng dao động
từ 37 – 42 triệu tấn/năm.
Ở Việt Nam lạc là một trong những cây đậu đỗ quan trọng, là nguồn prôtêin
và lipit quan trọng. Bên cạnh đó, lạc là cây trồng cải tạo đất quan trọng trong hệ
thống canh tác đa canh ở nước ta, nhất là trong điều kiện đất đai nông nghiệp của
nước ta bị rửa trôi và phong hoá nhanh, hàm lượng dinh dưỡng và mùn thấp. Rễ lạc
có khả năng cố định nitơ tự do từ không khí thành dạng đạm sinh học mà cây trồng
có thể sử dụng được nhờ vi khuẩn nốt sần Rhizobium vigna sống cộng sinh trong rễ.
Trong những năm gần đây, sản xuất lạc ở nước ta phát triển khá mạnh.
Tuy nhiên, diện tích và sản lượng lạc của nước ta vẫn còn thấp so với khu vực và
thế giới.
Trong những yếu tố làm giảm năng suất và chất lượng lạc thì bệnh hại là
một trong những nguyên nhân quan trọng. Sự gia tăng về diện tích trồng và việc
áp dụng các biện pháp kĩ thuật thâm canh làm phát sinh ngày càng nhiều dịch hại
nguy hiểm, đặc biệt là những bệnh do nấm hại gây ra, trong đó có các bệnh nấm
truyền qua hạt giống.
Trong các bệnh nấm gây hại trên lạc thì bệnh héo rũ hại lạc là một trong
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

những bệnh phổ biến ở các vùng trồng lạc. Bệnh phát sinh và gây hại trong cả chu
kì sống của cây, trên đồng ruộng và trong kho bảo quản làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến năng suất và chất lượng lạc nhân, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
Vì vậy, việc chú trọng đến công tác bảo vệ thực vật trên đồng ruộng và trong

kho bảo quản cũng là một tác nhân quan trọng để nâng cao năng suất và chất lượng
lạc trước và sau thu hoạch.
Sản xuất ngày càng phát triển, dẫn đến sử dụng thuốc hoá học trong nông
nghiệp, trong đó các thuốc trừ nấm bệnh ngày càng nhiều làm ảnh hưởng xấu đến
môi trường, ảnh hưởng tới sức khoẻ con người và gây thiệt hại kinh tế trong sản
xuất nông nghiệp. Một số thuốc trừ nấm dùng nhiều đã gây hại cho hệ vi sinh vật
đất, tạo nên tính kháng thuốc ở một số nấm bệnh hại cây trồng.
Mặt khác, sự đòi hỏi nông sản không có dư lượng thuốc hoá học trên thị
trường ngày càng tăng. Bởi vậy, xu hướng mới trong bảo vệ thực vật hiện nay là
quản lý dịch hại tổng hợp IPM và phòng trừ sinh học.
Vậy, để có những căn cứ đánh giá mức độ hại của bệnh nấm và biện pháp
phòng trừ hiệu quả, chúng tôi tiến hành đề tài: “Điều tra, nghiên cứu tình hình
bệnh nấm hại lạc vụ thu 2014 tại Ninh Bình; biện pháp phòng trừ một số bệnh
hại chính ”.
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
* Mục đích
Điều tra xác định thành phần, đặc điểm phát sinh, phát triển và gây hại của
bệnh nấm chính hại lạc tại Ninh Bình. Khảo sát một số biện pháp phòng trừ bệnh
hại chính trên cây lạc.
* Yêu Cầu
- Điều tra thành phần và diễn biến một số bệnh nấm hại lạc vụ thu năm 2014
tại Yên Mô - Ninh Bình.
- Giám định thành phần nấm bệnh gây hại trên các mẫu hạt giống lạc thu
thập tại các huyện Yên Khánh, Yên Mô của tỉnh Ninh Bình.
- Theo dõi ảnh hưởng của biện pháp bón vôi, chế phẩm nấm BIMA đến sự
phát triển của nấm gây bệnh héo rũ gốc mốc đen và nấm gây bệnh héo rũ gốc mốc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

trắng hại lạc và một số chỉ tiêu sinh trưởng của giống lạc L27.

- Theo dõi ảnh hưởng của các biện pháp sinh học: dịch chiết từ sả, tỏi đến sự
phát triển của nấm gây bệnh héo rũ gốc mốc đen ở giống lạc L27 và chỉ tiêu chiều
cao cây của lạc giai đoạn 7 lá trong điều kiện chậu vại.
- Tìm hiểu khả năng ức chế nấm bệnh hại hạt giống lạc L27 của một số dịch
chiết thực vật từ cây sả và từ củ tỏi.




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
1.1.1. Nghiên cứu thành phần bệnh trên lạc
Nhiều bệnh nấm hại lạc được biết đến (Jackson và Bell 1969; Garren và
Jackson 1973) và nhiều loại nấm được báo cáo là có liên kết chặt chẽ với cây lạc và
hạt giống. một số các bệnh bị giới hạn bởi phân bó nhưng hầu hết là xảy ra phổ biến
ở vùng nhiệt đới bán khô hạn (SAT) (Subrahmanyam et al).
Bệnh hại là khó khăn lớn đối với sản suất lạc của các nước trên thế giới.
Bệnh hại lạc gây ra bởi 31 nấm, 2 vi khuẩn, 9 virus, 1 mycoplasma và loài tuyến
trùng thực vật.
Lạc bị tấn công bởi một số bệnh do nấm và vi khuẩn. Tuy nhiên, chỉ có một
trong số đó là rất quan trọng về mặt kinh tế. Trong số những bệnh quan trọng về
kinh tế, lây lan rộng hơn những bệnh khác. Ba bệnh nấm trên lá là:
- Đốm đen [Cercosporidium personatum (Berk. & Curt.) = Phaeoisariopsis
personata (Berk. & Curt.) v. arx],
- Đốm nâu (Cercospora arachidicola Hori).
- Gỉ sắt (Puccinia arachidis Speg.).

Trong số các nấm gây bệnh trong đất phổ biến nhất là:

- Mốc vàng (Aspergillus flavus Link ex Fries)
- Aspergillus parasiticus Speare.

- Héo rũ gốc mốc trắng (Sclerotium rolfsii Sacc.)

Các lây nhiễm bởi Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus và hậu quả
nhiễm độc aflatoxin của lạc đặt ra một cách nghiêm túc bởi vấn đề chất lượng có
ảnh hưởng đến các sản phẩm của lạc trong thương mại, và sức khỏe con người và
động vật. Sclerotium rolfsii gây thối gốc và vỏ. (Singh et al, 1997).

Lạc cung cấp cả lợi ích dinh dưỡng và kinh tế cho khu vực nơi nó được phát
triển của thế giới. Tuy nhiên, sản lượng cây trồng và lợi nhuận tài chính đang bị đe
dọa bởi hàng năm bệnh phá hoại. Trong số đó, bệnh nấm hại lạc phổ biến và tàn phá
nhất là những bệnh đốm lá: bệnh đốm nâu gây ra bởi Cercospora arachidicola Hori
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

và đốm đen do Cercosporidium personatum (Berk. & MA Curtis) Deighton. Cả hai
bệnh đốm lá gây rụng lá dẫn đến quả bị tách rời khi thu hoạch và giảm sản lượng
(Gremillion et al, 2011).

Một số bệnh ở trong đất xảy ra thường xuyên tại ICRISAT nhưng ở tỷ lệ
thấp. chúng bao gồm các bệnh như bệnh héo do các loài nấm Fusarium, bệnh thối
đen rễ gây ra bởi nấm Macrophomina phaseolina (Tassi) Goid, bệnh lở cổ rễ do
nấm Rhizoctonia solani Kuehn gây ra, bệnh héo rũ gốc mốc trắng do nấm
Sclerotium rolfsii Sacc. (Subrahmanyam et al).

Nấm bệnh hại lạc thường được chia làm 3 nhóm chính dựa vào bộ phận gây

hại trong các giai đoạn sinh trưởng khác nhau.
- Nhóm bệnh héo rũ gây chết cây
- Nhóm bệnh hại lá
- Nhóm bệnh hại quả, hạt
1.1.1.1. Nhóm bệnh héo rũ gây chết cây
Có thể nói, nhóm bệnh héo rũ gây chết cây hại lạc là một trong những nhóm
bệnh nguy hiểm. Những cây bị nhiễm bệnh phần lớn bị héo và chết, nếu còn sống
sót thì cho năng suất thấp, chất lượng kém.
Cũng vì thế mà có những nghiên cứu về nhóm bệnh này cách đây hàng
thế kỷ .
Có thể tóm tắt một số nấm gây bệnh héo chết cây hại lạc như sau:
a) Bệnh héo rũ gốc mốc đen lạc do nấm Aspergillus niger Tiegh
Nấm Aspergillus niger gây ra hiện tượng thối hạt, lạc chết mầm và chết héo
cây con trong vòng 30 ngày sau trồng. Trên vết bệnh, sợi nấm và cành bào tử phân
sinh thường được quan sát thấy ở vùng cổ rễ và xuất hiện rất nhanh sau khi hạt nẩy
mầm. Sợi nấm xâm nhập trực tiếp vào cổ rễ, đoạn thân ngầm sát mặt đất làm cho
biểu bì, vỏ thân bị nứt rạn, thâm đen, thối mục, làm cho cây bị héo rũ, chết khô.
Aspergillus niger tồn tại trong đất, trên hạt giống với tỷ lệ hạt bị nhiễm bệnh
lên tới 90%. Nấm bệnh truyền qua đất và có khả năng phát triển mạnh trong điều
kiện biến động lớn của độ ẩm đất, chất lượng hạt giống kém và tỷ lệ sát thương
cao. Độc tố do nấm sản sinh gây ra ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây như rễ quăn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

xoắn, biến dạng ngọn, thậm chí cả các axit béo tự do trong hạt cũng chứa độc tố.
Nấm Aspergillus niger là loài nấm đất gây bệnh héo rũ trên hạt đồng thời là
nấm hại hạt điển hình. Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về nấm Aspergillus
niger, người ta đã phân lập được 37 loài gây hại trên thực vật.
b) Bệnh héo rũ gốc mốc trắng do nấm Sclerotium rolfsii Sacc
Sclerotium rolfsii Sacc gây hại phổ biến ở các vùng trồng lạc trên thế giới.

Thối gốc và thối củ gây khó khăn lớn đối với sản suất lạc ở một số nước châu Á,
châu Phi, châu Mỹ. Thiệt hại năng suất do nó gây ra là trên 25% đã được báo cáo từ
Ấn Độ (Singh et al, 1997).
Sclerotium rolfsii Sacc là loài nấm có phổ kí chủ rộng, có khả năng lây
nhiễm trên 500 loài cây ký chủ thuộc lớp một lá mầm và hai lá mầm, đặc biệt là trên
những cây thuộc các họ đậu đỗ, bầu bí, cà và một số loài rau trồng luân canh với
cây họ đậu. Nhiều nghiên cứu về nấm cho thấy: Sclerotium rolfsii có khả năng sản
sinh ra một lượng lớn axit oxalic. Độc tố này xâm nhập làm biến đổi màu ở trên hạt
và gây nên những đốm chết hoại trên lá ở giai đoạn đầu phát triển bệnh. Sclerotium
rolfsii có sợi nấm màu trắng phát triển mạnh, trên vết bệnh hình thành hạch nấm
màu trắng khi non, và khi già có màu nâu, đường kính hạch nấm từ 1 – 2 mm. Hạch
nấm không chỉ tồn tại trên cây, quả, hạt, đất trồng lạc mà còn có mặt trên tàn dư của
các cây trồng khác. Đặc biệt hạch nấm có thể tồn tại lâu dài trong tầng đất canh tác.
Sức sống của hạch trong đất là 56 - 73% sau 8 - 10 tháng.

Tuyến trùng u sưng rễ Meloidogyne arenaria và bệnh héo rũ gốc mốc trắng
(Sclerotium rolfsii) là các bệnh hại trong đất hạn chế năng suất của cây lạc. Thiệt
hại từ các bệnh này có thể trở nên nghiêm trọng trong sản xuất thâm canh của cây
lạc ở các vùng có mật độ cao các tác nhân gây bệnh (R. Rodríguez-Kábana, 1994).

c) Bệnh héo do nấm Fusarium spp.
Nấm Fusarium spp. có mặt ở khắp các vùng trồng lạc trên thế giới. Có 17
loài Fusarium đã được phân lập từ đất trồng lạc, nhưng chỉ 6 trong số 17 loài gây
bệnh cho lạc.
Tập đoàn nấm Fusarium spp. có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau và
rất dễ nhầm với triệu chứng bệnh do các nguyên nhân khác gây ra. Ở trên cây, nấm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

Fusarium spp. xâm nhiễm làm cho rễ và trụ dưới lá mầm bị biến màu xám, mọng

nước. Cây con bị nhiễm bệnh sẽ bị ức chế sinh trưởng, chóp rễ bị hoá nâu, dẫn đến
bị thối khô do Fusarium solani. Khi cây trưởng thành Fusarium oxysporum gây
triệu chứng thối rễ làm cho cây bị héo từ từ hoặc héo rũ, lá cây chuyển màu vàng
hoặc xanh xám, đôi khi lá bị rụng trước khi chết, bó mạch và rễ bị thâm nâu
Fusarium spp. tồn tại trong đất và trên tàn dư thực vật, bào tử hậu được sinh
ra ở dạng chuỗi hoặc đơn lẻ có khả năng tồn tại lâu dài.
d) Bệnh lở cổ rễ (Rhizoctonia solani Kũhn)
Bệnh có phân bố trên toàn thế giới. Bệnh phát triển nhanh hơn bởi nguồn
bệnh trong hạt giống hoặc trong tàn dư thực vật tồn tại ở trong đất. Bệnh xuất hiện
trên cây giống, tổn thương này thường quan sát thấy trên thân ngầm lõm, thon dài,
bề mặt màu nâu đen tối chỉ ở phần bên dưới bề mặt đất. các tổn thương lan rộng,
biến dần thành mầu đen, và bị tróc vỏ thân ngầm dẫn đến làm mất triệu chứng điển
hình. Tương tự tổn thương phát triển trên rễ và mở rộng đến toàn bộ hệ thống rễ dẫn
đến khô thối rễ. Bề mặt vết bệnh mục nát thường được bao phủ bởi sợi nấm mầu
nâu sáng mờ. Màu nâu sẫm, có kích thước đầu kim và hạch nấm có thể phát triển
trên các mô chết (Subrahmanyam et al, 1992).
Trong những năm gần đây, bệnh do nấm Rhizoctonia solani gây ra tương đối
nguy hiểm đối với các vùng trồng lạc trên thế giới. Ở miền nam nước Mỹ , lở cổ rễ
lạc đã trở thành một vấn đề cấp bách. Hàng năm ở Geogia (Mỹ ) thiệt hại do bệnh
gây ra ước tính khoảng hơn 1 tỷ. Theo những nghiên cứu ở Scotland, Rhizoctonia
solani có khả năng truyền qua hạt giống lạc với tỷ lệ 11%, còn ở Mỹ tỷ lệ này lên
tới 30%.
Rhizoctonia solani sản sinh ra một lượng lớn enzym cellulilitic, pectinolitic và các
độc tố thực vật. Đây chính là nguyên nhân gây ra bệnh thối hạt làm chết cây con,
thối lá mầm, thối rễ, thối tia củ và gây cháy lá lạc khi nấm này xâm nhập vào cây.
Nấm Rhizoctonia solani cùng với Fusarium spp. gây ra bệnh chết vàng lạc,
làm cho cây con héo vàng từ từ, ở phần gốc thân biến mầu nâu và có thể làm cho lớp
vỏ thân cây hơi bị nứt. Rhizoctonia solani là loài nấm đất, sản sinh ra nhiều hạch nấm
trên mô cây kí chủ, chúng tồn tại trong đất và nẩy mầm khi được kích thích bởi
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8

những dịch rễ cây ký chủ bị bệnh hoặc việc bổ sung chất hữu cơ vào trong đất.
Ngoài truyền bệnh qua đất, tàn dư cây trồng Rhizoctonia solani còn có khả
năng truyền qua hạt giống.
1.1.1.2. Nhóm bệnh hại quả hạt
Lịch sử nghiên cứu bệnh hại hạt giống phát triển sớm gắn liền với lịch sử
nghiên cứu bệnh cây Cùng với sự phát triển của công tác kiểm nghiệm và kiểm tra
sức khoẻ hạt giống, bệnh hại hạt giống ngày càng được chú trọng ở hầu khắp các
nước trên thế giới. Trong các bệnh truyền qua hạt giống, nhóm bệnh nấm chiếm đa
số, đặc biệt là ở những vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Có khoảng 29 loại bệnh hại truyền qua hạt lạc trong đó bệnh nấm hại chiếm
khoảng 17 loại. Các loại nấm hại hạt đó đầu tiên phải kể đến: Aspergillus niger,
Aspergillus flavus, Sclerotium rolfsii, Botrytis sp.,Diplodia sp, Fusarium spp.,
Macrophoma phaseolina, Rhizoctonia,….
Các loại nấm gây hại trên thường kết hợp gây hại trên hạt. Có những loài
không chỉ gây hại trên hạt giống mà còn truyền qua hạt giống gây hại cho cây con.
Trong số nấm bệnh hại hạt lạc có 2 loài nguy hiểm nhất là: Aspergillus flavus
Link, Aspergillus paraciticus Speare gây ra hiện tượng mốc vàng lạc.
a) Bệnh mốc vàng (Aspergillus flavus)
Bệnh có phân bố trên toàn thế giới. Sự nhiễm bệnh mốc vàng và hậu quả của
nhiễm độc aflatoxin của lạc dã đặt ra một vấn đề chất lượng nghiêm trọng trên toàn
thế giới (Singh et al, 1997).
Triệu chứng mà bệnh gây ra trong môi trường đất ẩm hạt giống có thể bị tấn
công và bị nhiễm bệnh. Nếu hạt mà không được loại bỏ cẩn thận từ đất thì chúng có
thể bị bao phủ bởi khối bào tử màu đen, cái mà sinh ra cho chúng đầy bồ hóng. Sau
đó mầm bệnh thường lên đến đỉnh điểm trong khi cây chết và phân hủy của cây con.
Triệu chứng đầu tiên xuất hiện ở cây con nổi bật thường là làm toàn bộ cây con khô
nhanh. Mô bị ảnh hưởng được bao phủ bởi các bào tử nấm màu vàng hoặc màu
xanh bề mặt đất. Cây giống nhiễm bệnh thường xẩy ra ở khu vực thân ngầm trong

thời gian ngắn sau khi xuất hiện. Thương tổn phát triển trên thân cây chỉ ở dưới mặt
đất và khi đó chúng lây lan lên các cây khác. Trên trưởng thành triệu chứng thường
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

không quan sát được cho đến khi một số cây chết héo hoặc toàn bộ cây con đang
héo rõ ràng. Các cây và các nhánh chết khô được tách ra dễ dàng từ khu vực thân bị
phân hủy (Subrahmanyam et al, 1992).
Khi bệnh tiến triển, toàn bộ gốc thân trở thành màu nâu sẫm và dễ gãy. Hạt
giống và cây con bị nhiễm bệnh cổ rễ có màu nâu đậm hoặc màu đen, mô mục rữa
bao phủ bởi bào tử nấm và hệ sợi nấm. Nấm biến đổi màu sắc tùy thuộc vào từng
loài. Sự thối hạt diễn ra nhanh nhất khi hạt giống bị bệnh được gieo xuống đất vì
nấm từ hạt giống hoạt động ngay sau khi hạt giống hút nước. Vi khuẩn cũng có
trong hạt giống thối rữa nhưng thường vi sinh vật thứ cấp sau khi hạt giống bị tấn
công bởi nấm (Subrahmanyam et al, 1992).
Sự nhiễm bệnh mốc vàng chủ yếu xảy ra trước khi thu hoạch cây trồng ở
vùng bán nhiệt đới khô hạn, đặc biệt vào cuối vụ ở điều kiện hạn hán. Trong khu
vực ẩm ướt và ẩm thấp bệnh chủ yếu xảy ra sau thu hoạch.
1.1.1.3. Nhóm bệnh hại lá
Trong nhóm bệnh này thì phổ biến nhất là bệnh đốm đen, đốm nâu và gỉ
sắt gây hại phổ biến ở các vùng trồng lạc trên thế giới. Khi nhiễm nhẹ ít ảnh hưởng
đến năng suất, tuy nhiên một số nơi bệnh nặng thiệt hại về năng suất lên tới 70%,
đặc biệt là khi các bệnh này xuất hiện kết hợp với nhau.
a) Bệnh gỉ sắt Puccinia arachidis Speg

Puccinia arachidis Speg có thể gây ra thiệt hại năng suất về củ vượt quá
50% (Subrahmanyam & McDonald, 1987). Tuy nhiên, khi bệnh xuất hiện cùng với
các bệnh đốm lá thì thất thoát trong năng suất về củ có thể cao lên đến 60 – 70%
(Singh et al, 1997).
Triệu chứng: Ổ nấm có màu da cam xuất hiện ở mặt dưới của lá non, bào tử

hạ có màu nâu đỏ. Ở những giống lạc mẫm cảm, vết bệnh ban đầu có thể được bao
quanh bởi những vết bệnh nhỏ. Chúng có thể xuất hiện sau đó ở mặt trên của lá non,
đối diện với những nốt ở mặt dưới. Những thương tổn có thể hình thành ở tất cả các
bộ phận của cây, trừ hoa. Vết bệnh ở thân thường kéo dài ra. Đối lập với sự rụng lá
nhanh chóng do đốm lá, những lá bị bệnh gỉ sắt trở nên hoại tử và khô héo nhưng
lại có xu hướng bám chặt vào cây. Bệnh gỉ sắt thường xuất hiện cùng thời gian với
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

thời kì sau của bệnh đốm lá (Subrahmanyam et al, 1992).
Trước đó bệnh gỉ sắt không được coi là quan trọng ở những khu vực bên
ngoài châu Mỹ (Bromfield 1971), hiện nay bệnh gỉ sắt có tầm quan trọng kinh tế tại
hầu hết các khu vực đang phát lạc của thế giới (Hammons 1977; Subrahmanyam et
al. 1979). Thiệt hại năng suất do bệnh gỉ sắt gây ra có thể đáng kể và thiệt hại đặc
biệt nghiêm trọng nếu nơi đó hoa màu bị tấn công bởi cả bệnh gỉ sắt và các bệnh
đốm lá do Mycosphaerella (Subrahmanyam et al).

Nấm bệnh gây hại làm giảm chất lượng, kích thước hạt và làm giảm hàm
lượng dầu trong hạt. Nấm gây hại trên tất cả các bộ phận trên mặt đất của cây trừ
hoa. Vết bệnh trên lá là những ổ nổi màu vàng nâu, màu gỉ sắt, xung quanh có
quầng nhạt.
Bào tử của nấm gỉ sắt có thể được lưu trữ trong thời gian dài tại nhiệt độ thấp
mà không mất khả năng tồn tại, nhưng ở nhiệt độ cao nó lại nhanh chóng bị mất đi
khả năng tồn tại. Ví dụ, khi lưu trữ ở 40°C nó mất khả năng tồn tại trong vòng 5
ngày. Bào tử trên các mảnh vụn cây trồng mất tất cả khả năng tồn tại trong vòng 4
tuần khi tiếp xúc với các điều kiện sau thu hoạch tại ICRISAT. Quả và hạt cây trồng
bị ảnh hưởng bởi nấm gỉ sắt thì thường bề mặt bị nhiễm bào tử nấm gỉ sắt. Bệnh gỉ
sắt đặc biệt nghiêm trọng ở miền Nam Ấn Độ, nơi lạc là phát triển ở một số khu vực
ở tất cả các thời điểm trong năm. Ánh sáng có thể ức chế bào tử của nấm gỉ sắt
(Subrahmanyam et al).

b) Bệnh đốm nâu hay còn gọi là bệnh đốm lá sớm (Cercospora arachidicola Hori)
Bệnh đốm nâu phân bố trên toàn thế giới, là một trong ba bệnh trên lá
nghiêm trọng nhất ở một số quốc gia ở Nam Phi và ở Mỹ. Năng suất tổn thất do
bệnh đốm nâu có thể lớn hơn 50% (Singh et al, 1997).
Bệnh đốm nâu có những triệu chứng điển hình là: Vết bệnh có hình tròn nhỏ,
nâu sẫm ở mặt trên của lá non và có màu nâu sáng hơn ở mặt dưới của lá non, xung
quanh có quần vàng, trên vết bệnh thường hình thành các bào tử. Các bào tử chủ
yếu xuất hiện ở các mô hoại tử của thương tổn ở mặt trên lá non. Những thương tổn
cũng xảy ra ở cuống lá, thân lá, lá kèm và PEG ; từ hình oval chúng kéo dài ra và
có đường viền rõ ràng hơn ở lá non. Khi bệnh tấn công mạnh, những lá bị bệnh trở
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

nên úa vàng, sau đó bị họai tử và những thương tổn thường hợp lại với nhau dẫn
đến lá bị rụng sớm (Subrahmanyam et al, 1992).
Bệnh đốm nâu hại chủ yếu ở lá, rất ít khi hại cuống lá và thân cành. Mặt lá
vết bệnh hình tròn đường kính biến động nhiều từ 1-10 mm, có màu vàng nâu, xung
quanh có quầng vàng rộng. Trên vết thường có lớp mốc màu xám. Mặt dưới lá vết
bệnh có màu nhạt hơn. Trên cuống lá và thân cành vết bệnh hình bầu dục màu nâu
sẫm. Trong quá trình sâm nhiễm gây hại nấm Cercospora arachidicola còn sản sinh
độc tố Cercospora làm lá già cỗi, chóng tàn và khô rụng sớm.
Giai đoạn sinh sản vô tính của nấm Cercospora arachidicola cụm cành bào
tử phân sinh màu nâu tối đường kính 25 – 100 µm. Cành bào tử phân sinh màu tím
nhạt hoặc màu nâu vàng tập trung thành từng cụm, màu đậm ở chân và tập trung
thành cụm cành kích thước 15 - 45 x 3 - 6 µm. Bào tử phân sinh gồm 1 - 12 ngăn
ngang màu đậm hơi thon và thon ở đỉnh.
Nguồn bệnh tồn tại chủ yếu trên tàn dư cây bệnh, nằm trong đất, đôi khi bào
tử túi, bào tử hậu và sợi nấm cũng là nguồn xâm nhiễm. Bào tử phân sinh có thể lan
truyền nhờ gió, mưa. Nhiệt độ để nấm hình thành bào tử là 25 – 31
0

C
c) Bệnh đốm đen [Cercosporidium personatum (Berk. & Curt.) = Phaeoisariopsis
personata (Berk. & Curt.) v. arx].
Bệnh xuất hiện muộn và tương đối giống với triệu chứng của bệnh đốm nâu
nên còn được gọi là bệnh đốm lá muộn (Late leaf spot).
Bệnh đốm đen có thể gây ra thiệt hại về sản lượng củ lên đến 55% (Singh et
al, 1997).
Đốm lá là những loại bệnh nghiêm trọng nhất của lạc trên quy mô toàn cầu.
Hai loài nấm thường tham gia là Cercospora arachidicola Hori gây bệnh đốm nâu,
và Phaeoisariopsis personata (Berk.& Curt.) V. A r x 1 gây bệnh đốm đen. Bệnh
còn được gọi là đốm lá Mycosphaerella, đốm lá Cercospora, đốm nâu,
cercosporiosis đậu phộng, viruela, và tikka. Đốm lá gây hại cho cây trồng do làm
giảm diện tích quang hợp của lá, do hình thành tổn thương và gây rụng lá. Trên thế
giới, bệnh làm sản lượng giảm khoảng từ 10% đến hơn 50%, nhưng khác nhau đáng
kể từ nơi này đến nơi và giữa các mùa. Thiệt hại năng suất thường đáng kể khi các
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

vụ tấn công bằng cả hai bệnh đốm lá và bệnh gỉ sắt (Puccinia arachidis Speg.).
Cả hai bệnh đốm nâu và đốm đen thường gây hại phổ biến ở các vùng trồng
lạc. Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh và mức độ nghiêm trọng của từng bệnh khác nhau giữa
các địa phương và các mùa trong năm, và có thể có cả biến động ngắn hạn và dài
hạn trong tỷ lệ tương đối của chúng (McDonald et al, 1985).
Triệu chứng: Khi quan sát mặt dưới lá non, chấm đen trên lá ở thời kì sau
chuyển sang gần tròn và đậm hơn so với trước. Ở mặt dưới của lá non, hầu hết sự
hình thành bào tử diễn ra ở đây, có màu đen và hơi ráp. Nấm trên vết bệnh ở mặt
dưới lá non có thể nhìn thấy nhờ sự hỗ trợ của kính lúp. Những thương tổn đốm lá ở
thời kì sau có thể được phân biệt với thời kì trước qua màu sáng hơn và có thể được
bao quanh bằng một quầng úa vàng. Khi bệnh tấn công mạnh, những lá bị bệnh trở
nên úa vàng, sau đó bị hoại tử và những thương tổn thường hợp lại với nhau dẫn

đến lá bị lão hóa sớm và rụng xuống. Những thương tổn hình oval kéo dài ra tương
tự như thương tổn ở đốm lá trước đó cũng xảy ra ở cuống lá, thân lá, lá kèm và
PEG. Sự tấn công của những vết đốm ở thời kì sau thường trùng khớp với ở bệnh gỉ
sắt (Subrahmanyam et al, 1992).
Bệnh trở nên đặc biệt nguy hiểm khi có sự gây hại đồng thời của bệnh gỉ sắt.
Vết bệnh của bệnh đốm nâu gây ra có quầng vàng, bào tử phân sinh hình thành ở
mặt trên của lá, vết bệnh của bệnh đốm đen không có quầng vàng, bào tử phân sinh
hình thành ở mặt dưới của lá. Đôi khi vết bệnh có thể nhầm lẫn với vết thương do
cây bị ngộ độc thuốc hoá học.
Bệnh đốm lá lạc phát sinh, phát triển mạnh trong diều kiện nhiệt độ tương
đối cao, trời ẩm ướt, vào cuối giai đoạn sinh trưởng của cây lạc. Nấm Cercospora
spp. sản sinh ra độc tố Cercosporin làm trì hoãn hoạt động của lá và gây hiện tượng
rụng lá sớm. Trong giai đoạn sinh sản hữu tính, nấm tạo quả thể bầu. Đây chính là
dạng bảo tồn qua đông của nấm trong đất và tàn dư cây bệnh.
Bào tử nấm C. arachidicola phát triển ở nhiệt độ 20 – 24
0
C, độ ẩm tương đối
cao trên 90%. Nếu nhiệt độ trên 19
0
C và độ ẩm trung bình đạt 95% dịch bệnh phát
sinh trong thời gian dài. Bào tử nảy mầm hình thành ống mầm đi vào khí khổng mở
hoặc xuyên qua lớp biểu bì lá. Ở điều kiện không thuận lợi vết bệnh có thể phát
triển trong 6 - 8 ngày.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

d) Bệnh đốm lá do nấm Alternaria alternata
Bệnh gây ra những triệu chứng như: Những đốm bất thường từ màu nâu sáng
đến đậm xuất hiện về phía đầu hoặc mép lá. Chúng nhanh chóng mở rộng và hợp lại
với nhau để tạo nên những thương tổn có hình nêm. Vết bệnh bị úa vàng rõ rệt

thường phát triển dọc theo mép của mô hoại tử. Ở các giai đoạn sau của quá trình
phát triển bệnh, những vùng bị bệnh chuyển sang màu nâu đậm, giòn và dễ bị vỡ.
Lượng lớn bào tử màu tối xuất hiện ở các mô hoại tử. Sự rụng lá xuất hiện khi bị
bệnh nặng.
Những triệu chứng cháy lá giống với những triệu chứng gây ra bởi nấm
Leptosphaerulina crassiasca và Colletotrichum spp, và thường khó phân biệt các
bệnh này với nhau trên đồng ruộng. Nấm Alfernaria alternata cũng gây ra bệnh đốm
lá và bệnh hoại tử gân lá như đã miêu tả ở trên (Subrahmanyam et al, 1992).
e) Bệnh cháy lá (Pestalotropsis arachidis Satya)
Bệnh do nấm Pestalotiopsis arachidis Satya gây ra. Nó được thông báo xuất
hiện ở một số nước như: Ấn Độ, Nigeria và Thái Lan.
Triệu chứng: Vết bệnh là những thương tổn hình tròn màu nâu đậm được bao
quanh bởi những quầng vàng nhạt xuất hiện ở lá bị bệnh. Những thương tổn mở
rộng và hợp lại với nhau gây ra bệnh hoại tử nặng cho lá non, đặc biệt là ở mép lá.
Những quả thể hình cầu màu đen cực nhỏ nhìn thấy qua kính lúp có thể được tìm
thấy ở giữa những thương tổn hoặc ở trong những khu vực bị bệnh.
Triệu chứng của bệnh này giống với triệu chứng của bệnh đốm nâu, trừ
đường viền màu vàng bao quanh khu vực bị bạc lá là khó thấy hơn (Subrahmanyam
et al, 1992).
1.1.2. Những nghiên cứu về biện pháp sinh học phòng trừ nhóm nấm gây hại
Các nghiên cứu về biện pháp sinh học đối với vật gây bệnh cây được tiến
hành muộn hơn cả. Từ năm 1908 đã có tác giả chứng minh được rằng hoạt tính của
vi sinh vật gây bệnh cây có thể ức chế được bằng các sản phẩm trao đổi chất của
chính nó.
Hiện tượng nấm Trichoderma ký sinh trên nấm Rhizoctonia solani,
Phytophthora parasitica, Sclerotium rolfsii được Weindling mô tả năm 1932 và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

chính tác giả này đã đề xuất sử dụng hiện tượng nấm ký sinh nấm gây bệnh cây để

phòng chống bệnh hại cây trồng. Drechsler nghiên cứu hiện tượng nấm ký sinh nấm
và nấm ăn tuyến trùng từ những năm 1937-1938. Sau đó hàng loạt các nghiên cứu
sử dụng nấm ký sinh nấm gây bệnh trong phòng chống bệnh hại cây được tiến hành.
(Nguyễn Văn Đĩnh và cs, 2004) [4]
Đến cuối thế kỷ 20, biện pháp sinh học được nghiên cứu và ứng dụng đối với
những bệnh hại quan trọng trên cây lúa nước, lúa mì, bông, thuốc lá, lạc, mía, đậu
tương, cà chua, táo, cây qủa có múi.
Trong nhóm nấm đối kháng có rất nhiều loại, nhưng nhóm nấm Trichoderma
spp. được chú ý nghiên cứu rộng rãi ở rất nhiều nước trên thế giới nhằm sử dụng
chúng trong phòng trừ một số nấm gây bệnh hại cây trồng.
1.1.2.1. Nấm Trichoderma
Nấm Trichoderma đã được phát hiện là những thành viên phổ biến của
những thành viên của hệ vi sinh vật đất, chúng phân bố phụ thuộc vào vùng địa lý,
kiểu đất, điều kiện khí hậu và thảm thực vật. Nhóm nấm này có khả năng đối kháng
với các vi sinh vật khác thông qua việc tiết ra các chất kháng sinh, men rượu các
chất có hoạt tính sinh học cao tạo khả năng ức chế các nấm dịch hại cây trồng như
Rhizoctonia , Sclerotium, Verticillium. Đến nay nhiều nước châu Âu đã nghiên cứu
sản xuất và sử dụng nấm Trichoderma để phòng chống hơn 150 loài vi sinh vật gây
bệnh hại trên 40 loại cây trồng khác nhau (Nguyễn Văn Đĩnh và cs, 2004).
Ở Hungari, Liên Xô (cũ), Philippin và Thái Lan đã nghiên cứu nấm
Trichoderma và sản xuất chế phẩm sinh học này để hạn chế những nấm tồn tại
trong đất gây hại cho cây trồng nói chung, như nấm Rhizoctonia, Sclerorium,
Fusarium, Pythium, Verticillium và Botrytis…(Nguyễn Văn Đĩnh và cs, 2004).
1.1.2.2. Chế phẩm sinh học phòng trừ bệnh cây từ dịch chiết thực vật
Năm 1957, ở Hà Lan lần đầu tiên người ta phát hiện ra hoạt động đối kháng
của cây cúc vạn thọ đối với tuyến trùng gây tổn thương rễ hại cây trồng. Ở Nhật
Bản, qua nhiều thử nghiệm ứng dụng cây cúc vạn thọ trong phòng trừ tuyến trùng
hại rễ cây trồng đều cho kết quả tốt. Đây được coi như là một biện pháp phòng trừ
tuyến trùng lý tưởng trong sản xuất nông nghiệp bền vững và được áp dụng như
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 15

một thói quen ở nhiều vùng sản xuất rau của Nhật Bản.
Một số loại cây khác như yến mạch, cỏ guinea,….cũng được sử dụng để trừ
tuyến trùng gây tổn thương rễ và tuyến trùng nốt sần nhờ tính đối kháng của
chúng.Năm 2001 nhóm tác giả của trường Đại học Kampus Bukin Jimbaran
Inđônêxia đã phát hiện ra rễ gừng và lá đu đủ có tác dụng hạn chế sự phát triển của
nấm Ceratocystis sp gây thối quả. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự phát triển
của nấm Ceratocystis sp. trên môi trường PDA ( Potato dextrose agar) có bổ sung
5% dịch chiết thô sẽ bị giảm 92,5% (đối với dịch chiết là rễ gừng), bị giảm 73,3%
(đối với dịch chiết là lá đu đủ). Sự phát triển của nấm Ceratocystis sp. cũng bị giảm
rõ ràng khi ta cấy dịch chiết trên vào thịt quả trước sự xuất hiện của nấm. Điều này
đã làm tăng thời hạn sử dụng của quả lên rất nhiều kể cả trong điều kiện tự nhiên và
điều kiện nhân tạo. Năm 2001 - 2002 Viện nghiên cứu bệnh hại hạt giống ở Đan
Mạch đã có một số kết quả nghiên cứu sử dụng tinh dầu thực vật để xử lý hạt giống
cho kết quả tốt.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2.1. Nghiên cứu thành phần bệnh hại lạc
Tập đoàn bệnh hại lạc ở Việt Nam khá phong phú và đa dạng với các mức độ
hại khác nhau tùy từng loại bệnh. Ở Hà Nội và phụ cận, bệnh hại hạt giống lạc đã
xác định được 17 loài nấm thuộc 5 bộ và 1 loài vi khuẩn thuộc Bộ Pseudomonadles
(Nguyễn Kim Vân, 2006).
- Nấm Alternaria alternata thuộc bộ Hyphales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà
Nội, Thanh Hóa, Nghệ An là < 10%.
- Nấm Aspergillus niger thuộc bộ Hyphales : có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà Nội
là từ 10 – 25%, Thanh Hóa từ 26 – 50%, Nghệ An là > 50%.
- Nấm Aspergillus flavus thuộc bộ Hyphales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà Nội,
Thanh Hóa, Nghệ An là từ 10 – 25%.
- Nấm Aspergillus parasiticus thuộc bộ Hyphales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà
Nội, Thanh Hóa < 10%, Nghệ An là 10 – 25%.

- Nấm BotryoDiplodia theobromae thuộc bộ Sphaeropsidales: có tỷ lệ hạt
nhiễm ở Hà Nội là không nhiễm, Thanh Hóa <10%, Nghệ An là không nhiễm.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

- Nấm Botrytis cinerea thuộc bộ Hyphales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà Nội,
Thanh Hóa, Nghệ An là <10%.
- Nấm Cercospora spp. thuộc bộ Hyphales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà Nội,
Thanh Hóa, Nghệ An là <10%.
- Nấm Cladosporium sp. thuộc bộ Hyphales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà Nội
<10%., Thanh Hóa là không nhiễm, Nghệ An là <10%.
- Nấm Diplodia spp. thuộc bộ Sphaeropsidales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà
Nội, Thanh Hóa, Nghệ An là <10%.
- Nấm Fusarium oxysporum thuộc bộ Tuberculariales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở
Hà Nội, Thanh Hóa <10%, Nghệ An là 26 – 50%.
- Nấm Fusarium solani thuộc bộ Tuberculariales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà
Nội, Thanh Hóa, Nghệ An là < 10%.
- Nấm Fusarium moniliforme thuộc bộ Tuberculariales: có tỷ lệ hạt nhiễm
ở Hà Nội, Thanh Hóa < 10%, Nghệ An là 10 – 25%.
- Nấm Macrophoma phaseolina thuộc bộ Sphaeropsidales: có tỷ lệ hạt
nhiễm ở Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An là < 10%.
- Nấm Penicillium spp. thuộc bộ Hyphales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà Nội là
từ 26 – 50%, Thanh Hóa từ 10 – 25%, Nghệ An là từ 26 – 50%.
- Nấm Phoma archidicola thuộc bộ Pleosporales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà
Nội, Thanh Hóa < 10%, Nghệ An là không nhiễm.
- Nấm Rhizoctonia solani thuộc bộ Myceliales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà
Nội < 10%, Thanh Hóa, Nghệ An là không nhiễm
- Nấm Sclerotium rolfsii thuộc bộ Myceliales: có tỷ lệ hạt nhiễm ở Hà Nội,
Thanh Hóa < 10%, Nghệ An là từ 10 – 25%.
- Vi khuẩn Ralstonia solanacearum thuộc bộ Pseudomonadales: có tỷ lệ

hạt nhiễm ở Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An là < 10%.
Theo Vũ triệu Mân (2007) đã liệt kê một số bệnh hại lạc phổ biến do nấm
gây ra là :
+ Bệnh héo rũ gốc mốc đen (Aspergillus niger Van Tiegh)
+ Bệnh héo rũ gốc mốc trắng (Sclerotium rolfsii Sacc.)

×