Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế quận long biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.36 KB, 84 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM






TRẦN VĂN ĐÁP




QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH CÁ THỂ
TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN LONG BIÊN



LUẬN VĂN THẠC SĨ






HÀ NỘI, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM







TRẦN VĂN ĐÁP


QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH CÁ THỂ
TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN LONG BIÊN






CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ HỮU ẢNH


HÀ NỘI, NĂM 2015

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2015
Tác giả luận văn


Trần Văn Đáp

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh của mình, ngoài sự nỗ lực
cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tập
thể, các cơ quan trong và ngoài Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Nhân dịp này, tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lê Hữu Ảnh đã
trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Kế toán - Quản trị
kinh doanh và tập thể các thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi về thời gian
cũng như kiến thức trong những năm học tập, thực hiện đề tài tại trường.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo Chi cục Thuế Quận Long
Biên đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp thông tin, số liệu cần thiết cho tôi trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài này
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến thân nhân trong gia đình đã luôn tạo điều
kiện giúp đỡ tôi về mặt vật chất, động viên về mặt tinh thần trong thời gian học tập
và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2015
Tác giả




Trần Văn Đáp
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG v
DANH MỤC SƠ ĐỒ vi
DANH MỤC VIẾT TẮT vii
1 MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ THU THUẾ
ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH CÁ THỂ 3
2.1 Cơ sở lý luận về quản lý thu thuế với hộ kinh doanh cá thể 3
2.1.1 Các khái niệm, vai trò, đặc điểm về quản lý thu thuế với hộ kinh doanh
cá thể 3
2.1.2 Nội dung quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể 13
2.2 Cơ sở thực tiễn về quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể 28
2.2.1 Kinh nghiệm quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại các Chi
cục Thuế khác 28
2.2.2 Bài học kinh nghiệm về quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể 30
3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 32

3.1.1 Khái quát tình hình kinh tế xã hội Quận Long Biên 32
3.1.2 Khái quát về Chi cục Thuế Quận Long Biên 33
3.1.3 Đặc điểm nhân sự các Đội thuế tại Chi cục Thuế Quận Long Biên 40
3.2 Phương pháp nghiên cứu 42
3.2.1 Khung phân tích 42
3.2.2 Phương pháp thu thập dữ liệu 43
3.2.3 Phương pháp phân tích dữ liệu 43
3.2.4 Các chỉ tiêu đánh giá kết quả quản lý thu thuế 43
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 45
4.1 Thực trạng thu thuế tại Chi cục Thuế Quận Long Biên 45
4.2 Thực trạng quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục
Thuế Quận Long Biên 47
4.2.1 Quản lý đối tượng nộp thuế 47
4.2.2 Quản lý thu theo các sắc thuế 51
4.2.3 Quản lý theo phương pháp nộp thuế 54
4.2.4 Quản lý miễn giảm, hoàn thuế 57
4.2.5 Quản lý nợ 58
4.3 Đánh giá chung về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể 60
4.3.1 Ưu điểm 60
4.3.2 Hạn chế 61
4.3.3 Nguyên nhân 62
4.4 Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể 63
4.4.1 Giải pháp về quản lý đối tượng nộp thuế 63
4.4.2 Giải pháp về quản lý thu theo các sắc thuế 65
4.4.3 Giải pháp quản lý theo phương pháp thu 66
4.4.4 Giải pháp quản lý miễn giảm hoàn thuế 68
4.4.5 Giải pháp quản lý nợ thuế 68

5 KẾT LUẬN 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
PHỤ LỤC 74
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1 Số lượng cán bộ, công chức Chi cục Thuế Quận Long Biên năm 2014 40
Bảng 3.2 Cơ cấu tổ chức cán bộ Chi cục Thuế Quận Long Biên 41
Bảng 4.1 Kết quả thực hiện nhiệm vụ thu NSNN 45
Bảng 4.2 Chi tiết tình hình thu NSNN theo đội thuế 46
Bảng 4.3 Thuế Thu nhập cá nhân và Giá trị gia tăng so với tổng thu của
Chi cục thuế Quận Long Biên 47
Bảng 4.4 Tổng hợp số hộ kinh doanh làm thủ tục kê khai và doanh thu dự tính 48
Bảng 4.5 Tổng hợp kết quả cấp giấy chứng nhận đăng kí mã số thuế và
mã số thuế tạm thời 49
Bảng 4.6 Thống kê số lượng hộ kinh doanh trên địa bàn Quận Long Biên
từ năm 2012 đến 2014 50
Bảng 4.7 Kết quả kiểm tra hộ nghỉ kinh doanh 51
Bảng 4.8 Thống kê số hộ kinh doanh nộp các loại thuế 52
Bảng 4.9 Kết quả thu thuế theo sắc thuế 53
Bảng 4.10 Quản lý hộ kinh doanh theo phương pháp nộp thuế năm 2014 54
Bảng 4.11 Tình hình quản lý doanh thu mức thuế đối với hộ khoán tính
bình quân tháng 55
Bảng 4.12 Kết quả điều chỉnh thuế 56
Bảng 4.13 Tình hình quản lý doanh thu mức thuế hộ kê khai tính bình quân tháng 57
Bảng 4.14 Tổng hợp kết quả miễn giảm, hoàn thuế 58
Bảng 4.15 Kết quả thu thuế hộ kinh doanh cá thể của Chi cục Thuế Quận
Long Biên 59

Bảng 4.16 Báo cáo nợ đọng hộ kinh doanh cá thể tính đến 31/12/2014 59
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 3.1 Tổ chức bộ máy Chi cục Thuế Quận Long Biên 36
Sơ đồ 3.2 Khung phân tích 42

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

DANH MỤC VIẾT TẮT

CBCC : Cán bộ công chức
CNTT : Công nghệ thông tin
CSDL : Cơ sở dữ liệu
HKD : Hộ kinh doanh
GTGT : Giá trị gia tăng
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTX : Hợp tác xã
KBNN : Kho bạc nhà nước
NNT : Người nộp thuế
NQD : Ngoài quốc doanh
NSNN : Ngân sách nhà nước
QL : Quản lý
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TCCB : Tổ chức cán bộ
TNCN : Thu nhập cá nhân
TNDN : Thu nhập doanh nghiệp

UBND : Uỷ ban nhân dân

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

1. MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước và là công cụ quan trọng
góp phần điều chỉnh, thực hiện các chính sách kinh tế và quản lý nhà nước. Chính
sách thuế có vai trò hết sức quan trọng, đòi hỏi ngành thuế phải tập trung nghiên
cứu và đề ra các biện pháp công tác cụ thể, phải tạo cho được sự chuyển biến mới,
có hiệu quả thiết thực trên các mặt công tác của mình.
Nguồn thu thuế chủ yếu đến từ các doanh nghiệp, theo số liệu hiện hành chiếm
trên 70% trên tổng thu nội địa của Ngân sách nhà nước (NSNN) hàng năm, nguồn thu
thuế từ hộ kinh doanh cá thể hiện chỉ chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn. Tuy nhiên, đây là
nguồn thu có tiềm năng do số số lượng hộ kinh doanh rất lớn và không ngừng tăng lên.
Trong những năm gần đây, cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện
đa dạng hóa các thành phần kinh tế nên hộ kinh doanh cá thể phát triển rất mạnh và đã
đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Hộ kinh doanh cá thể có nhiều ưu
thế nhưng cũng có nhiều hạn chế, khó khăn trong phát triển sản xuất kinh doanh. Do là
một đơn vị kinh tế có nhiều đặc thù, số lượng lớn và phạm vi hoạt động rộng nên công
tác quản lý nhà nước, trong đó có quản lý thuế đối với thành phần kinh tế này cũng có
nhiều khó khăn và phức tạp.
Thời gian qua công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể có
nhiều chuyển biến tích cực như đã nâng cao được ý thức tuân thủ pháp luật thuế của
các hộ kinh doanh, hạn chế thất thu, tăng thu cho ngân sách. Tuy nhiên, nguồn thu
thuế từ hộ kinh doanh cá thể có thể khai thác được để đạt mức cao hơn nữa. Tình
trạng thất thu tuy có giảm nhưng vẫn còn tình trạng quản lý không hết hộ kinh
doanh, doanh thu tính thuế không sát thực tế, dây dưa nợ đọng thuế còn nhiều Vì

vậy, vấn đề mang tính cấp thiết đặt ra cho ngành thuế là phải tìm cho được các giải
pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
Xuất phát từ những thực tế trên, việc nghiên cứu để tìm giải pháp tăng cường
công tác quản lý thu thuế đối với các hộ kinh doanh (HKD) tại Chi cục Thuế Quận Long
Biên là vấn đề quan trọng và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Với những nội dung

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

phân tích trên đây, tôi chọn nội dung "Quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
tại Chi cục Thuế Quận Long Biên" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Phân tích thực trạng quản lý thuế đối với hộ kinh doanh để từ đó đưa ra giải pháp
nhằm tăng cường công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục Thuế
Quận Long Biên.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và tổng kết thực tiễn về quản lý thu
thuế với hộ kinh doanh cá thể.
- Đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân tồn tại về quản lý thu thuế với
hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục Thuế Quận Long Biên
- Đề xuất giải pháp quản lý thu thuế với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục
Thuế Quận Long Biên
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề liên quan đến công tác quản lý thu
thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục Thuế Quận Long Biên.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: Nội dung giới hạn trong lĩnh vực quản lý thu thuế
đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục Thuế.
+ Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu tại Chi cục Thuế Quận

Long Biên trực thuộc Cục Thuế thành phố Hà Nội.
+ Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Sử dụng thông tin, số liệu từ năm
2012 đến năm 2014. Các giải pháp đến năm 2020.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ THU THUẾ
ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH CÁ THỂ

2.1 Cơ sở lý luận về quản lý thu thuế với hộ kinh doanh cá thể
2.1.1 Các khái niệm, vai trò, đặc điểm về quản lý thu thuế với hộ kinh doanh cá thể
2.1.1.1 Khái niệm, bản chất pháp lý, đặc điểm pháp lý và hoạt động của kinh tế cá thể
a. Khái niệm hộ kinh doanh cá thể
Theo Nghị định số 88/2006/NĐ-CP về đăng kí kinh doanh, khái niệm pháp
lý về hộ kinh doanh được sử dụng thống nhất hiện nay là:
“Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm
người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng
không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình đối với hoạt động kinh doanh” (Thủ tướng chính phủ, 2006)
b. Bản chất pháp lý hộ kinh doanh cá thể
Định nghĩa trên về “hộ kinh doanh” cho thấy hộ kinh doanh được chia thành ba
loại căn cứ vào chủ tạo lập ra nó (Ngô Huy Cương, 2011).
Hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ;
Hộ kinh doanh do hộ gia đình làm chủ;
Hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ.
Có lẽ đây là một đặc thù rất Việt Nam. Tuy nhiên tính phù hợp hay không phù
hợp của nó cần phải suy nghĩ.
“Hộ gia đình” được kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể hay hộ kinh
doanh như trên vừa nói có lẽ xuất phát từ việc Bộ luật Dân sự 1995 và Bộ luật Dân sự

2005 qui định “hộ gia đình” là chủ thể của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Vì vậy có
nhiều vấn đề cần phải suy nghĩ từ đây (Ngô Huy Cương, 2011).
Thứ nhất,
“hộ gia đình” không phải là cá nhân và cũng không phải là pháp nhân,
mà là một chủ thể đặc biệt của pháp luật Việt Nam. Do đó hộ kinh doanh cá thể hay hộ kinh
doanh không hoàn toàn là thương nhân thể nhân. Nhưng trước đây, hộ cá thể và hộ tiểu công
nghiệp (hình thức đầu tiên của hộ hộ kinh doanh cá thể hay hộ kinh doanh), theo Nghị định
số 27- HĐBT ngày 9/3/1988, là thương nhân thể nhân (Ngô Huy Cương, 2011).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

Thứ hai,
tập hợp các cá nhân hay các thành viên của “hộ gia đình” không dễ xác
định. Dấu hiệu của một “gia đình” được thể hiện qua quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống hay quan hệ nuôi dưỡng. Song “hộ gia đình” không bao gồm tất cả các thành viên
có các mối quan hệ đó với nhau. Được xem là thành viên của hộ gia đình cần phải có hai
điều kiện: Điều kiện quan hệ (điều kiện cần), thể hiện qua việc hoặc có quan hệ hôn
nhân, hoặc có quan hệ huyết thống, hoặc có quan hệ nuôi dưỡng; và điều kiện chung
sống (điều kiện đủ), có nghĩa là cùng trú ngụ ở một nơi hoặc cùng kiếm sống dựa vào
cùng một sản nghiệp. Tuy nhiên số lượng các thành viên thuộc hộ gia đình có thể biến
động, vì vậy gây khó khăn không ít cho việc giải quyết tranh chấp có liên quan. Trong
thực tiễn tư pháp và trong thực tiễn thi hành pháp luật ở các cơ quan hành pháp, người ta
thường xác định tập hợp thành viên hộ gia đình thông qua sổ hộ khẩu. Đây có lẽ không
phải là một việc làm hợp lý bởi sự tồn tại của sổ hộ khẩu không có cơ sở để đứng vững
trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa sổ hộ khẩu không nói lên vấn đề rằng các thành viên
có cùng trú ngụ hay cùng kiếm sống hay không. Có lẽ cần đưa vào nội dung đăng ký
kinh doanh việc xác định các thành viên của hộ gia đình khi đăng ký kinh doanh dưới
hình thức hộ kinh doanh, bởi vấn đề xác định các thành viên như vậy có ý nghĩa quan
trọng trong việc bảo vệ lợi ích của các chủ nợ của hộ kinh doanh. Vấn đề này sẽ được lý

giải dưới đây (Ngô Huy Cương, 2011).
Nghị định số 88/2006 NĐ- CP cho phép “một nhóm người”, không phải là hộ
gia đình, được kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh. Việc cho phép này có tác
dụng thúc đẩy kinh doanh, nhưng gây khó khăn về mặt pháp lý, nhất là về chế độ trách
nhiệm của toàn thể và từng thành viên của nhóm, và về chế độ quản trị hộ kinh doanh
(sẽ được nói tới dưới đây). Bản thân thuật ngữ nhóm người rất khó xác định về nhiều
khía cạnh như: Số lượng thành viên trong “một nhóm người” có hạn định không? Các
thành viên trong nhóm cần có đặc điểm gì đặc biệt về nhân thân không, hay có quan hệ
gần gũi không? Pháp luật Việt Nam hiện nay phân biệt hộ kinh doanh với doanh nghiệp
thông qua việc sử dụng lao động. Hộ kinh doanh là một tổ chức kinh doanh sử dụng
thường xuyên từ mười lao động trở xuống. Nếu sử dụng hơn mười lao động thì hộ kinh
doanh phải đăng ký kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp (Điều 36, khoản 3, Nghị định
của Chính phủ số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006). Như vậy có thể hiểu, pháp luật Việt

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

Nam hiện nay quan niệm hộ kinh doanh và các hình thức công ti không khác gì nhau về
hình thức kết cấu mà chỉ khác nhau về qui mô kinh doanh (Ngô Huy Cương, 2011).
Thương nhân thể nhân là một cá nhân chuyên thực hiện các hành vi thương mại
và lấy chúng làm nghề nghiệp thường xuyên của mình. Theo hệ thống pháp luật này cá
nhân trở thành thương nhân là một vấn đề thực tế được xác định bởi tòa án. Nếu tên một
cá nhân xuất hiện trong Sổ đăng ký thương mại tại tòa án thương mại, thì người đó được
xem là thương nhân, trừ khi có chứng cứ ngược lại (Ngô Huy Cương, 2011).
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay hộ kinh doanh không hoàn toàn là cá nhân
kinh doanh. Đôi khi hộ kinh doanh có sự hùn vốn của các cá nhân bởi pháp luật cũng
đã mô tả như vậy. Vì vậy nếu quan niệm hộ kinh doanh hay hộ kinh doanh cá thể là cá
nhân kinh doanh hay thương nhân đơn lẻ là không hoàn toàn đúng. Nếu phân tích đúng
các lời lẽ của Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006, thì có thể thấy khi giải
quyết tranh chấp về hộ kinh doanh nói chung, cần chú ý tới hộ kinh doanh được tạo lập

nên bởi một cá nhân hay một hộ gia đình hay một nhóm người để đưa ra các giải pháp
thích hợp. Đối với việc giải quyết tranh chấp về hộ kinh doanh được tạo lập bởi một
nhóm người, có lẽ phải xem hộ kinh doanh đó là một công ti hợp danh không có tư
cách pháp nhân để tìm giải pháp từ nguyên tắc áp dụng tương tự. Trong trường hợp các
thành viên trong nhóm có thỏa thuận cho một hay vài người chỉ chịu trách nhiệm hữu
hạn, thì thỏa thuận này không có hiệu lực đối với người thứ ba bởi sự thỏa thuận này
không được công khai khi đăng ký kinh doanh (Ngô Huy Cương, 2011).
c. Đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh cá thể
- Hộ kinh doanh cá thể không có tư cách pháp nhân
Các phân tích trên cho thấy, hộ kinh doanh do một cá nhân thành lập có bản
chất là cá nhân kinh doanh, do đó không thể là pháp nhân. Nó khác với công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Bởi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên là một thực thể tách biệt với chủ sở hữu của nó. Trong khi đó hộ kinh doanh
không phải là một thực thể tách biệt so với cá nhân thành lập nên nó. Mọi tài sản
trong của hộ kinh doanh đều là tài sản của cá nhân thành tạo lập nó. Cá nhân tạo lập
hộ kinh doanh hưởng toàn bộ lợi nhuận (sau khi thực hiện các nghĩa vụ tài chính và
thanh toán theo quy định của pháp luât) và gánh chịu mọi nghĩa vụ. Cá nhân tạo lập

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

hộ kinh doanh có thể là nguyên đơn hoặc bị đơn trong các vụ án liên quan tới hoạt
động của hộ kinh doanh (Ngô Huy Cương, 2011).
Trong trường hợp kinh doanh được lập bởi hộ gia đình, thì hộ kinh doanh có
bản chất là hộ gia đình kinh doanh. Do đó hộ kinh doanh cũng không phải là pháp
nhân. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam hiện nay dồn tất cả quyền lợi và gánh nặng
quản trị hộ gia đình vào chủ hộ. Tuy nhiên có một vấn đề cần lưu ý rằng, Bộ luật Tố
tụng Dân sự 2014 quy định: “Đương sự trong các vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan,
tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan” (Điều
56, khoản 1) Từ đó có một câu hỏi đặt ra là hộ gia đình có thể được xem là một “tổ

chức” theo nghĩa của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 hay không để có thể trở thành
nguyên đơn hay bị đơn trước tòa án. Trong khi chắc chắn hộ gia đình không phải là
cá nhân theo Bộ luật Dân sự 1995 và Bộ luật Dân sự 2005. Vấn đề có lẽ phụ thuộc
hoàn toàn vào thực tiễn tố tụng. Như vậy liệu có đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa được quy định tại Điều 3 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2014 hay
không? Trong thực tiễn tố tụng chủ hộ kinh doanh, thậm chí một cơ sở sản xuất hay
một cửa hàng cũng có thể trở htnàh một nguyên đơn hay bị đơn trước tòa án (Ngô
Huy Cương, 2011).
- Hộ kinh doanh là hình thức kinh doanh quy mô rất nhỏ
Đặc điểm này không xuất phát từ bản chất bên trong của hình thức kinh doanh
này mà xuất phát từ những quy định của pháp luật Việt Nam căn cứ trên số lượng lao
động được sử dụng trong hộ kinh doanh. Điều này gây tốn kém không cần thiết cho
người kinh doanh và có thể trái với ý chí và khả năng kinh doanh của họ. Việc buộc hộ
kinh doanh sử dụng thường xuyên hơn 10 lao động phải đăng ký kinh doanh dưới hình
thức doanh nghiệp có lẽ chưa tính đến đặc trưng của từng ngành nghề kinh doanh. Với
một cửa hàng bia hơi con số phục vụe có thể lên tới cả chục người với các công việc
như nấu ăn, chạy chợ, phục vụ bàn, vệ sinh, trông xe…(Ngô Huy Cương, 2011).
Hộ kinh doanh theo nghị định số 88/2006 NĐ-CP chỉ được tiến hành kinh
doanh tại một địa điểm. Cụm từ “một địa điểm” ở đây cũng cần được giải thích.
Nếu một địa điểm không phải là một địa phương như xã (phường), quận (huyện)
hoặc tỉnh (thành phố) thì có nghĩa mỗi hội kinh doanh chỉ có thể là một cửa hàng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7

hoặc một cơ sở sản xuất kinh doanh đặt trên một địa phương nhất định. Ý thứ hai có lẽ
phù hợp hơn quy định tại Điều 38, khoản 1 của Nghị định số 88/2006 NĐ-CP. Các quy
định trên thực chất không cho phép hộ kinh doanh cá thể mở rộng quy mô sản xuất, kinh
doanh hay nói một cách khác là hạn chế kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh. Như
vậy quyền tự do kinh doanh phần nào có sự hạn chế (Ngô Huy Cương, 2011).

- Chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của hộ
kinh doanh.
Hộ kinh doanh không phải là một thực thể độc lập, tách biệt với chủ nhân
của nó. Nên về nguyên tắc chủ nhân của hộ kinh doanh phải chịu trách nhiệm vô
hạn đối với khoản nợ của hộ kinh doanh. Có nghĩa là chủ nhân của hộ kinh doanh
phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình kể cả tài sản không đưa vào
kinh doanh. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về trách
nhiệm của chủ hộ kinh doanh đối với các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh
doanh của hộ kinh doanh thì còn rất nhiều vấn đề còn phải bàn.
Trước hết phải nhắc lại định nghĩa về hộ kinh doanh trong Nghị định số
88/2006 NĐ-CP để xác định chế độ trách nhiệm của chủ hộ kinh doanh. Định nghĩa
này có nội dung như sau: “ Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam
hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được kinh doanh tại một
địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinhdoanh” (Điều 36, khoản 1).
Các quy định này quả thật rất khó xác định chế độ trách nhiệm của chủ hộ kinh
doanh bởi cách viết như sau:
+) Hộ kinh doanh là một cá nhân hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình
làm chủ.
+) Hộ kinh doanh chỉ được kinh doanh tại một địa điểm.
+) Hộ kinh doanh không sử dụng quá mười lao động.
+) Hộ gia đình không có con dấu.
+) Hộ kinh doanh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với
hoạt động kinh doanh.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

Về nguyên lý pháp lý kinh doanh, thương nhân dù là thể nhân hay pháp nhân
đều chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ. Chẳng

hạn một công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh đều phải
bỏ toàn bộ tài sản của mình ra trả nợ. Khi nói tới chế độ trách nhiệm vô hạn, có
nghĩa là nói tới việc các thành viên của công ty phải trịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản cá nhân của mình và liên đới đối với các khoản nợ của công ty mà mình làm
thành viên. Vì vậy định nghĩa về hộ kinh doanh của Nghị định số 88/2006 NĐ-CP
làm phát sinh nhiều vấn đề phải bàn về chế độ trách nhiệm. Cần lưu ý rằng việc bàn
luận này phải gắn chặt với việc phân tích bản chất của hộ kinh doanh. Nếu hộ kinh
doanh do một cá nhân làm chủ, thì người ta có thể quy kết ngày rằng cá nhân làm
chủ đó phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của hộ kinh doanh ngoài
việc đưa tài sản kinh doanh ra trả nợ, bởi trong trường hợp này hộ kinh doanh có
bản chất là cá nhân kinh doanh hay thương nhân thể nhân (Ngô Huy Cương, 2011).
Nếu hộ kinh doanh do một gia đình làm chủ, thì ngoài việc đưa tìa sản kinh
doanh ra để trả nợ, việc xác định trách nhiệm của các thành viên hộ gia đình cần tới
quy định của Bộ luật Dân sự 2005. Theo Bộ luật này, hộ gia đình chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản chung. Nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì
các thành viên phải trịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình (Điều 110,
khoản 2). Như vậy hộ kinh doanh trong trường hợp này rất gần với công ty hợp
danh. Nếu hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ thì vấn đề sẽ trở lên phức tạp
hơn rất nhiều. Bởi chế độ trách nhiệm của thành viên trong nhóm không được pháp
luật quy định cụ thể mà phụ thuộc vào sự giải thích. Nếu xem hộ kinh doanh do một
nhóm người làm chủ là một công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân như trên
đã nói thì các thành viên trong nhóm phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn định
đối với các khoản nợ của hộ kinh doanh. Tuy nhiên, Nghị định số 88/2006 NĐ-CP
có ý không chính xác do ý diễn đạt là hộ kinh doanh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. Quy định này càn phải giải thích là
hộ kinh doanh có chế độ trách nhiệm vô hạn, và chế độ này ứng với các thành viên
của nhóm (Ngô Huy Cương, 2011).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9


d. Vai trò của hộ kinh doanh cá thể
Một là góp phần tạo việc làm, sử dụng số lượng lớn lao động, góp phần tăng
thu nhập, xoá đói giảm nghèo.
Hộ kinh doanh cá thể đã giải quyết số lượng lớn lao động nhàn rỗi, đặc biệt ở
các làng nghề truyền thống.
Hai là huy động được một khối lượng lớn vốn, khai thác tiềm năng, sức sáng
tạo trong dân, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Để đầu tư sản xuất kinh doanh, các hộ kinh doanh huy động được nguồn vốn
nhàn rỗi. Tạo ra việc làm cho lao động, từ đó khai thác được nguồn lực sẵn có và
tạo cơ hội cho người lao động phát huy sáng tạo trong công việc, giúp sản xuất đạt
hiệu quả cao hơn.
Ba là góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn.
Giải quyết vốn lao động nhàn rỗi, đặc biệt là nguồn lao động chủ yếu làm
nông nghiệp. Như vậy sẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chủ trương công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước.
Bốn là tạo ra mạng lưới phân phối lưu thông hàng hoá đa dạng, rộng khắp về
tận những vùng sâu, vùng xa.
Sự phát triển của hộ kinh doanh cá thể giúp đa dạng hóa sản phẩm. Đưa sản phẩm
tới những vùng sâu vùng xa. Giúp người dân có thể tiếp cận và sử dụng sản phẩm
Năm là triển của HKD góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo nguồn
thu ổn định và ngày càng tăng cho NSNN.
Số lượng và doanh thu của cá hộ kinh doanh cá thể ngày một tăng lên. Từ đó giúp
tăng trưởng kinh tế và tạo ra nguồn thu ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước (Thủ
tướng chính phủ, 2008).
2.1.1.3 Đặc điểm, của thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
Theo Phan Hiển Minh, Nguyễn Ngọc Thanh, Châu Thành Nghĩa (2001): “Thuế
là một khoản đóng góp bắt buộc đối với các thể nhân và pháp nhân, được nhà nước
quy định thông qua hệ thống pháp luật. Sự ra đời của thuế gắn liền với sự phân chia
xã hội thành các giai cấp đối kháng và sự xuất hiện của nhà nước”.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

Có thể hiểu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể là các khoản phải nộp mang
tính nghĩa vụ của hộ kinh doanh cá thể đối với Nhà nước. Thực hiện theo đúng Luật
thuế do nhà nước ban hành với hộ kinh doanh cá thể.
Đặc điểm quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
Đặc điểm của quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể xuất phát từ đặc
điểm của NNT - các hộ kinh doanh cá thể và được thể hiên trên các mặt sau:
-
Các hộ kinh doanh cá thể dựa trên sở hữu tư nhân và hoạt động nhỏ lẻ, chủ
yếu dựa vào vốn và mức lao động của một hoặc một nhóm người.
-
Số lượng hộ kinh doanh lớn, quy mô thường nhỏ lẻ, đa dạng về đối tượng,
hình thức, ngành nghề, địa bàn và thời gian hoạt động. Do đặc điểm trên mà công
tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể khá bất cập do khó kiểm soát về
số lượng hộ kinh doanh cũng như doanh thu thật chịu thuế.
Ý thức tuân thủ pháp luật còn kém do hộ kinh doanh dễ dàng thành lập, cơ
sở pháp lý ràng buộc ít hơn doanh nghiệp (có hóa đơn chứng từ rõ ràng, có con
dấu ) do vậy tình trạng trì hoãn nộp thuế, lách thuế, trốn thuế vẫn còn sảy ra.
Vai trò của thuế
Một là Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập trung một
phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với
các pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp

luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước. Hầu hết ở các quốc gia,
thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội
bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ
phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng
được nhu cầu chi ngày càng tăng.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay
nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả.
Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội,
chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài.
Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp
dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều chỉnh được hầu hết các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội. Ðây là
nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước.
Hai là Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và
đời sống xã hội.
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn
có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến
pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp
luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp
luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban
hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách
điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà

nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật
thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm
thuế Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này
của pháp luật thuế được thể hiện ở chổ pháp luật thuế là công cụ tác động đến tư
duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các
thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn
chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp
đến cung - cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung - cầu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng
kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung
- cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuê,ỳ Nhà nước tác động đến các quan hệ
tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ,
Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu đối với việc sản xuất
kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó.
Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và
khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định
khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự
khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất
phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với
những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy
định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc

phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực
trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu
qủa các nguồn lực cuả đất nước trong việc điều chỉnh cung - cầu và cơ cấu kinh tế.
Ba là Thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế và công bằng xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành
nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và
công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thế nhân và pháp nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên
giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều
kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật
thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử
dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất cân đối về mặt xã
hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ
để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chổ thông qua các
quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối
tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu
các loại thuế trong hệ thống thuế, vế thuế suất đều có tác động đến thu nhập và sử
dụng thu nhập trong xã hội.
2.1.2 Nội dung quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
2.1.2.1 Quản lý đối tượng thu nộp thuế
Đội thuế cấp tờ khai đăng ký thuế và hướng dẫn hộ mới ra kinh doanh kê

khai đăng ký nộp thuế; Nhận và kiểm tra hồ sơ đăng ký thuế của hộ kinh doanh, khi
nhận phải vào sổ nhận hồ sơ và lập phiếu hẹn trong đó ghi rõ ngày nhận và hẹn thời
gian trả Giấy chứng nhận đăng ký thuế cho hộ kinh doanh không quá 10 ngày làm
việc (nếu hộ kinh doanh ở cùng thị xã, thị trấn nơi Chi cục Thuế đóng trụ sở chính
thuộc địa bàn quận, huyện, thị xã) không quá 12 ngày làm việc nếu là hộ kinh doanh
thuộc địa bàn khác kể từ ngày Đội thuế nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ của Hộ kinh
doanh. Đội thuế kiểm tra hồ sơ đăng ký thuế, đối chiếu với các chỉ tiêu kê khai trên
tờ khai đăng ký thuế, trường hợp phát hiện tờ khai đăng ký có sai sót thì yêu cầu Hộ
kinh doanh chỉnh sửa tờ khai đăng ký thuế theo đúng quy định. Thời gian kiểm tra
tờ khai không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ. Sau khi đã kiểm tra hồ
sơ hợp lệ Đội thuế chuyển ngay trong ngày (đối với địa bàn ở xa tối đa 02 ngày)
cho đội Dự toán - Kê khai - Kế toán thuế và Tin học để nhập tờ khai đăng ký thuế
vào máy tính và truyền dữ liệu về Cục thuế, thời gian nhập và truyền dữ liệu không
quá 02 ngày. Cục thuế kiểm tra, xác nhận thủ tục cấp số mã số thuế cho từng Hộ
kinh doanh và chuyển kết quả về Chi cục Thuế, thời gian không quá 03 ngày làm
việc. Đội Dự toán - Kê khai - Kế toán thuế và Tin học lưu giữ hồ sơ đăng ký thuế
của hộ kinh doanh theo từng địa bàn và Đội thuế. Căn cứ vào số mã số thuế do Cục

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

thuế truyền về Đội Dự toán - Kê khai - Kế toán thuế và Tin học in Giấy chứng nhận
đăng ký thuế của các Hộ kinh doanh trình lãnh đạo Chi cục ký, thời gian không quá
02 ngày làm việc; Thực hiện trả Giấy chứng nhận đăng ký thuế đã ký ngay trong
ngày cho Đội thuế. Đội thuế cấp Giấy chứng nhận đăng ký thuế cho từng Hộ kinh
doanh và lập sổ theo dõi cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế theo mẫu quy định. Đội
Dự toán - Kê khai - Kế toán thuế và Tin học lập danh bạ Hộ kinh doanh đã đăng ký
thuế và đã được cấp Mã số thuế, đồng thời thông báo cho Đội thuế phường, xã biết
để Đội thuế đưa vào bộ thuế. Đội thuế có trách nhiệm phối hợp với chính quyền
phường, xã điều tra số hộ có sản xuất, kinh doanh trên địa bàn để đối chiếu với danh

bạ đã lập. Đối với những trường hợp có biến động như: hộ mới ra kinh doanh, hộ
nghỉ kinh doanh, hộ kinh doanh đổi tên, di chuyển địa điểm kinh doanh Đội thuế
hướng dẫn và đôn đốc để hộ kê khai theo quy định, các thông tin thay đổi chuyển
cho Đội Dự toán - Kê khai - Kế toán thuế và Tin học để bổ sung chỉ tiêu thay đổi
hoặc đóng Mã số thuế theo quy định (Tổng cục Thuế, 2014)
2.1.2.2 Quản lý thu theo các sắc thuế
a. Thuế môn bài (MB)
Thuế môn bài là một sắc thuế trực thu, là thuế đăng kí kinh doanh được tính
theo năm, mức thuế được áp dụng theo số tuyệt đối căn cứ vào loại huỳnh doanh
nghiệp và thu nhập của hộ kinh doanh. Mức thu phân theo bậc, dựa vào số vốn đăng
ký hoặc doanh thu của năm kinh doanh kế trước hoặc giá trị gia tăng của năm kinh
doanh kế trước tùy từng nước và từng địa phương.
Hộ gia đình trả thuế môn bài căn cứ trên thu nhập bình quân hàng tháng:
Thu nhập hàng tháng (đồng) Thuế môn bài hàng năm (đồng)
Trên 1.500.000 1.000.000
Từ 1.000.000 đến 1.500.000 750.000
Từ 750.000 đến 1.000.000 500.000
Từ 500.000 đến 750.000 300.000
Từ 300.000 đến 500.000 100.000
Dưới 300.000 50.000

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

Tuy số thu thuế môn bài hàng năm chỉ chiếm tỉ lệ khá nhỏ so với các loại
thuế khác, nhưng đây lại là một nguồn thu tương đối vững chắc cho ngân sách nhà
nước, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của nhà nước ngay đầu mỗi năm khi các
nguồn thu khác chưa nhiều. Tất cả các tổ chức cá nhân khi đăng ký kinh doanh đều
phải nộp thuế môn bài. Do vậy thuế môn bài đóng vai trò quan trọng trong việc
kiểm kê, kiểm soát các cơ sở kinh doanh nhằm hỗ trợ cho việc tiến hành thu các loại

thuế có số thu cao hơn như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng (Tổng
cục Thuế, 2014)
b. Thuế giá trị gia tăng (VAT)
Thuế giá trị gia tăng là sắc thuế gián thu đánh vào phần giá trị tăng thêm của
các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất lưu thông đến
tiêu dùng. Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) là tất cả các hộ có hoạt động
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT.
Căn cứ vào Luật Thuế Giá trị gia tăng số 13/2008/QH12 thì tùy theo mặt
hàng mà hộ kinh doanh để áp mức thuế suất phù hợp, có 4 loại: không chịu thuế,
mức thuế suất là 0%, 5% và tối đa là 10%.
Hộ kinh doanh cá thể nộp thuế GTGT theo một trong hai phương pháp là
phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT:
-Phương pháp khấu trừ:
Phương pháp này áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ
chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn,
chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
Số thuế GTGT
phải nộp
=

Số thuế GTGT
đầu ra
-

Số thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ.
Trong đó:
+ Số thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng tổng số thuế giá trị gia tăng của hàng
hoá, dịch vụ bán ra ghi trên hoá đơn giá trị gia tăng.
+ Số thuế GTGT đầu vào bằng (=) tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn

GTGT mua hàng hóa, dịch vụ (bao gồm cả tài sản cố định) dùng cho sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT, số thuế GTGT ghi trên chứng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16

từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía
nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chức nước
ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh
hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
- Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT:
Phương pháp này áp dụng đối với các đối tượng sau:
+ Đối với hộ kinh doanh đã thực hiện đầy đủ chế độ hóa đơn, chứng từ
theo quy định:
Thuế GTGT
phải nộp
=

GTGT của hàng
hoá, dịch vụ
x

với thuế suất thuế
GTGT tương ứng.
Trong đó:
GTGT của hàng
hoá, dịch vụ
=

doanh số

bán ra
-

giá thanh toán của hàng
hóa, dịch vụ mua vào.

+ Đối với cơ sở kinh doanh bán hàng hoá, dịch vụ có đầy đủ hóa đơn
của hàng hoá, dịch vụ bán ra theo chế độ quy định hoặc có đủ điều kiện xác được
đúng doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ như hợp đồng và chứng từ thanh toán nhưng
không có đủ hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ đầu vào thì:
Thuế GTGT phải nộp = Doanh thu x với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu
x thuế suất thuế GTGT.
+ Cá nhân, hộ kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ
kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật thì nộp thuế theo tỷ lệ (%)
GTGT (do UBND cấp tỉnh quy định tỷ lệ GTGT cho mỗi địa phương).
Thuế GTGT phải nộp = Doanh số ấn định (x) với tỷ lệ (%) GTGT tính trên
doanh thu x thuế suất thuế GTGT.
c. Thuế TNCN
Thuế TNCN là loại thuế trực thu, đánh vào phần thu nhập nhận được của cá nhân
trong một kỳ tính thuế nhất định không phân biệt nguồn gốc phát sinh thu nhập.
Thuế thu nhập cá nhân thường được tính theo biểu thuế lũy tiến từng phần do
xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN là điều tiết thu nhập của người có thu
nhập cao, động viên sự đóng góp của những người có thu nhập thấp, thu nhập trung

×