Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Sản phẩm tự học và thảo luận nhóm học phần kinh tế tiền tệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.75 KB, 9 trang )

SẢN PHẨM TỰ HỌC VÀ THẢO LUẬN NHÓM
HỌC PHẦN KINH TẾ TIỀN TỆ QUỐC TẾ
NHÓM 2- LỚP K501
Thành viên :
CHỦ ĐỀ 2: KIỂM CHỨNG HIỆU ỨNG J
1. Số liệu về Tỷ giá hối đoái (USD/VND) và Cán cân vãng lai của Việt Nam qua các
năm (1986-2014)
Bảng số liệu Tỷ giá hối đoái (USD/VND) và Cán cân vãng lai của Việt Nam
từ năm 1968 đến năm 2014
Năm
Tỷ giá hối đoái
(USD/VND)
Cán cân vãng lai
(tỷ USD)
1986
23
-1.480
1987
78
-1.388
1988
607
-0.769
1989
4,464
-0.584
1990
6,483
-0.259
1991
10,037


-0.133
1992
11,202
-0.008
1993
10,641
-1.395
1994
10,966
-1.872
1995
11,038
-0.254
1996
11,033
-2.020
1997
11,683
-1.528
1998
13,268
-1.074
1999
13,943
1.177
2000
14,168
1.106
2001
14,725

0.682
2002
15,280
-0.604
2003
15,510
-1.931
2004
15,746
-1.591
2005
15,859
-0.560
2006
15,994
-0.164
2007
16,105
-6.992
2008
16,302
-8.430
2009
17,065
-4.317
2010
18,613
-3.985
2011
20,510

-4.179
2012
20,828
-3.888
2013
20,933
-3.764
2014
21,148
-4.135
Nguồn : Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB)
2. Bình luận về biến động Tỷ giá hối đoái (VND/USD) và tình hình Cán cân vãng lai qua
các giai đoạn
1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đóng cửa và hướng nội.
Đây là thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Các bạn hàng chủ yếu là các nước
xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là XHCN) trong hội đồng tương trợ kinh tế. Hình thức trao đổi
thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng giữa các nước theo một tỷ giá đã được thoả thuận
trong hiệp định ký kết song phương hay đa phương.
1.1. Chính sách tỷ giá
Tỷ giá được xác định dựa trên việc so sánh sức mua giữa hai đồng tiền, sau đó
được qui định trong các hiệp định thanh toán được ký kết giữa các nước XHCN. Tỷ giá
của Việt Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955 là tỷ giá giữa đồng Nhân
dân tệ (CNY) và VND là 1CNY=1470VND. Sau đó, khi Việt Nam có quan hệ ngoại
thương với Liên Xô, tỷ giá giữa VND và đồng Rúp (SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa
CNY và SUR đã có từ trước. 1 SUR = 0.5 CNY ⇒ 1 SUR = 735 VND.Tỷ giá hối đoái
trong giai đoạn này được giữ cố định trong một thời gian dài.
Một đặc trưng nữa của tỷ giá trong giai đoạn này là “đa tỷ giá” tức là việc tồn tại
song song nhiều loại tỷ giá. Do nhà nước ấn định một mức tỷ giá cố định trong khi các
giao dịch chủ yếu là hàng đổi hàng nên khi hàng xuất khẩu của Việt Nam từ đầu năm tính

theo tỷ giá cố định và hàng đổi lại nhập khẩu từ nước ngoài vào cuối năm trong khi đồng
ngoại tệ lại có sự biến đổi (tăng giảm giá trị ngoại tệ và chi phí sản xuất) nên để phù hợp
với hợp đồng trao đổi hàng hóa, tỷ giá trong giao dịch nhập khẩu này được điều chỉnh
cho phù hợp và khác với tỷ giá do nhà nước ấn định. Ngoài ra, với chính sách ưu tiê xuất
khẩu và nhập khẩu một số ngành hàng nên tỷ giá khi tính giá trị xuất/nhập các mặt hàng
này cũng được điều chỉnh cho phù hợp với chính sách ưu tiên.
1.2. Tác động của tỷ giá lên hoạt động xuất nhập khẩu
Thực ra trong giai đoạn này do quan hệ thương mại đầu tư của Việt Nam và khối
SEV là quan hệ hàng đổi hàng, mang nặng tính chất viện trợ, việc di chuyển, chuyển giao
về ngoại tệ là không có nên việc quy định tỷ giá hối đoái giữa VND và các ngoại tệ khác
chỉ mang tính hạch toán.
Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam còn yếu, vị thế trên thị trường chưa có nên Việt
Nam không có lợi thế trong việc đàm phán mức tỷ giá có lợi cho mình nên đồng VND
luôn được định giá quá cao
Cán cân thương mại bị thâm hụt nặng, xuất khẩu gặp nhiều bất lợi trong khi nhập
khẩu thì có lợi và thường xuyên tăng lên. Hậu quả là hàng nội bị hàng ngoại chèn ép, sản
xuất trong nước bị đình đốn.
Nhà nước phải áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ để bù lỗ cho các đơn vị sản xuất
hàng xuất khẩu nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa đủ bù đắp chi phí sản xuất.
Cán cân thanh toán bị bội chi, dự trữ ngoại tệ bị giảm sút, phản ứng của chính phủ lúc
này là tăng cường quản lý ngoại hối, bảo hộ mậu dịch và kiểm soát hàng nhập khẩu.
Nhưng từ đó nảy sinh tình trạng khan hiếm vật tư, hàng hóa, nguyên vật liệu cần thiết
khiến cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, sản xuất trong nước trì trệ, đình đốn lại càng trở
nên tồi tệ, sức ép lạm phát tăng vọt.
Trước tình hình đó, tỷ giá cũng được bước đầu điều chỉnh mặc dù chỉ số giá cả
hằng năm biến động rất lớn. Tuy nhiên , trong những năm 1988,1989 xuất khẩu chỉ bằng
1/3 nhập khẩu . Vì vậy, khi nâng tỷ giá cao đột ngột sẽ gây tác động mạnh đến mức giá
trong nước .
Ngày 20/10/1988 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ ) ra
quyết định số 271/CT cho phép Ngân hàng Nhà nước được phép điều chỉnh tỷ giá phù

hợp với sự biến động giá cả trong nước theo nguyên tắc thời giá trừ lùi 10% đến 30% cá
biệt đến 50%. Nghị định 53/HĐBT ra đời, qui định về việc tách hệ thống Ngân hàng Việt
Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý
vĩ mô và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín
dụng. Tỷ giá mua bán của các ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức
do NHNN công bố cộng trừ 5%.
Quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ta cùng lúc với việc điều chỉnh
giảm giá mạnh nội tệ. Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều hành tỷ giá dựa
chủ yếu vào quan hệ cung cầu trên thị trường, nhà nước đã thông qua chính sách tỷ giá
linh hoạt hơn – điều chỉnh tỷ giá chính thức theo tỷ giá trên thị trường tự do sao cho mức
chênh lệch nhỏ hơn 20%. Kết quả là mức chênh lệch tỷ giá được thu hẹp.
Có thể dễ dàng nhận thấy trước thời điểm 1989, khi Nhà nước càng cố gắng hạ giá đồng
nội tệ thì nhập siêu lại càng nặng. Nếu nhập siêu năm 1987 khoảng 1,6 tỷ USD thì sang
năm 1988, khi tỷ giá bị hạ xuống thấp hơn so với năm trước đó 8 lần thì nhập siêu lại lên
đến hơn 1,7 tỷ. Điều này cho thấy việc hạ giá đồng Việt Nam trong bối cảnh vẫn áp dụng
tỷ giá kết toán nội bộ không những không kích thích được ngoại thương mà còn đẩy hoạt
động này đến tình cảnh nhập siêu trầm trọng hơn.
Năm 1989, sau khi xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thực hiện thống nhất tỷ giá, bộ
mặt ngoại thương lập tức có biến chuyển rõ nét. Mặc dù mức giá đồng ngoại tệ chỉ tăng
30% ( ít hơn so với giai đoạn trước đó) song nhập khẩu đã giảm xuống chỉ bằng 93% so
với năm trước, xuất khẩu được kích thích tăng trưởng nên kim ngạch đã đạt được 1,3 tỷ
đô la, thu hẹp khoảng cách nhập siêu xuống còn 1,2 tỷ đô la (so với mức 1,7 tỷ đô la năm
1988).
Thời kỳ 86-89, tổng độ co giãn xuất nhập khẩu chỉ đạt 0,003 một chỉ số quá thấp
thể hiện nền kinh tế tăng trưởng không bền vững hay đúng hơn là không tăng trưởng.
Trung bình giá đồng nội tệ giảm 1 đồng thì xuất khẩu chỉ tăng có 0,195 đồng và nhập
khẩu giảm 0,192 đồng. Nhưng do lượng hàng xuất đi luôn nhỏ hơn lượng hàng nhập về
nên tình trạng kim ngạch nhập khẩu lớn gấp hai, ba lần kim ngạch xuất khẩu diễn ra liên
tục trong 3 năm 1986-1989. Lý do cơ bản giải thích cho vấn đề này chính là trong khi sản
xuất hàng xuất khẩu sụt giảm, động lực xuất khẩu bị thủ tiêu do tính cứng nhắc của tỷ

giá, thì nhập khẩu lại tăng lên để phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, nhu cầu mà sản
xuất trong nước chưa thể đáp ứng nổi.
2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái
Thời kỳ này đánh dấu sự sụp đổ của hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Quan
hệ ngoại thương với các thị trường truyền thống bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển
sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng đồng Đô-la Mỹ.
Quá trình đổi mới kinh tế thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ năm 1989. Chính
phủ cam kết và thực thi chiến lược ổn định hóa nền kinh tế - tài chính – tiền tệ, trong đó
vấn đề tỷ giá được coi là khâu đột phá, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình cải
cách, chuyển đổi cơ chế và mở cửa kinh tế.
2.1. Chính sách tỷ giá.
Đây là giai đoạn đầu tiên thực hiện cải cách cơ chế điều chỉnh tỷ giá đồng Việt
Nam (VND) với Đôla Mỹ. Ngân hàng Nhà nước đề nghị với chính phủ thành lập Quỹ
điều hòa ngoại tệ tại NHNN để có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ
giá. Chính phủ đã ủy quyền cho Thống đốc NHNN được toàn quyền điều hành quỹ một
cách linh hoạt.
Ngân hàng Nhà nước đã thành lập Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Thành phố Hồ
Chí Minh (tháng 9/1991) và Hà Nội (tháng 11/1991). Đối tượng tham gia giao dịch trên
các trung tâm này là các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ, các tổ chức xuất nhập
khẩu kinh doanh trực tiếp với nước ngoài và NHNN. Ngoài ra, các ngân hàng được phép
tập hợp các yêu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng không trực tiếp mua bán tại trung
tâm. Trung tâm hoạt động theo nguyên tắc đấu giá từ thấp đến cao hoặc ngược lại để đạt
được cân bằng cung cầu về ngoại tệ.
Tỷ giá chính thức của Đồng Việt Nam được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng
cửa tại các phiên giao dịch ở các trung tâm theo nguyên tắc tỷ giá mua vào không được
vượt quá 0,5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước.
2.2. Đánh giá tác động
Chính phủ đã có những bước đi mới để tỷ giá đồng VND được linh hoạt hơn theo
nhu cầu thị trường và điều này đã tạo nên những chuyển biến trong tình hình xuất nhập
khẩu của Việt Nam.

cho thấy giá trị danh nghĩa đồng Việt Nam sụt giảm mạnh và liên tiếp trong suốt
giai đoạn 89-92. Từ mức tỷ giá 1USD = 3000VND năm 1989, đồng nội tệ đã giảm xuống
9767 đồng/đôla năm 1991; trong vòng 3 năm, tỷ giá đã sụt giảm gần 3 lần. Sự sụt giảm
này đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là trên phương
diện kim ngạch xuất-nhập khẩu trong quan hệ buôn bán với các quốc gia bao gồm cả
những nước tư bản phương tây.
Do tỷ giá chính thức được điều chỉnh tiến sát với tỷ giá thị trường, hình thành theo
quy luật cung cầu nên tác động của tỷ giá đến hoạt động thương mại- xuất nhập khẩu trở
nên rõ nét hơn, chính xác hơn. Giá đồng nội tệ giảm xuống thực sự kích thích tăng
trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Năm 1989 nếu tỷ giá giảm 1 đồng, xuất khẩu lập
tức tăng lên 0,97 đồng, thì bước sang năm 1990 sau khi giảm tỷ giá xuống trên 60% thì 1
đồng giảm của tỷ giá lại khiến xuất khẩu tăng những 1,13 đồng, một mức tăng khá, thể
hiện xuất khẩu co giãn hoàn toàn với tỷ giá do đó có tác động tích cực lên hoạt động xuất
khẩu. Trong ba năm 1989-1991 yếu tố nổi bật trong tác động của tỷ giá đến hoạt động
nhập khẩu là mức giảm giá đồng nội tệ càng lớn thì mức tăng nhập khẩu càng giảm. Đơn
cử như năm 1989, mức giảm giá 30%, trong đó 1 đồng giảm giá kéo theo mức tăng 0,71
đồng thì bước sang năm 1990, tỷ giá giảm đến 60% đã lập tức thu hẹp mức tăng nhập
khẩu xuống còn 0,66 đồng.
Xét về tác động của tỷ giá lên cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giai đoạn 1989-
1991, cùng với sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở giảm giá đồng nội tệ, nền
kinh tế đã tích lũy được một số vốn sử dụng trong việc đầu tư, mở rộng sản xuất. Sản
xuất lương thực trong nước đối với một số mặt hàng nhờ có vốn đã bắt đầu đủ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước. Số lượng gạo nhập khẩu giảm, thay vào đó là các mặt hàng
thuộc danh mục tư liệu sản xuất, nguyên nhiên vật liệu. Cơ cấu xuất khẩu cũng có sự thay
đổi, danh mục các mặt hàng xuất khẩu được mở rộng. Năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất
khẩu dầu thô với sản lượng 1,5 triệu tấn, đó là chưa kể đến hàng loạt các nhà máy cũ
được đổi mới, các nhà máy mới được xây dựng nhằm phục vụ công tác xuất khẩu. Ngoại
thương được đa dạng hóa ở mức cao, tạo ra được gần 10 mặt hàng chủ lực có kim ngạch
xuất khẩu trên 100 triệu USD. Bên cạnh đó, việc tỷ giá giảm mạnh kéo theo sự tăng lên
đáng kể trong đầu tư nước ngoài đặc biệt là đầu tư trực tiếp đã làm phong phú hơn danh

mục xuất nhập khẩu của Việt Nam. Việc liên doanh thường dẫn đến tình trạng góp vốn
thông qua công nghệ và thế là Việt Nam bắt đầu nhập về những công nghệ mới như công
nghệ dán da, công nghệ xử lý chất thải những công nghệ từ trước tới nay chưa từng có
trong danh mục nhập khẩu để rồi đi đến sản xuất những chủng loại hàng có thể cũng chưa
bao giờ xuất hiện trong danh mục xuất khẩu.
Về thị trường xuất nhập khẩu, do tỷ giá hối đoái neo với đồng đô la được xem là
chuẩn mực nên khu vực thị trường xuất nhập khẩu cũng có xu thế chuyển hướng sang
những khu vực sử dụng đồng đô la trong thanh toán. Tỷ trọng xuất nhập khẩu từ khu vực
đồng Rúp giảm hẳn, chỉ còn khoảng 15% năm 1989 so với 85% năm 1987. Thị trường
Đông Âu không còn giữ vai trò chủ đạo, thay vào đó là sự lên ngôi của thị trường Châu Á
trong hợp tác thương mại với Việt Nam trên cả lĩnh vực xuất khẩu lẫn nhập khẩu.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, thời kỳ này do có lợi thế về giá cộng với rủi
ro tỷ giá hoàn toàn không có nên đã yên tâm phát triển sản xuất, mạnh bạo hơn trong vấn
đề vay vốn và bước đầu sản xuất hàng xuất khẩu có hiệu quả.
Có thể nói, việc mở rộng hoạt động ngoại thương sang khu vực đồng USD là một
bước đi quan trọng, tỷ giá đồng VND được điều chỉnh bởi thị trường đã góp phần thay
đổi bộ mặt xuất nhập khẩu của Việt Nam.
3. Giai đoạn 1992 – 1999
3.1 Chính sách tỷ giá
Tiếp tục những bước thay đổi trong chính sách điều hành tỷ giá, ngày 20/10/1994,
thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập với quy mô lớn hơn, hoạt động linh
hoạt hơn. Do đó, tỷ giá hối đoái ngày cảng phản đầy đủ hơn quan hệ cung cầu thị trường.
Qua thị trường liên ngân hàng, NHNN nắm bắt dấu hiệu thị trường về tỷ giá hối đoái,
công bố tỷ giá chính thức hàng ngày và biên độ giao dịch cho các ngân hàng thương mại
Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu
Á, đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường ngoại hối rơi vào
tình trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung. Trong hai năm 1997-
1998, nhà nước đã ba lần chủ động điều chỉnh tỷ giá VND/USD, đồng thời nới rộng biên
độ giao dịch giữa các ngân hàng thương mại với các khách hàng trên thị trường ngoại tệ.
3.2 Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu

Nhìn vào bảng trên có thể thấy trong các năm từ 1992 – 1999, duy chỉ có năm
1992 là Việt Nam đạt xuất siêu. Tuy nhiên, thành tích xuất siêu kéo dài không được bao
lâu. Ngay trong năm 1992, trong khi 6 tháng đầu năm xuất siêu do tỷ giá diễn biến có lợi
cho xuất khẩu thì 6 tháng cuối năm, nhập siêu liên tục diễn ra.
Những năm 90, có ý kiến cho rẳng tỷ giá không hề ảnh hưởng gì đến hoạt động
xuất-nhập khẩu nói riêng cũng như ngoại thương nói chung, rằng hoạt động này chịu sự
chi phối hoàn toàn của các chiến lược phát triển ngoại thương, cách quản lý hạn ngạch,
cách áp đặt thuế suất và nhất là chất lượng sản phẩm. Song thực tế cho thấy trong khi Bộ
Thương Mại cùng các cơ quan chức năng đang ra sức củng cố, mở rộng thị trường xuất
khẩu, đầu tư mới dây chuyền-công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất
khẩu thì mức tăng kim ngạch xuất khẩu lại sụt giảm. Năm 1994, nếu mức tăng kim ngạch
xuất khẩu đạt khoảng 36% ở mức giảm giá danh nghĩa nội tệ 2,96% thì sang năm 1995,
mức tăng xuất khẩu chỉ đạt khoảng 34% bởi tỷ giá giảm rất thấp, ở mức 0,14%.

×