Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân tỉnh sơn la trong xét xử các vụ án ma túy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐÀO THỊ NHỊ





ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SƠN LA TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN MA TÚY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





HÀ NỘI – 2015
ĐÀO THỊ NHỊ LÝ LUẬN LỊCH SỬ NHÀ &PHÁP LUẬT HÀ NỘI -
2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐÀO THỊ NHỊ





ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SƠN LA TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN MA TÚY


Chuyên ngành : Lý luận lịch sử nhà &pháp luật
Mã số : 60380101

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH THÁI VĨNH THẮNG


Hà nội – 2015
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG 5
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ CÁC
VỤ ÁN MA TÚY CỦA TÒA ÁN 7
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY CỦA TÒA ÁN 7
1.1.1. Khái niêm áp dụng pháp luật 7
1.1.2. Đặc trƣng của áp dụng pháp luật 7
1.1.3. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án về ma túy . 11
1.2. CÁC GIAI ĐOẠN VÀ NỘI DUNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN MA TÚY CỦA TÒA ÁN 13
1.2.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật của tòa án trong xét xử các vụ

ma túy 13
1.2.2. Nội dung hoạt động áp dụng pháp luật của tòa án trong xét xử các
vụ án ma túy 20
Kết luận chƣơng 1 45
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC
VỤ ÁN MA TÚY CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA 46
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, cơ cấu tổ chức của tòa án nhân
dân tỉnh sơn la 46
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội – môi trƣờng cho sự phát triển
các loại tội phạm ma túy ở tỉnh Sơn La 46
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của tòa án nhân dân tỉnh Sơn La 54
2.2. KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT ÁN MA TÚY CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở
TỈNH SƠN LA. 58
2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc trong áp dụng pháp luật giải quyết án
ma túy của tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La 58
2.2.2. Những hạn chế về áp dụng pháp luật trong giải quyết án ma túy
và nguyên nhân. 72
Kết luận chƣơng 2 81
Chƣơng 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN MA TÚY CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN
LA 82
3.1. Các yêu cầu đối với áp dụng pháp luật trong giải quyết án ma túy
của Tòa án. 82
3.2. Một số giải pháp nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong giải
quyết án ma túy của tòa án nhân dân 89
3.2.1. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tòa án nhân
dân tỉnh Sơn La nói chung và việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án ma
túy nói riêng 89
3.2.2. Nhà nƣớc cần tiếp tục hoàn thiện các quy phạm pháp luật nhằm

đảm bảo áp dụng pháp luật giải quyết án hình sự nói chung và án ma túy
trong cả nƣớc cũng nhƣ ở Sơn La 91
3.2.3. Tăng cƣờng công tác giải thích và hƣớng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật 95
3.2.4. Kiện toàn cơ cấu tổ chức, nâng cao năng lực, trình độ của thẩm
phán và cán bộ, công chức trong áp dụng pháp luật giải quyết án ma túy
củaTòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La 97
3.2.5. Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn của Hội thẩm nhân dân 98
3.2.6. Tăng cƣờng phƣơng tiện và điều kiện cơ sở vật chất cho các Tòa
án nhân dân ở tỉnh Sơn La và hoàn thiện chế độ chính sách đối với Thẩm
phán, cán bộ tòa án 99
3.2.7. Tăng cƣờng hoạt động kiểm tra giám đốc đối Tòa án nhân
dân cấp huyện, đảm bảo việc áp dụng pháp luật thống nhất 101
3.2.8. Tăng cƣờng công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử của ngành tòa
án làm cơ sở cho hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết án ma túy đƣợc
thực hiện thống nhất 103
Kết luận chƣơng 3 105
KẾT LUẬN 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Kết quả thụ lý và giải quyết án ma túy cấp sơ thẩm huyện, tỉnh năm 2009
[48] 59
Bảng 2.2. Kết quả thụ lý và giải quyết án ma túy cấp sơ thẩm huyện, tỉnh năm 2010
[48] 60
Bảng 2.3. Kết quả thụ lý và giải quyết án ma túy cấp sơ thẩm huyện, tỉnh năm 2011
[48] 60
Bảng 2.4. Kết quả thụ lý và giải quyết án ma túy cấp sơ thẩm huyện, tỉnh năm

2012[48] 61
Bảng 2.5. Kết quả thụ lý và giải quyết án ma túy cấp sơ thẩm huyện, tỉnh năm 2013
[48] 61
Bảng 2.6. Biểu đồ thể hiện tình hình xét xử các vụ án hình sự cấp sơ thẩm của tòa
án nhân dân các cấp của tỉnh Sơn La trong thời gian từ 2009 - 2013 63
Bảng 2.7. Biểu đồ thể hiện tình hình xét xử các vụ án ma túy cấp sơ thẩm của tòa án
nhân dân các cấp của tỉnh Sơn La trong thời gian từ 2009 - 2013 65
Bảng 2.8. Biểu đồ thể hiện tình hình áp dụng pháp luật để xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự và vụ án ma túy của tòa án nhân dân tỉnh Sơn La từ năm 2009 - 2013 66
Bảng 2.9: Kết quả giải quyết phúc thẩm án ma túy đối với án cấp huyện năm 2009
[48] 67
Bảng 2.10: Kết quả giải quyết phúc thẩm án ma túy đối với án cấp huyện năm 2010
[48] 68
Bảng 2.11: Kết quả giải quyết phúc thẩm án ma túy đối với án cấp huyện năm 2011
[48] 68
Bảng 2.12: Kết quả giải quyết phúc thẩm án ma túy đối với án cấp huyện năm 2012
[48] 69
Bảng 2.13: Kết quả giải quyết phúc thẩm án ma túy đối với án cấp huyện năm 2010
[48] 69


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Điều 2 Hiến pháp 2013 đã nêu rõ “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đây là một trong
những chủ trương lớn và nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước ta trong giai

đoạn cách mạng hiện nay. Trong nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp là một bộ
phận của quyền lực nhà nước, luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền
hành pháp trong tổng thể quyền lực nhà nước thông nhất và giữ một vai trò đặc
biệt quan trọng. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ
quan tư pháp, trong đó hoạt động xét xử của tòa án thể hiện tập trung nhất của
quyền tư pháp, thể hiện nền công lý, sự công bằng và bình đẳng của các chủ thể
pháp luật. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính
trị đã chỉ ra mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020 là:
“xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam Xã
hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
Trong thời gian vừa qua, tổ chức và hoạt động của tòa án đang có nhiều
thay đổi, đặc biệt là theo tinh thần của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2013) nhằm hướng tới việc thực hiện nhiệm vụ là: “ Tòa án nhân dân có nhiệm
vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân”. Vì vậy, chất lượng hoạt động xét xử đã được nâng lên, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát
triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Để xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện nước ta hiện nay, việc
hoàn thiện các khái niệm pháp lý cơ bản có ý nghia rất lớn đối với việc nâng cao


2
chất lượng đào tạo cán bộ pháp lý, đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và
nâng cao hiệu quả của pháp luật. Áp dụng pháp luật là một khái niệm cơ bản của
khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay có ý
nghĩa thời sự cả về mặt lý luận và thực tiễn vì mặc dù áp dụng pháp ở nước ta
cho đến nay, các công trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật, các vấn đề lý luận

và thực tiễn về áp dụng pháp luật mới chỉ được giới thiệu một cách khái quát
trong giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật do các trường Đại học
Luật, các giáo trình của các môn khoa học pháp lý chuyên ngành và một số công
trình nghiên cứu chuyên biệt, vì vậy, một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật
chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, thấu đáo và toàn diện.
Mặt khác, thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta thời gian vừa qua cho thấy
hoạt động này đã đạt được khá nhiều thành tựu, song vẫn còn nhiều hạn chế cần
khắc phục. Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật trong một số linh vực cụ
thể vừa góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện lý luận, vừa có thể chỉ ra được
những điểm bất cập trong các quy định của pháp luật, những hạn chế trong quá
trình tổ chức thực hiện các quy định đó, từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả của nó.
Nước ta hiện nay, pháp luật đã và đang trở thành một trong những công cụ
có hiệu quả nhất để nhà nước quản lý xã hội. Pháp luật chỉ thể hiện được vai trò
đó của mình khi nó được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và đặc biệt là được
áp dụng một cách đúng đắn, chính xác. Kết quả áp dụng pháp luật để giải quyết
các vụ việc xảy ra trong thực tế có đúng đắn, chính xác hay có thấu tình đạt lý
hay không chủ yếu phụ thuộc vào sự hiểu biết pháp luật và thái độ tôn trọng,
thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền áp dụng.
Trong thời gian qua, tình hình tội phạm về ma tuý đang có xu hướng gia
tăng và ngày càng phức tạp hơn. Ma tuý đã trở thành một hiểm hoạ nhức nhối
không những ở Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới cũng lâm vào tình
cảnh tương tự. Ma tuý làm gia tăng tội phạm, là cầu nối lan truyền căn bệnh thế
kỷ HIV/AIDS, làm ảnh hưởng lớn đến sự ổn định kinh tế - chính trị và an ninh
quốc gia.


3
Luật phòng, chống ma tuý đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 9/12/2000, có hiệu lực thi hành từ ngày

01/6/2001và đã được Quốc hội khoá XII sửa đổi bổ sung và thông qua tại kỳ
họp thứ 3 ngày 03/6/2008. Luật phòng, chống ma tuý đã thể hiện sự kiên quyết
và triệt để của Đảng và nhà nước ta trong đấu tranh với tệ nạn ma tuý nhằm
ngăn chặn, hạn chế và khắc phục tình trạng nghiện các chất ma tuý, tội phạm về
ma tuý đi đến loại trừ tệ nạn ma tuý ra khỏi đời sống xã hội. Trên cơ sở của của
Luật phòng, chống ma tuý và các văn bản hướng dẫn thi hành công tác phòng
chống ma tuý đã có những chuyển biến tích cực và đồng bộ từ công tác tuyên
truyền giáo dục về phòng chống ma tuý, kiểm soát các hoạt động có liên quan
đến ma tuý, đấu tranh với tội phạm về ma tuý, tổ chức cai nghiện ma tuý cho
người nghiện ma tuý và quản lý sau cai nghiện ngày càng hiệu quả hơn. Điều
này đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để các cấp các ngành chung tay đấu tranh
đẩy lùi tệ nạn ma tuý. Mặc dù vậy công tác phòng chống ma tuý ở nước ta vẫn
còn gặp vô vàn khó khăn. Theo dự báo của các chuyên gia, trong thời gian tới,
số người nghiện ma tuý sẽ ngày một tăng nhanh, đặc biệt trong thanh, thiếu
niên, công nhân viên chức, người lao động, người nghiện là con em cán bộ, công
chức; số người nghiện ma tuý tổng hợp, số người nghiện ma tuý bị nhiễm HIV,
AIDS ngày càng nhiều; số vụ phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý với số
lượng lớn, quy mô ngày càng rộng và mang tính chất phức tạp Tệ nạn nghiện
ma tuý không chỉ là vấn đề tệ nạn về trật tự an toàn xã hội mà có ảnh hưởng trực
tiếp đến an ninh quốc gia.
Sơn La là một trong những tỉnh trọng điểm về tệ nạn ma tuý với trên dưới
1 triệu dân trong đó có trên 18 nghìn người nghiện ma túy (đó là những người
nghiện đã có hồ sơ quản lý [58]). Như vậy có nghĩa Sơn La có gần 2% dân số
nghiện ma túy. Trong những năm qua mặc dù Đảng bộ, chính quyền tỉnh đã
luôn quan tâm, tích cực chỉ đạo thực hiện triển khai tuyên truyền giáo dục đấu
tranh phòng, chống và truy quét tội phạm ma tuý trên địa bàn tỉnh song công tác
phòng chống ma tuý vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn. Số liệu thống
kê về tình hình người nghiện ma tuý và tội phạm liên quan đến ma tuý trên địa



4
bàn tỉnh Sơn La trong thời gian gần đây cho thấy không những không giảm mà
còn có xu hướng diễn biến theo chiều hướng ngày càng phức tạp. Điều này
chứng tỏ hiệu quả của mô hình quản lý nhà nước đối với công tác phòng, chống
ma tuý chưa phù hợp với nhu cầu thực tiễn, pháp luật hình sự và hệ thống hình
phạt cũng như công tác xét xử hình sự nói chung, xét xử các tội phạm về ma túy
nói riêng còn nhiều bất cập. Để tìm được các giải pháp hữu hiệu, nhằm tăng
cường hiệu quả của công tác phòng, chống ma túy của cả nước nói chung, tỉnh
Sơn La nói riêng. Qua quá trình thực tế công tác và học tập, nghiên cứu, tôi chọn
đề tài: Áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân tỉnh Sơn La trong xét xử các vụ
án về ma túy, làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về áp dụng pháp
luật của tòa án nhân dân tỉnh Sơn La trong xét xử các vụ án về ma túy. Luận văn
phân tích và chỉ ra những ưu điểm, đồng thời cũng chỉ ra những điểm hạn chế,
bất cập trong các quy định của pháp luật cũng như thực tế thực hiện các quy
định đó để khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử của tòa án
tỉnh Sơn La nói riêng, tòa án cấp tỉnh trong cả nước nói chung. Luận văn cung
cấp thêm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập của giáo viên và sinh
viên các trường luật cung như cho các cơ quan, người có thẩm quyền trong quá
trình giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế. Hệ thống hoá bước đầu
những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của tòa án về xét xử các vụ
án về ma tuý trên địa bàn tỉnh Sơn La trong thời gian vừa qua kiến nghị những
giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả xét xử các vụ án về ma túy, góp phần tăng
cường công tác phòng chống ma tuý tại địa bàn tỉnh Sơn La.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án về ma túy
của tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, chỉ ra các hạn chế bất cập còn tồn tại và đề
xuất những phương hướng và giải pháp thích hợp nhằm nâng cao vai trò của tòa

án nhân dân tỉnh Sơn La trong việc áp dụng pháp luật để xét xử các vụ án về ma


5
túy, góp phần vào tăng cường hiệu quả của công tác phòng, chống ma túy của
tỉnh Sơn La.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm ma túy và công tác áp
dụng pháp luật của tòa án.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác áp dụng pháp luật của tòa án nhân
dân tỉnh Sơn La trong việc xét xử các vụ án ma túy, tìm ra các hạn chế và
nguyên nhân của thực trạng đó.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân
tỉnh Sơn La trong xét xử các vụ án về ma túy.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân trong xét xử các vụ án về ma túy
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động xét xử các vụ án về ma túy của tòa án nhân dân tỉnh Sơn La (Từ
năm 2009 đn năm 2013)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn được triển khai thực hiện trên cơ
sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác cải cách tư pháp,
đặc biệt trong xét xử của Tòa án; Cương lĩnh và trong Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua
của Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng.Luận
văn cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau đây:
Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp tiếp cận hệ thống; Phương pháp
so sánh; phương pháp chuyên gia; phương pháp điều tra xã hội học



6
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu luận văn gồm 3 chương
Chương 1. Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án ma
túy của Tòa án.
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án ma túy
của tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong
xét xử các vụ án ma túy của tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.
















7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ

CÁC VỤ ÁN MA TÚY CỦA TÒA ÁN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY CỦA TÒA ÁN
1.1.1. Khái niêm áp dụng pháp luật
Trong bốn hình thức thực hiện pháp luật là tuân thủ pháp luật, thi hành
pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật thì áp dụng pháp luật là hình
thức cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất trong thực hiện pháp luật. Phần lớn các
quy định của pháp luật chỉ có thể được thực hiện trong thực tế thông qua hoạt
động của các chủ thể có thẩm quyền. Vì vậy, hình thức này cần phải được
nghiên cứu một cách toàn diện hơn và sâu sắc hơn các hình thức khác.
Trong tiếng Việt, từ áp dụng có thể được hiểu là “Đem dùng trong thực tế
điều đã nhận thức được” [15]. Từ các cách hiểu về từ áp dụng nói trên, có thể
hiểu một cách nôm na rằng áp dụng pháp luật là đem pháp luật ra dùng trong
thực tế. Nếu hiểu theo cách này thì áp dụng pháp luật có thể dùng để chỉ tất cả
các hình thức thực hiện pháp luật mà không phải là một hình thức thực hiện
pháp luật cụ thể. Trong các sách báo pháp lý của Việt Nam, khái niệm áp dụng
pháp luật được đề cập đến trong nhiều tác phẩm với nội dung có những điểm
khác nhau nhất định. Đa số các nhà nghiên cứu coi áp dụng pháp luật chỉ là một
trong các hình thức thực hiện pháp luật, song có nhà nghiên cứu lại coi áp dụng
pháp luật đồng nghia với thực hiện pháp luật, tức là bao gồm tất cả cá hình thức
thực hiện pháp luật. Theo hướng này, có thể định nghĩa về áp dụng pháp luật
như sau: Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước,
do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật tin hành nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện hành vào những
trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
1.1.2. Đặc trƣng của áp dụng pháp luật
Từ định nghĩa về áp dụng pháp luật như trên, có thể thấy áp dụng pháp luật
có các đặc điểm sau:



8
Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà
nƣớc
Nếu quan niệm thực hiện pháp luật có bốn hình thức thì chỉ có duy nhất áp
dụng pháp luật là hình thức luôn luôn thể hiện tính tổ chức, quyền lực nhà nước.
Điều đó được thể hiện qua chủ thể tiến hành, trình tự, thủ tục tiến hành hoạt
động áp dụng pháp luật và kết quả của quá trình áp dụng pháp luật.
Cụ thể:
+ Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể đó cung chỉ
được phép áp dụng pháp luật trong một phạm vi nhất định theo quy định của
pháp luật [56]. Chẳng hạn, trong hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước thì chỉ
Tòa án mới có quyền xét xử để định tội và định hình phạt cho người phạm tội
cung như để giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình…; chỉ Ủy ban
nhân dân mới có quyền xem xét để cấp giấy khai sinh cho trẻ em, cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng; chỉ có các cơ sở đào tạo mới
có quyền tổ chức tuyển sinh, đào tạo và cấp bằng cho người học… Chủ thể tiến
hành áp dụng pháp luật chủ yếu là các cơ quan, tổ chức nhà nước, song cung có
thể là chủ thể được nhà nước trao quyền hoặc cho phép.
+ Trong quá trình áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể
nhân danh quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để ban hành ra
những mệnh lệnh, quyết định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện
đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan [56]. Các mệnh lệnh, quyết định này
luôn thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền áp dụng mà không
phụ thuộc vào ý chí của chủ thể là đối tượng áp dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng,
ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền không thể là ý chí cá nhân, tuy tiện
của người áp dụng mà phải là ý chí được xây dựng trên cơ sở pháp luật, căn cứ
vào pháp luật và phù hợp với pháp luật.
Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật được nhà nước bảo đảm thực
hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước. Thông thường, sau khi

ban hành ra các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm


9
quyền sẽ công bố công khai cho đối tượng áp dụng để họ biết mà thực hiện. Đối
với các quyết định cụ thể hoá quyền pháp lý cho các chủ thể thì đương nhiên họ
sẽ tự giác thực hiện. Còn đối các quyết định cụ thể hoá nghĩa vụ pháp lý cho các
chủ thể thì có thể có hai trường hợp xảy ra. Một là các chủ thể tự giác thực hiện
mà không cần đến sự cưỡng chế của nhà nước. Hai là chủ thể không tự giác thực
hiện các mệnh lệnh, quyết định đó và các chủ thể có thẩm quyền phải cưỡng chế
thi hành để bảo đảm cho các mệnh lệnh, quyết định đó được thực hiện nghiêm
chỉnh.
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là hình
thức thực hiện pháp luật vừa là hình thức nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực
hiện các quy định của pháp luật [56]. Vì thế, hoạt động này phải được tiến hành
theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định. Trình
tự, thủ tục này thường khác nhau trong các trường hợp áp dụng pháp luật khác
nhau tuy theo quy định cụ thể của pháp luật. Do vậy, để đảm bảo tính đúng đắn,
chính xác của quá trình áp dụng pháp luật, hoạt động này không thể được tiến
hành một cách tuy tiện mà phải theo những trình tự, thủ tục và trên cơ sở những
điều kiện rất chặt chẽ do pháp luật quy định. Đương nhiên, trình tự, thủ tục đó
không thể như nhau trong tất cả các vụ việc mà nó sẽ khác nhau từ vụ việc này
sang vụ việc khác tuy theo tính chất của vụ việc.
Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với
các quan hệ xã hội hay là hoạt động nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp luật
hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể [56].
Các quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung nên không chỉ rõ chủ thể
cụ thể và trường hợp cụ thể cần áp dụng. Khi một quy phạm nào đó được áp
dụng vào việc giải quyết một vụ việc thực tế của một chủ thể cụ thể thì có nghia
là quy phạm đó đã được cá biệt hoá vào trường hợp của chủ thể đó. Tuy nhiên,

cần lưu ý rằng, các quy phạm được áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc thực
tế, cụ thể hay được cá biệt hoá phải là các quy phạm pháp luật hiện hành hay các
quy phạm đang còn hiệu lực pháp lý. Vì vậy, khi tiến hành áp dụng pháp luật,
chủ thể có thẩm quyền không thể lựa chọn và áp dụng các quy phạm pháp luật


10
đã hết hiệu lực.
Các đặc điểm trên làm cho áp dụng pháp luật khác hoàn toàn với các hình
thức thực hiện pháp luật khác, bởi lẽ, chủ thể của các hình thức tuân theo pháp
luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào
trong xã hội; trong khi đó, chủ thể tiến hành áp dụng pháp luật chỉ có thể là chủ
thể có thẩm quyền theo quy đinh của pháp luật. Khi tuân theo pháp luật, thi hành
pháp luật hoặc sử dụng pháp luật, chủ thể có thể không cần đưa ra một quyết
định pháp lý nào và cung có thể không bị bắt buộc phải theo những trình tự, thủ
tục nhất định. Còn khi áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền luôn bị bắt
buộc phải tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật
quy định và bao giờ cung phải đưa ra một quyết định áp dụng pháp luật để giải
quyết vụ việc mà mình thụ lý. Có thể nói, áp dụng pháp luật bao hàm cả ba hình
thức trên bởi lẽ, trong quá trình áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền cung
có thể bị cấm thực hiện những hành vi nhất định và họ phải tuân theo pháp luật,
họ cung phải thực hiện những nghia vụ pháp lý nhất định, tức là phải thi hành
pháp luật, đồng thời có những quyền hạn nhất định tức là có thể sử dụng pháp
luật.
Ngoài các đặc điểm cơ bản trên, có tác giả cho rằng áp dụng pháp luật còn
có một đặc điểm nữa là: Áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi có tính sáng tạo,
bởi vì các quy định của pháp luật thường mang tính chất chung, khái quát, song
các vụ việc xảy ra trong thực tế lại rất đa dạng, phong phú nên muốn đưa ra
được một quyết định đúng đắn, chính xác, vừa thấu tình, vừa đạt lý để giải quyết
vụ việc cần giải quyết thì đòi hỏi phải có tính sáng tạo của người áp dụng. Như

vậy, sự sáng tạo trong quá trình áp dụng pháp luật không phải là sự tuy tiện của
chủ thể áp dụng mà hoàn toàn dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật và nằm
trong khuôn khổ của các quy định ấy. Cung có tác giả cho rằng không nên coi
tính sáng tạo là một trong những đặc điểm của áp dụng pháp luật bởi lẽ tính sáng
tạo được thể hiện trong nhiều hoạt động. Ví dụ, trong quá trình xây dựng pháp
luật cung cần có tính sáng tạo của người xây dựng, trong quá trình học tập cung
cần có tính sáng tạo của người học…


11
1.1.3. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án về ma túy
1.1.3.1. Khái niệm tội phạm ma túy.
2. Khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự hiện
hành, theo đó:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Các nhóm tội về ma túy là một loại tội cụ thể mà bộ luật hình sự quy định,
do đó tội phạm về ma túy có thể định nghĩa như sau: Tội phạm về ma túy là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến
chế độ quản lý nhà nước về ma túy.
2.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử của tòa án đối với
các vụ án ma túy
Xét xử được hiểu là sự xem xét và phân xử của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền[15]. Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân

nhưng có sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền tư pháp được thực hiện
thông qua hoạt động xét xử của tòa án [43].
Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp theo quy định của hiến pháp, có
nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động, thương mại,
hôn nhân gia đình…và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của hiến pháp hiện hành xét xử là một hoạt động đặc thù của Nhà
nước, là chức năng được Nhà nước giao cho một chủ thể duy nhất đó là Tòa án.
Việc tuyên bố một người là có tội phải chịu hình phạt nhất thiết phải thực hiện
thông qua hoạt động xét xử và quyết định bằng một bản án. Như vậy, xét xử là


12
hoạt động của tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét và ra phán quyết đối với
các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính.
Việc xét xử phải được tiến hành tuân thủ các trình tự, thủ tục (như thụ lý hồ
sơ, chuẩn bị xét xử, nghiên cứu hồ sơ, xét xử tại phiên tòa, xét hỏi, tranh luận,
nghị án, tuyên án và phải tuân thủ nguyên tắc nhất định; thông qua các thủ tục tố
tụng do pháp luật quy định, căn cứ vào các quy định của các luật nội dung mà
tòa án nhân danh nhà nước để ra bản án để phán xét một hành vi nào đó là tội
phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội; phán quyết về tính đúng
đắn, hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi; xác định tính có căn cứ hay
không đối với các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể…
* Đặc điểm của áp dụng pháp luật của tòa án trong xét xử các vụ án ma
túy
- Áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án ma túy, chỉ do cơ quan có thẩm
quyền tiến hành, đó là hệ thống Tòa án các cấp. Tòa án nhân dân là cơ quan duy
nhất có thẩm quyền áp dụng pháp luật pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự để
xét xử các vụ án về ma túy.
- Áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án ma túy được tiến hành theo một

trình tự thủ tục chặt chẽ, do bộ luật tố tụng hình sự và các quy phạm pháp luật
hình sự quy định. Khi giải quyết môt vụ việc hình sự về ma túy được xác định từ
khâu nhận hồ sơ do viện kiểm sát chuyển sang đến khi kết thúc phiên tòa. Trong
quá trình đó bao gồm nhiều hoạt động cụ thể do các bộ phận có liên quan thực
hiện, tuy nhiên toàn bộ quy trình đó đều tuân theo trình tự và giới hạn do luật
định, người có thẩm quyền không được tự ý thực hiện các công việc không được
quy đinh trong luật và các công việc vượt quá giới hạn cho phép.
- Áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án ma túy là hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước, hoạt động này do tòa án, được nhà nước trao quyền, lựa
chọn các quy định của bộ luật tố tụng hình sự và bộ luật hình sự để áp dụng giải
quyết những hành vi có dấu hiệu của tội phạm về ma túy. Trong khuôn khổ pháp
luật cho phép, thẩm phán và hôi thẩm nhân dân khi áp dụng cần phải dựa theo
quy định của pháp luật và sự sáng tạo, vận dụng linh hoạt vào các trường hợp cụ


13
thể, dựa trên niềm tin và kinh nghiệm thực tiễn.
- Áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án ma túy diễn ra trên phạm vi
rộng với nhiều loại hành vi đa dạng, phức tạp. Tuy cùng một loại án về ma túy,
nhưng mỗi vụ việc xét xử lại có nhưng hành vi với tính chất, mức độ, phạm vi
và đối tượng có nhân thân khác nhau. Có vụ án bị can, bị cáo thành khẩn khai
báo, hợp tác khiến cho việc áp dụng pháp luật đơn giản hơn, thời gian ngắn hơn.
Ngược lại, có vụ án đương sự quanh co, chối tội, không khai báo thành khẩn,
không thu thập được chứng cứ một cách dễ dàng.
- Áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án ma túy là hoạt động mang tính
khoa học và sáng tạo, do thẩm phán và hội đồng xét xử thực hiện, sao cho phù
hợp, khoa học để xét xử hành vi có dấu hiệu của tội phạm về ma túy.
Từ sự phân tích các dấu hiệu đặc trưng của việc áp dụng pháp luật trong
giải quyết các vụ án về ma túy, có thể rút ra khái niệm về áp dụng pháp luật của
tòa án trong xét xử các vụ án ma túy như sau: ADPL trong xét xử các vụ án ma

túy là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước, mà trong đó nhà nước
thông qua đội ngũ thẩm phán hoặc hội đồng xét xử căn cứ và quy định của bộ
luật hình sự và bộ luật tố tụng hình sự và các quy định khác của pháp luật liên
quan để ra quyt định hoặc bản án làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
pháp luật về hình sự.
1.2. CÁC GIAI ĐOẠN VÀ NỘI DUNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN MA TÚY CỦA TÒA ÁN
1.2.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật của tòa án trong xét xử các vụ
ma túy
1.2.1.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật có vai trò và ý
nghĩa hết sức quan trọng trong thực hiện chức năng và tổ chức quản lý của Nhà
nước đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Thông qua hình thức
này, các quy định của pháp luật được đưa vào cuộc sống một cách triệt để và
chính xác, ý chí nhà nước trở thành hiện thực nhằm đảm bảo cho bộ máy nhà
nước, các tổ chức và mọi cá nhân hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật; bảo


14
vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của nhà nước, các tổ chức và quyền lợi hợp
pháp của mọi công dân. Có thể phân quá trình áp dụng pháp luật thành các giai
đoạn sau đây:
- Phân tích, đánh giá những tình tiết khách quan của vụ việc và các dấu
hiệu pháp lý đặc trưng của nó[56]. Đây là khâu đầu tiên có ý nghĩa quan trọng
đối với việc áo dụng pháp luật. Để giải quyết vụ việc chính xác và đúng đắn chủ
thể áp dụng pháp luật phải hiểu được bản chất của vụ việc, làm rõ tính chất pháp
lý của nó, nắm rõ các tình tiết và xem toàn diện, khách quan các chứng cứ, tài
liệu có liên quan đến vụ việc đó. Trong trường hợp cần thiết phải sử dụng các
biện pháp chuyên môn để xác định độ tin cậy của chứng cứ, tài liệu. Đây là cơ
sở thực tế để áp dụng pháp luật đúng đắn và chính xác.

- Lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng, phân tích, làm sáng tỏ tư
tưởng và nội dung của quy phạm pháp luật [56]. Đây là giai đoạn tiếp theo của
áp dụng pháp luật. Sau khi đã xác định đầy đủ các dấu hiệu (đặc trưng) pháp lý
của vụ việc đang xem xét, các cơ quan và người có thẩm quyền phải lựa chọn
quy phạm pháp luật phù hợp để giải quyết vụ việc đó. Trước hết cần xác định
ngành luật điều chỉnh, các định chế định và quy phạm pháp luật điều chỉnh nó.
Sau đó cần lựa chọn văn bản quy phạm pháp luật và quy phạm pháp luật cụ thể
nào điều chỉnh quan hệ pháp luật đó. Khi đã tìm được quy phạm pháp luật thích
hợp, cơ quan, người có thẩm quyền phải nghiên cứu để hiểu chính xác nội dung
quy phạm pháp luật đó. Hoạt động này đòi hỏi tư duy của chủ thể áp dụng pháp
luật trên cơ sở các phương pháp giải thích pháp luật như: phương pháp lôgic,
phương pháp giải thích về mặt văn phạm, mặt hệ thống, mặt lịch sử…Việc lựa
chọn quy phạm pháp luật cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Văn bản quy phạm pháp luật đã lựa chọn là văn bản chính thức và đang
còn hiệu lực thi hành [56]. Trong trường hợp có nhiêu văn bản quy phạm pháp
luật cùng điều chỉnh về một vấn đề, thì văn bản lựa chọn phải là văn bản có hiệu
lực pháp lý cao hơn. Trường hợp cùng một loại vấn đề lại có hai văn bản cùng
một loại cơ quan ban hành có nội dung khác nhau thì văn bản ban hành sau cùng
là văn bản quy phạm pháp luật cần áp dụng.


15
+ Quy phạm pháp luật lựa chọn để áp dụng phải là quy phạm pháp luật
đang có hiệu lực ở thời điểm xảy ra vụ việc đang xem xét giải quyết [56].
- Ra văn bản áp dụng pháp luật: Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá
trình áp dụng pháp luật, nó phản ánh kết quả của các giai đoạn áp dụng pháp luật
trước đó. Ở giai đoạn này, các cơ quan, người có thẩm quyền ra văn bản trong
đó xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên tham gia quan hệ
pháp luật, những biện pháp hay trách nhiệm pháp lý của người vi phạm [56].
Văn bản pháp luật thể hiện trình độ và năng lực của người có thẩm quyền áp

dụng pháp luật. Thông qua các văn bản áp dụng pháp luật, những tình tiết của vụ
việc được đánh giá chính xác về mặt pháp lý, các quyền và nghĩa vụ pháp lý
được quy định trong các quy phạm pháp luật được cụ thể hóa trong từng trường
hợp cụ thể.
Một yêu cầu đặt ra đối với việc ra văn bản áp dụng pháp luật là quyết định
áp dụng pháp luật phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, đúng với quy phạm
pháp luật áp dụng [56]. Văn bản áp dụng pháp luật phải đảm bảo đúng hình
thức, đúng hình thức (tên gọi, hình thức thể hiện) và nội dung của văn bản phải
rõ ràng, chính xác về vụ việc, chủ thể cụ thể và chỉ áp dụng một lần.
- Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật [56]: Đây là giai đoạn
cuối của quá trình áp dụng pháp luật bao gồm các các hoạt động tổ chức đảm
bảo về mặt kĩ thuật, vât chất để đảm bảo việc thực hiện văn bản áp dụng pháp
luật được đầy đủ và chính xác. Ngoài ra, cần phải tiến hành các hoạt động kiểm
tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện văn bản áp dụng pháp luật của các cơ
quan, tổ chức và cá nhân nhằm bảo đảm để quyết định áp dụng pháp luật trở
thành hiện thực trong đời sống xã hội.
1.2.1.2. Các giai đoạn áp dụng pháp luật của tòa án trong xét xử các vụ
án ma túy
ADPL của tòa án nói riêng là sự biểu hiện của ADPL nói chung nhưng áp
dụng pháp luật trong xét xử các vụ án ma túy mang tính chất đa dạng của các
hành vi vi phạm đối với các tội phạm ma túy nên có thể chia áp dụng pháp luật
của tòa án đối với các vụ án ma túy thành các quá trình sau:


16
Một là, phân tích những tình tit khách quan của vụ án ma túy, làm rõ ràng
các đặc trưng của vụ án
Đây là giai đoạn đầu tiên trong quá trình xét xử một vụ án ma túy; trong
hoạt động này tòa án phải xác định rõ thẩm quyền xét xử, hành vi vi phạm thuộc
điều luật nào để giải quyết. Do vậy, trong hoạt động này tòa án cần thu thập đầy

đủ các thông tin liên quan đến vụ việc như kết luận điều tra, cáo trạng của viện
kiểm sát, các tài liệu chứng cứ kèm theo để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ việc.
Để phân tích được các tình tiết khách quan của vụ việc để đảm bảo cho
việc ra các quyết định được đúng thời hạn và có căn cứ, sau khi nhận hồ sơ do
viện kiểm sát chuyển sang, phải tiến hành vào sổ thụ lý, thẩm phán chủ tọa
phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu ngay hồ sơ cũng như khiếu nại và yêu cầu của
người tham gia tố tụng (nếu có) nhằm giải quyết những vấn đề cần thiết cho việc
mở phiên tòa. Khi nghiên cứu hồ sơ cần chú ý vào việc làm sáng tỏ các vấn đề
như xác định vụ việc có thuộc thẩm quyền của mình hay không, có đủ căn cứ
làm sáng tỏ nội dung vụ án hay chưa, việc điều tra có đúng quy định của pháp
luật hay không, hành vi mà bị cáo bị truy tố có cấu thành tội phạm hay không,
có cần áp dụng, hủy bỏ, thay đổi các biện pháp ngăn chặn hay không, đã thu giữ
đầy đủ tang vật chưa, có cần áp dụng biện pháp đảm bảo bồi thường không, có
lý do để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án không.
Đây là một quá trình phức tạp, đòi hỏi việc nghiên cứu, xem xét phải đầy
đủ, chính xác; thông thường phải bắt đầu từ bản cáo trạng vì cáo trạng là căn cứ
để tiến hành tại phiên tòa. Ngoài ra tất cả các hồ sơ giấy tờ, tài liệu khác cũng
cần được xem xét kỹ lưỡng, không được bỏ sót bất kì tài liệu nào.
Hai là, lựa chọn QPPL về hình sự, tố tụng hình sự để giải quyt vụ án ma
túy.
Việc lựa chọn QPPL luật hình sự để ADPL khi xét xử một vụ án ma túy
chủ yếu dựa trên ý chí đơn phương của tòa án, không phụ thuộc vào ý chí của
người bị áp dụng, điều này được thể hiện rất rõ trong việc ADPL để giải quyết
vụ án hình sự về ma túy. Đây là giai đoạn quan trọng trong quy trình áp dụng
pháp luật vì nếu không đưa ra cơ sở pháp lý có sức thuyết phục, phù hợp sẽ ảnh


17
hưởng trực tiếp đến các giai đoạn sau và đến kết quả của quá trình áp dụng. Ở
đây cần phải hiểu, có hai loại quy phạm pháp luật cùng có liên quan đến việc

đưa ra quyết định áp dụng pháp luật, đó là quy phạm luật hình sự và quy phạm
pháp luật tố tụng hình sự. Các quy phạm luật hình sự xác định nội dung cần áp
dụng, điều chỉnh pháp luật. Về nguyên tắc, cần phải chọn quy phạm pháp luật
còn hiệu lực và sát thực với nội dung sự kiện, quan hệ cụ thể đó. Cần làm rõ quy
phạm pháp luật đó sau đó phân tích, làm sáng tỏ nội dung của quy phạm đã lựa
chọn để có thể hiểu được một cách đầy đủ các khía cạnh nhận thức về nội dung
của quy phạm đó đối với quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế.
Ba là, làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung QPPL hình sự và QPPL khác có
liên quan khi áp dụng giai quyt vụ án ma túy.
Đây là quá trình vận dụng tổng hợp các tri thức kinh tế, văn hóa, xã hội đặc
biệt là các tri thức pháp lý. Để làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng, nội dung QPPL
có liên quan đến ma túy đòi hỏi người có thẩm quyền cần nhận thức đúng đắn
nội dung tư tưởng của QPPL đưa ra áp dụng để việc giải quyết vu án được chính
xác, khách quan, khoa học và không bỏ lọt tội phạm cũng như làm oan sai người
không có tội.
Bốn là, ra quyt định ADPL hình sự và tố tụng hình sự để giải quyt đối với
vụ án ma túy.
Đây là giai đoạn quan trọng bởi nó phản ánh kết quả thực tế của quá trình
áp dụng pháp luật của tòa án trước đó. Về bản chất, đây là giai đoạn chuyển hóa
những quy định chung được nêu ra trong các quy phạm pháp luật hình sự, tố
tụng hình sự thành những quy định cụ thể, cá biệt. Vì thế, có thể hiểu: Quyết
định ADPL của tòa án được hiểu là quyết định do tòa án áp dụng được ban hành
theo hình thức, thủ tục do luật tố tụng hình sự quy định, nhằm cụ thể hóa các
quy phạm pháp luật hình sự và QPPL khác có liên quan thành mệnh lệnh pháp
luật áp dụng đối với đối tượng xác định trong trường hợp cụ thể và được nhà
nước bảo đảm thực hiện.
Quyết định áp dụng pháp luật của tòa án khi xét xử các vụ án ma túy có các
đặc điểm sau đây:



18
* Quyt định áp dụng pháp luật được ban hành bởi tòa án - cơ quan được
nhà nước trao thẩm quyền áp dụng pháp luật.
Theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự và hình sự thì chỉ có tòa án mới
có quyền ban hành bản án để kết án một người nào đó; tòa án cấp huyện có
quyền ban hành bản án để kết án về tội phạm mà hình phạt cao nhất được pháp
luật quy định là 15 năm tù giam (trừ một số loại tội phạm được pháp luật quy
định); tòa án cấp tình có quyền ban hành bản án để kết án người phạm tội trong
các trường hợp còn lại. Vì vậy, không có cơ quan nào ngoài tòa án có quyền ban
hành quyết định áp dụng pháp luật đề tuyên một người nào đó là có tội hay
không, hoặc tòa án cấp huyện thì không có quyền ban hành bản án để kết án một
người về một tội danh có mức phạt cao nhất trên 15 năm tù giam…
Quyết định áp dụng pháp luật được ban hành ra phải đảm bảo tính khách
quan, hợp pháp cũng như sự phù hợp cả về nội dung và hình thức. Sự phù hợp
của quyết định áp dụng pháp luật được đưa ra cần phải xem xét ở cả hai khía
cạnh là pháp lý và thực tế. Theo đó, mức độ cá thể hóa càng chi tiết, sát thực về
nội dung, yêu cầu và đảm bảo khách quan thì quyết định áp dụng pháp luật càng
chính xác, hiệu quả. Quyết định áp dụng pháp luật của tòa án được thể hiện bằng
văn bản.
* Quyt định áp dụng pháp luật của tòa án khi xét xử các vụ án ma túy
được ban hành theo hình thức, thủ tục pháp luật tố tụng hình sự quy định
Quyết định áp dụng pháp luật thường trực tiếp làm phát sinh những quyền
và nghĩa vụ của các đối tượng có liên quan. Vì vậy, quyết định áp dụng pháp
luật của tòa án nếu được ban hành kịp thời, đúng đắn thì sẽ bảo vệ kịp thời các
quyền và lợi ích chính đáng đã, đang bị xâm hại hoặc đang bị đe dọa xâm hại,
hay tạo điều kiện đầy đủ cho các đối tượng tác động của quyết định thực hiện
các quyền, nghia vụ của mình. Ngược lại, quyết định áp dụng pháp luật sai trái
cũng có khả năng gây tổn hại các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp
dụng pháp luật. Chính vì vậy, tòa án khi áp dụng pháp luật yêu cầu bằng văn bản
nhằm đảm bảo chất lượng của quyết định áp dụng pháp luật trong đó có yêu cầu

đúng hình thức, thủ tục pháp luật quy định. Những trường hợp quyết định áp


19
dụng pháp luật ban hành không đúng hình thức có thể gây hiểu lầm về nội dung,
tính chất vụ việc, ban hành không đúng thủ tục có thể làm cho nội dung quyết
định không chính xác, thiếu khách quan nên không ít trường hợp quyết định áp
dụng pháp luật được ban hành không đúng thủ tục, không có hiệu lực pháp lý.
* Quyt định áp dụng pháp luật của tòa án khi xét xử các vụ án ma túy có
nội dung là các mệnh lệnh cụ thể hóa quy phạm pháp luật hình sự vào những
trường hợp cụ thể, áp dụng đối với đối tượng xác định
Hoạt động áp dụng pháp luật của tòa án, như đã phân tích ở trên, đòi hỏi
mang tính sáng tạo rõ rệt, nhưng là sự sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật. Do
đó, nội dung quyết định áp dụng pháp luật không được vượt quá phạm vi các
quy phạm pháp luật hình sự được chọn để áp dụng. Nếu một vụ việc về ma túy
xảy ra ở những thời điểm khác nhau, đối với các đối tượng khác nhau thì nội
dung quyết định áp dụng có thể khác nhau. Chẳng hạn, hai người đều thực hiện
hành vi vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng một người thực hiện hành vi với
một số tình tiết tăng nặng và một người thực hiện hành vi không có tình tiết tăng
nặng hay giảm nhẹ thì mức hình phạt dành cho hai người sẽ khác nhau. Do nội
dung quyết định phải phù hợp với những tình tiết cụ thể của vụ việc được áp
dụng nên mỗi quyết định chỉ được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối
tượng nhất định trong một trường hợp nhất định mà thôi.
* Quyt định áp dụng pháp luật là cơ sở pháp lý để tổ chức thực hiện pháp
luật, là căn cứ để đánh giá năng lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân ban hành
quyt định, để kiểm tra, giám sát sự tuân thủ pháp luật của các đối tượng có liên
quan
Bằng việc ban hành quyết định áp dụng pháp luật, tòa án cần xác định
những quyền và nghĩa vụ, thời hạn và cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ
đó, hậu quả của việc không thực hiện các nghĩa vụ đã được xác định đồng thời

xác định phương thức bảo vệ các quyền và lợi ích liên quan đến nội dung quyết
định áp dụng pháp luật.
Năm là, tổ chức thực hiện trên thực t quyt định áp dụng pháp luật đã
được ban hành và đã có hiệu lực pháp lý


20
Trước hết có thể nói, hiện nay trong khoa học và thực tiễn pháp lý nước ta
còn có ý kiến khác nhau đối với giai đoạn này. Có ý kiến khẳng định, đây không
phải là một giai đoạn trong quy trình áp dụng pháp luật. Quy trình áp dụng pháp
luật có kết quả cuối cùng là đưa ra quyết định áp dụng pháp luật. Việc tổ chức
thực hiện quyết định áp dụng pháp luật không phải lúc nào cung là hoạt động có
tính liên tục được thực hiện ở cùng chủ thể đưa ra quyết định đó. Tuy nhiên
cung có quan điểm khác cho rằng, tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp
luật cần phải coi là một giai đoạn của quy trình áp dụng pháp luật. Mặc dù
không phải lúc nào chủ thể đưa ra quyết định áp dụng pháp luật đồng thời tổ
chức thực hiện quyết định đó. Xét theo quan điểm toàn diện cho thấy, về mặt nội
dụng, mục đích của việc áp dụng pháp luật của tòa án khi xét xử các vụ án ma
túy phải được cụ thể hoá trên thực tế. Đó là một quy trình thống nhất và toàn
vẹn của nhiều yếu tố liên thông, là kết quả của việc chuyển hoá QPPL hình sự
vào trường hợp vi phạm cụ thể vào đời sống thực tiễn. Áp dụng pháp luật của
tòa án chỉ có giá trị thực và hiệu lực khi nội dung quyết định cá biệt được các
chủ thể có liên quan tôn trọng thực hiện. Như vậy, việc tòa án tiến hành áp dụng
QPPL hình sự không tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật của mình
đưa ra hoàn toàn không phủ nhận đó là một giai đoạn cuối cùng của áp dụng
pháp luật.
1.2.2. Nội dung hoạt động áp dụng pháp luật của tòa án trong xét xử
các vụ án ma túy
Hoạt động ADPL trong xét xử các vụ án về ma túy rất đa dạng và có thể
quy về các nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, hoạt động áp dụng pháp luật của tòa án trong quá trình chuẩn bị
xét xử đối với các vụ án ma túy.
Quá trình này được xác định kể từ khi nhận được hồ sơ do viện kiểm sát
chuyển sang. Để có thể quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc các quyết định tố
tụng khác phù hợp với yêu cầu phải có thời gian chuẩn bị, tức là nghiên cứu hồ
sơ và giải quyết các yêu cầu của người tham gia tố tụng đồng thời tiến hành
những việc cần thiết cho việc mở phiên tòa sơ thẩm.

×