Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện văn lâm, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 142 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM



ĐỖ THỊ HỒNG



GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
CỦA HỢP TÁC XÃ DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN




LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ



HÀ NỘI, NĂM 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





ĐỖ THỊ HỒNG



GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
CỦA HỢP TÁC XÃ DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN





CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ : 60.34.04.10



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HỮU NGOAN


HÀ NỘI, NĂM 2015

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa được
dùng bảo vệ để lấy bất kỳ học vị nào.
Mọi thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.

Hưng Yên, ngày 24 tháng 4 năm 2015
Tác giả



Đỗ Thị Hồng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập tại trường, nghiên cứu viết luận văn bản thân tôi đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức và các cá nhân.
Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy Cô giáo trong khoa Kinh tế
& phát triển nông thôn, Bộ môn Kế hoạch & ĐT của Học Viện Nông nghiệp Việt
Nam đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành đề tài của mình.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn sự
hướng dẫn tận tình của PGS.TS Nguyễn Hữu Ngoan đã giúp tôi hoàn thành đề tài
của mình.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các anh, chị, bạn thuộc
Liên minh hợp tác xã tỉnh Hưng Yên, Sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn,
các Phòng, Ban thuộc huyện Văn Lâm, các Hợp tác xã nông nghiệp, người dân
thuộc huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên đã giúp tôi thu thập thông tin, số liệu trong

quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cảm ơn sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã tạo điều kiện,
động viên giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ii
LỜI CẢM ƠN iii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC BẢNG vii
DANH MỤC ĐỒ THỊ viii
Phần I MỞ ĐẦU 1
1.1.Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2.Mục tiêu nghiên cứu 3
1.2.1.Mục tiêu chung 3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 3
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu 4
Phần II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 5
2.1. Cơ sở lý luận 5
2.1.1. Các khái niệm và phân loại HTX trong nông nghiệp 5
2.1.2. Vai trò và hình thức hoạt động của Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp 7
2.1.3. Các yêu cầu và nội dung nâng cao chất lượng hoạt động của HTX DVNN 17

2.2. Cơ sở thực tiễn 22
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của HTX DVNN 22
2.2.2. Kinh nghiệm phát triển HTX ở một số nước trên thế giới 31
2.2.3. Kinh nghiệm của một số HTX DVNN ở các địa phương trong nước 35
2.2.4. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về HTX DVNN 39
2.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài đã công bố 40
Phần III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 43
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Văn Lâm 43
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên 43
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 48
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

3.2. Phương pháp nghiên cứu 53
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu 53
3.2.2. Phương pháp tổng hợp số liệu 54
3.2.3. Phương pháp phân tích 54
3.2.4. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích 54
Phần IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 59
4.1. Khái quát tình hình các HTX DVNN huyện Văn Lâm 59
4.1.1. Khái quát chung 59
4.1.2. Tình hình chuyển đổi HTX nông nghiệp sau khi có luật HTX 60
4.1.3. Tình hình thực hiện quản lý vốn quỹ ở HTX nông nghiệp 61
4.1.4. Năng lực hoạt động của các HTX DV NN huyện Văn Lâm 63
4.1.5. Thực trạng tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ 68
4.1.6. Thực trạng chất lượng dịch vụ tại các HTX điều tra 83
4.2. Đánh giá chung về chất lượng hoạt động của HTX DV NN trên địa bàn
huyện Văn Lâm 90
4.2.1. Ưu điểm 90
4.2.2. Những mặt hạn chế, tồn tại 92

4.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của HTX dịch vụ
NN huyện Văn Lâm 93
4.2.4. Phân tích Ma trận SWOT về hoạt động của HTX DVNN huyện Văn Lâm 98
4.3. Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của HTX DV
NN trên địa bàn huyện Văn Lâm giai đoạn 2015 - 2020 101
4.3.1. Định hướng phát triển HTX DVNN 101
4.3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của HTX DV NN trên địa
bàn huyện Văn Lâm đến giai đoạn 2015 – 2020 101
Phần V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 108
5.1. Kết luận 108
5.2. Kiến nghị 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
PHỤ LỤC 114


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BQ : Bình quân
CBQL : Cán bộ quản lý
CHLB : Cộng hoà liên bang
CNH-HĐH : Công nghiệp hoá hiện đại hoá
CNXH : Chủ nghĩa xã hôi
CP : Chi phí
DT : Doanh thu
DV : Dịch vụ
ĐVT : Đơn vị tính
HQ : Hiệu quả

HTX : Hợp tác xã
LN : Lợi nhuận
NN : Nông nghiệp
TS : Tài sản
TSCĐ : Tài sản cố định
TSLĐ : Tài sản lưu động
TTSP : Tiêu thụ sản phẩm
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XV : Xã viên
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

DANH MỤC BẢNG

Số bảng Tên bảng Trang

3.1 Hiện trạng sử dụng đất đai huyện Văn Lâm 2012-2014 46
3.2 Tình hình dân số và các chỉ số liên quan huyện Văn Lâm 2012 - 2014 47
3.3 Cơ cấu kinh tế của huyện Văn Lâm 2012 – 2014 50
4.1 Tình hình chuyển đổi HTX nông nghiệp theo luật 60
4.2 Tình hình tài sản vốn quỹ các HTX DVNN huyện Văn Lâm 2012-
2014 62
4.3 Trình độ lý luận chính trị của cán bộ quản lý HTX DVNN của
huyện Văn Lâm 64
4.4 Trình độ chuyên môn đào tạo của cán bộ quản lý HTX DVNN 65
4.5 Các chức danh trong Ban quản lý HTX DVNN 66
4.6 Tình hình xã viên tham gia các HTX DVNN 68
4.7 Tình hình vốn kinh doanh của các HTX DVNN của huyện Văn Lâm 69
4.8 Số khâu dịch vụ của HTX đảm nhiệm 71

4.9 Kết quả hoạt động dịch vụ Thủy nông, Bảo vệ sản xuất, BVTV và
Khuyến nông của HTX. 72
4.10 Kết quả hoạt động dịch vụ khâu làm đất của HTX 76
4.11 Kết quả hoạt động dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp của các HTX 77
4.12 Kết quả hoạt động dịch vụ điện của HTX 81
4.13 Kết quả hoạt động của các HTX DVNN huyện Văn Lâm năm 2014
(tính bình quân cho một HTX DVNN) 81
4.14 Ý kiến đánh giá của xã viên về chất lượng dịch vụ của HTX DVNN 83
4.15 Kết quả khảo sát về đáp ứng nhu cầu dịch vụ của xã viên 89
4.16 Kết quả Phân tích Ma trận SWOT về hoạt động của HTX DVNN
huyện Văn Lâm. 98

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii

DANH MỤC ĐỒ THỊ

Số đồ thị Tên đồ thị Trang

3.1 Cơ cấu kinh tế huyện Văn Lâm qua các năm 2012-2014 51




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

PHẦN I
MỞ ĐẦU


1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế tập thể là một thành phần kinh tế được Đảng và Nhà nước ta xác
định cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, có
vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) ở nước ta hiện nay. Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức
đa dạng, từ thấp đến cao, trong đó Hợp tác xã (HTX) là nòng cốt. Việc mở rộng
và nâng cao chất lượng hoạt động của kinh tế Hợp tác xã trong các ngành kinh tế
là một đòi hỏi bức thiết đối với cả nước cũng như các tỉnh, thành phố.
Hợp tác xã (HTX) là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, hướng theo lợi
nhuận khi tham gia thị trường, là tổ chức phi lợi nhuận khi hỗ trợ phát triển kinh
tế hộ xã viên vì lợi ích của xã viên, do vậy HTX hội tụ đủ giá trị kinh tế - xã hội
và nhân văn phù hợp với tiến trình phát triển của nhân loại. Kinh tế HTX không
đối lập với kinh tế tư nhân mà là sự liên kết các hình thức sở hữu, các quyền sử
dụng đất đai, tài sản, vốn, sức lao động với hình thức tổ chức thích hợp, sản xuất
tập trung; làm dịch vụ đầu vào, đầu ra, gia công, chế biến và dịch vụ tập trung
một số công đoạn trong quy trình sản xuất và canh tác, trợ giúp hộ xã viên giảm
chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, tạo việc làm…
HTX có vai trò bà đỡ đối với người lao động, giúp họ trong quá trình tổ
chức sản xuất sao cho có lợi nhất; cung cấp dịch vụ đầu vào cho những hộ chưa
sản xuất hàng hóa và giúp đỡ thêm về các dịch vụ đầu ra cho các hộ sản xuất
hàng hóa; làm điểm tựa để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, xây dựng nông
thôn mới xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở mang ngành nghề, phân công lại lao
động, góp phần đảm bảo công bằng xã hội, thực hiện dân chủ ở nông thôn và tiến
tới từng bước xóa đói giảm nghèo (Chu Thị Hảo, 2003).
Trong điều kiện nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ một nền kinh
tế yếu kém, chủ yếu là nông nghiệp, mang nặng tính tự cung, tự cấp, đặc biệt
trong nông nghiệp phần lớn là các hộ nông dân cá thể thì mô hình hợp tác giữa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2


những người sản xuất kinh doanh dịch vụ riêng lẻ dưới nhiều hình thức đa dạng
là xu thế tất yếu khách quan. Phát triển HTX nông nghiệp (HTX NN) không chỉ
nhằm mục tiêu kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội to lớn. Nhà nước thông qua
HTX NN để thực hiện chính sách giúp đỡ, hỗ trợ xã viên xóa đói, giảm nghèo,
thực hiện bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội. Do đó có thể khẳng định HTX
NN có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế và xã hội
của đất nước.
Từ khi luật HTX ra đời, với hệ thống hành lang pháp lý rõ ràng hơn trước,
đã làm cho bản chất HTX thay đổi theo hướng tích cực, nhờ đó đã tạo điều kiện
cho các loại hình HTX ngày càng phát triển. Cũng như cả nước, thời gian qua các
HTX nói chung, HTX NN nói riêng đã có những chuyển biến tích cực, đổi mới
cơ bản về tổ chức bộ máy, quy mô và phương thức hoạt động theo luật HTX năm
2003, đáp ứng được phần lớn các dịch vụ cơ bản trong sản xuất nông nghiệp cho
kinh tế hộ, giúp đỡ hộ xã viên tăng năng lực sản xuất, sản phẩm đạt chất lượng
cao, mở rộng thị trường…Tuy nhiên, trong quá trình phát triển các HTX ở nông
thôn của tỉnh Hưng Yên thời gian qua vẫn còn bộc lộ những hạn chế như: đa
phần các HTX còn mang tính đơn lẻ, thiếu sự liên kết theo hệ thống, phạm vi
hoạt động nhỏ hẹp; phần lớn các HTX có quy mô nhỏ, thiếu vốn để tổ chức các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đại bộ phận nhân dân chưa có sự nhận
thức đúng về HTX, coi HTX như một tổ chức hỗ trợ, cho không vật tư sản xuất,
đa số cơ sở vật chất của các HTX còn nghèo nàn, lạc hậu, các công trình và điều
kiện đảm bảo dùng để ứng dụng, thực nghiệm và chuyển giao các tiến bộ khoa
học kỹ thuật cho xã viên không có; đất đai do HTX sử dụng và quản lý không
còn; trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ HTX còn nhiều hạn chế; các chính sách
hỗ trợ phát triển HTX của Nhà nước chưa được triển khai đồng bộ, HTX vẫn khó
tiếp cận; Sự đa dạng hóa ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của hệ thống
HTX còn thụ động…(Nguyễn Văn Bình và cs., 2001).
Các Hợp tác xã nông nghiệp (HTX NN) vẫn còn bộc lộ những hạn chế
như: HTX quy mô còn nhỏ, cơ sở vật chất thiếu thốn, trình độ kỹ thuật, máy móc
thiết bị lạc hậu, sản phẩm hàng hóa dịch vụ chưa đa dạng, chất lượng chưa cao,

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

lợi ích kinh tế xã hội của xã viên và người lao động còn thấp. Các HTX chưa thật
sự đổi mới về nội dung hoạt động, khả năng xây dựng và tổ chức thực hiện
phương án sản xuất kinh doanh của ban quản trị HTX còn yếu và thiếu tính tham
gia lập kế hoạch của các thành viên nhóm mục tiêu và xã viên. Những hạn chế,
yếu kém trên đã kìm hãm quá trình phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động
của các HTX NN.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn đó, tôi triển khai nghiên cứu đề tài “Giải
pháp nâng cao chất lượng hoạt động của Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
trên địa bàn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.” Để thấy rõ thực trạng, những
mâu thuẫn, những tồn tại và khám phá ra những thuộc tính bản chất, phát hiện ra
quy luật vận động của HTX NN, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp để thúc
đẩy các HTX trên địa bàn huyện Văn Lâm nói riêng và của tỉnh Hưng Yên nói
chung được tốt và đồng bộ hơn.
1.2.Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1.Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, khó khăn, thuận lợi, các yếu tố ảnh hưởng
đến hoạt động của Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp (HTX DVNN), đề xuất những
giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp tại
huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng hoạt động
của HTX;
Đánh giá thực trạng hoạt động của HTX DVNN tại huyện Văn Lâm tỉnh
Hưng Yên trong những năm qua;
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của HTX
DVNN trên địa bàn huyện Văn Lâm;
Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động các

HTXDVNN ở huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên trong những năm tiếp theo.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về chất lượng hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ của HTX dịch vụ nông nghiệp.
Đối tượng khảo sát: các HTX dịch vụ nông nghiệp đang hoạt động kinh
doanh dịch vụ cho xã viên tham gia sản xuất nông nghiệp gồm: hội đồng quản trị,
ban kiểm soát, bộ phận giúp việc cho HTX, các xã viên, người dân không tham
gia HTX và các tổ chức kinh tế- xã hội có liên quan với HTX DVNN.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Phạm vi không gian
Các Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên
1.3.2.2. Phạm vi thời gian
Từ năm 2012 đến năm 2014
1.3.2.3.Phạm vi nội dung
Chất lượng hoạt động của Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và những nội
dung có liên quan đến chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ của Hợp tác xã
dịch vụ nông nghiệp trong qúa trình phát triển nông nghiệp nông thôn của huyện
Văn Lâm tỉnh Hưng Yên.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. Cơ sở lý luận

2.1.1. Các khái niệm và phân loại HTX trong nông nghiệp
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, con người trải qua các hình thái
kinh tế xã hội khác nhau và ở mỗi hình thái kinh tế xã hội đó sự phát triển của lực lượng
sản xuất luôn đi cùng là mối quan hệ sản xuất phù hợp. Chính vì vậy, sự hợp tác giữa
con người với con người trong quá trình sản xuất là một tất yếu khách quan xuất phát từ
nhu cầu của sản xuất, nhu cầu của cuộc sống để nương tượng lẫn nhau, hỗ trợ nhau
trong cuộc sống cũng như trong sản xuất.
Bởi lẽ, thông qua hợp tác sức lực của các cá nhân sẽ được kết hợp lại lớn mạnh
hơn để nhằm thực hiện các công việc mà mỗi cá nhân, đơn vị hoạt động riêng rẽ rất khó
khăn mà thậm trí còn không thể thực hiện được. Chính vì vậy, cùng tiến trình phát triển
của xã hội loài người, quá trình phân công lao động và chuyên môn hóa trong sản xuất
cả về chiều sâu lẫn bề rộng đã thúc đẩy quá trình hợp tác ngày càng tăng. Sự hợp tác
không chỉ được giới hạn ở phạm vị vùng, quốc gia mà còn được mở rộng ra phạm vi
toàn cầu. Quá trình hợp tác tất yếu đã diễn ra trên phạm vi thế giới như quá trình hội
nhập ngày càng sâu rộng của các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội,… đã làm cho sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt khiến cho các doanh
nghiệp đều phải thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh của mình cho phù hợp với xu
thế mới.
Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế hợp tác tự nguyện, phối hợp, hỗ
trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi
ích của mỗi thành viên (Bộ nông nghiệp và PTNT, 2000).
Trong nền kinh tế nước ta hiện đang tồn tại nhiều loại hình kinh tế hợp
tác. Mỗi loại hình lại phản ánh đặc điểm, trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và phân công lao động tương ứng. Cụ thể:
Kinh tế hợp tác giản đơn là các tổ, hội, nhóm hợp tác được hình thành trên
cơ sở tự nguyện của các chủ thể kinh tế độc lập và có mục đích, hoạt động kinh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

doanh giống nhau, nhằm cộng tác, trao đổi những kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau

trong hoạt động sản xuất kinh doanh (Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, 2010)
Hợp tác xã là một loại hình kinh tế hợp tác phát triển ở trình độ cao hơn loại
hình kinh tế hợp tác giản đơn. Theo Liên minh HTX quốc tế (1895) tại Luân Đôn,
Vương Quốc Anh đã định nghĩa “HTX là một tổ chức chính trị của những người tự
nguyện liên hiệp lại để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã
hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”. Đến năm
1995, định nghĩa này được hoàn thiện: “HTX dựa trên ý nghĩa tự cứu mình, tự chịu
trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Các xã viên HTX tin tưởng vào ý nghĩa
đạo đức, về tính trung thực, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác” .
Trên cơ sở tạo hành lang pháp lý cho hệ thống HTX định hướng và phát
triển, ngày 20/03/1996 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa IX kỳ họp thứ
IX đã thông qua Luật HTX. Theo Luật này, HTX được định nghĩa:
“Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi
ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật
để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện
có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời
sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”.
Sự ra đời của Luật HTX đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong
tiến trình đổi mới HTX, mở ra một môi trường thể chế thuận lợi để HTX tiếp tục
phát triển.
Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi, thành lập HTX theo Luật HTX
(1996), hội nghị Trung ương 5 khoá IX (3/2002) đã ra Nghị quyết về "tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" để lãnh đạo sự phát triển
kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn
hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá
XI đã thông qua Luật HTX sửa đổi, bổ sung Luật HTX năm 2003. Theo điều 1
của Luật HTX (2003), HTX được định nghĩa: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập
thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu
cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 7

để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp
nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”.
Để các tổ chức Hợp tác xã tổ chức và quản lý tốt hoạt động của hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Ngày
19/11/2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa ban hành
Luật Hợp tác xã số 23/2012/QH12 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013). Tại
khoản 1, Điều 3, Chương 1, Luật này HTX được định nghĩa: “Hợp tác xã là tổ
chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên
tự nguyện góp vốn thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của các thành viên,
trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp
tác xã”. Luật Hợp tác xã 2012 hướng đến tiếp cận dần với bản chất đích thực của
hợp tác xã, làm rõ hơn tính ưu việt của hợp tác xã nhằm khuyến khích và phát
triển mạnh mẽ mô hình hợp tác xã kiểu mới. Đây là khuôn khổ pháp lý thuận lợi
góp phần phát triển hợp tác xã lành mạnh, bền vững góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh của kinh tế hộ thành viên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
thực hiện công bằng xã hội, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Như vậy, HTX là sự phát triển ở trình độ cao hơn của kinh tế hợp tác mà
được hình thành và nuôi dưỡng chính từ quá trình hợp tác trong sản xuất, kinh
doanh, ở đó mức độ gắn kết giữa các thành viên trong tổ chức có mối liên hệ chặt chẽ
hơn, các quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối được thiết lập hiệu quả hơn. Tuy nhiên,
để các hộ xã viên tham gia một cách hoàn toàn tự nguyện vào HTX thì trên thực tế
phải thể hiện trên kết quả sản xuất kinh doanh của HTX đó, phải thực sự thuyết phục
được các hộ xã viên khi HTX đó làm ăn có hiệu quả, có lãi trong hoạt động sản xuất
kinh doanh và đặc biệt là thiết lập các mối quan hệ cung- cầu, phân phối- lưu thông…
thực sự có hiệu quả.
2.1.2. Vai trò và hình thức hoạt động của Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp

Kinh tế hợp tác trong lịch sử được phát triển nhiều hình thức từ thấp đến
cao: từ tổ vần công, đổi công đến tổ đoàn kết sản xuất, chuyển sang các hình thức
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

HTX dịch vụ, các HTX sản xuất hoặc các HTX vừa sản xuất vừa làm dịch vụ.
Kinh tế hợp tác, HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng có vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế- xã hội.
Hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự chủ do nông dân và những
người lao động có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra
theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng xã viên nhằm
giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình
các xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông,
lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và các ngành-nghề khác; cải thiện đời sống xã viên,
góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp là tổ chức kinh tế nông nghiệp được tách hẳn
để làm chức năng dịch vụ nông nghiệp, nó hoạt động theo Luật HTX, là một hoại
hình HTX kiểu mới. Hoạt động của HTXDVNN bao gồm: Dịch vụ các yếu tố đầu
vào, đầu ra, dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp, các HTXDVNN được tổ
chức với mục đích phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân, nó không
hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận. Mô hình HTXDVNN ở nước ta chủ yếu được
phân thành ba hình thức: Dịch vụ chuyên khâu, dịch vụ chuyên ngành và dịch vụ
tổng hợp.
Ngoài những đặc điểm chung, HTX nông nghiệp còn có những đặc điểm:
Là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân, những người thường
thiếu vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ dân trí thấp. Mặt khác, đối tượng
sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi cho nên quá trình hoạt động
không những HTX nông nghiệp bị chi phối bởi các quy luật kinh tế mà lại còn bị
ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên (Luật Hợp tác xã, 2003).
Đây là những đặc điểm có ảnh hưởng nhất định đến kết quả hoạt động của

HTX nông nghiệp mà cán bộ lãnh đạo, quản lý phải quan tâm để có biện pháp
giúp đỡ, hỗ trợ HTX nông nghiệp phát triển.
HTX nông nghiệp thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp. HTX nông
nghiệp làm được những việc mà từng người, từng hộ không làm được hoặc làm
không có hiệu quả. HTX nông nghiệp thúc đẩy phát triển kinh tế hộ phát triển,
tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại liên kết, hợp tác, thành lập HTX.
HTX nông nghiệp góp phần nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm được nhiều
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9

khoản chi phí trong đầu tư cho sản xuất, kinh doanh; huy động được nhiều vốn,
nhiều nhân lực, chế ngự được thiên tai dịch hoạ, đáp ứng kịp thời yêu cầu sản
xuất, kinh doanh; cung cấp sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế,
góp phần vào ngân sách nhà nước. HTX nông nghiệp khai thác được tiềm năng
trong dân cư để mở mang ngành nghề, phát triển sản xuất, tăng nguồn hàng xuất
khẩu, đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế- xã hội.
HTX nông nghiệp hỗ trợ người nghèo, giúp đỡ họ cùng phát triển. Bởi lẽ
HTX nông nghiệp không chỉ gắn bó các thành viên về kinh tế mà còn được hình
thành và phát triển trên cơ sở tình làng nghiã xóm, góp phần thực hiện các chính
sách xã hội trên địa bàn như cung ứng các mặt hàng chính sách cho vùng miền
núi, dân tộc, vùng thiên tai bão lụt, tham gia xoá đói, giảm nghèo, khắc phục bần
cùng hoá; phòng chống các tệ nạn xã hội. Kinh tế hợp tác và HTX nông nghiệp
còn tạo điều kiện cho những người lao động, những người sản xuất nhỏ phát triển
marketing, nhờ đó những khả năng mở rộng được thị trường trong và ngoài nước
đảm bảo sự cân bằng và chẳng những có thể trụ vững trong thị trường cạnh tranh,
mà còn không ngừng phát triển, không bị phá sản trở thành gánh nặng lao động
thất nghiệp cho xã hội.
HTX nông nghiệp là mô hình tổ chức sản xuất có tính xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, đó là các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, vệ tinh của các doanh
nghiệp nhà nước; là đơn vị liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác

và có thể là đơn vị xuất nhập khẩu. Tính xã hội của hợp tác xã nông nghiệp được
thể hiện ở chỗ là một tổ chức kinh tế của những người lao động, tập hợp được
đông đảo mọi người tham gia nhằm giúp đỡ lẫn nhau, tăng thêm sức mạnh trong
sản xuất kinh doanh, dịch vụ góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập chính
đáng và ở việc HTX hỗ trợ người nghèo. Trong mọi hoạt động của mình, HTX
còn có nghĩa vụ giáo dục tinh thần hợp tác cho xã viên, khuyến khích sự hợp tác
không chỉ trong nội bộ xã viên của HTX, mà còn giữa các HTX với nhau. Ngoài
chăm lo về mặt kinh tế, HTX còn chăm lo cả về mặt tinh thần cho xã viên thông
qua các hoạt động chung của HTX. Tuy nhiên tất cả những hoạt động xã hội phải
được tiến hành trên cơ sở hoạt động kinh tế có hiệu quả. Những hoạt động này sẽ
góp phần nâng cao trình độ dân trí của cộng đồng, góp phần dân chủ hoá đời
sống xã hội, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

Ngoài ra, HTX nông nghiệp còn có vai trò tạo điều kiện thuận lợi đưa tiến
bộ khoa học kỹ thuật, quản lý, công nghệ mới vào sản xuất. Tiến hành chuyên
môn hoá, tập trung hoá, phát triển hợp lý các ngành sản xuất, dịch vụ và thâm
canh khoa học. Khai thác tiềm năng về vốn, lao động và công nghệ, đảm bảo môi
trường sinh thái, có khả năng đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ quản trị kinh doanh phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường
(Luật Hợp tác xã, 2003).
Đối tượng sản xuất nông nghiệp là những sinh vật, cho nên cần phải theo
dõi, chăm sóc tỉ mỉ, thường xuyên để đáp ứng đúng kỹ thuật, kịp thời các yêu cầu
sinh học của cây trồng, vật nuôi. Điều đó quyết định năng suất, chất lượng, hiệu
quả của sản xuất nông nghiệp. Chỉ có hình thái kinh tế gia đình với cơ chế “tự
thuê mướn sức lao động của chính mình”, “tự bóc lột mình” và lấy công làm lãi,
nhờ gắn trực tiếp lợi ích của mỗi người và cả cộng đồng gia đình vào kết quả
cuối cùng của sản xuất nông nghiệp, đã tạo ra khả năng lớn hơn các loại hình
doanh nghiệp khác trong việc vượt qua tình huống rủi ro do thiên nhiên hay do

thị trường gây ra.
Mặt khác, kinh tế nông hộ không thể tự thân trở thành một đơn vị kinh tế
hàng hóa phát triển trong nền kinh tế thị trường trước sự cạnh tranh ngày càng
khốc liệt của các doanh nghiệp lớn, trước hết trong dịch vụ “đầu vào”, “đầu ra”
của kinh tế nông hộ. Do vậy, tất yếu các nông hộ phải liên kết lại với nhau trong
các tổ chức kinh tế hợp tác của mình, tạo ra sức mạnh mới cạnh tranh trong thị
trường, tự bảo đảm hoạt động dịch vụ “đầu vào”,” đầu ra” cho kinh tế hộ đạt kết
quả cao hơn. Vì thế HTX nông nghiệp trở thành chỗ dựa vững chắc để kinh tế hộ
trở thành đơn vị sản xuất hàng hóa tự chủ có khả năng cạnh tranh đạt hiệu quả
cao trong nền kinh tế thị trường.
 Hình thức hoạt động của HTX DVNN
Từ những nội dung được quy định trong luật HTX năm 2003 và các quan
điểm có tính nguyên tắc trong xây dựng kinh tế tập thể đã nêu trong nghị quyết số
13-NQ/TW Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khoá IX về “tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, đã cho thấy dù các HTX hoạt
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

động trong lĩnh vực nào đi chăng nữa thì đều có chung những đặc trưng cơ bản
và ưu thế của mô hình HTX.
Thứ nhất, về thành viên tham gia HTX
Khác với trước khi có Luật HTX 2003, thành viên HTX chỉ gồm các cá
nhân; từ khi có Luật HTX 2003 HTX là một tổ chức kinh tế do các thành viên
bao gồm cả cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân (người lao động, cán bộ, công
chức, các hộ sản xuất kinh doanh, trang trại, doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các
thành phần kinh tế…), cả người có ít vốn lẫn người có nhiều vốn có nhu cầu tự
nguyện cùng nhau góp vốn hoặc có thể góp sức lập ra và tự chịu trách nhiệm về các
hoạt động của mình theo quy định của pháp luật về HTX. HTX không thủ tiêu tính tự
chủ sản xuất, kinh doanh của các thành viên mà chỉ làm những gì mỗi thành viên
riêng lẻ không làm được hoặc làm không có hiệu quả để hỗ trợ cho các thành viên

phát triển. Thành viên tham gia HTX vẫn là những “đơn vị kinh tế tự chủ”.
Thứ hai, HTX tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau:
HTX phải thật sự dân chủ, tự nguyện, cùng mục đích và cùng có lợi. Việc phát
triển HTX phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống, không rập khuôn cứng nhắc, phát
triển một cách tuần tự, không nóng vội. HTX là tổ chức kinh tế thiết thực, bình đẳng
và cùng có lợi của những người dân, xã viên hợp tác xã.
- Nguyên tắc tự nguyện:
Mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của
luật HTX, tán thành điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX. Xã viên có quyền
ra khỏi HTX theo quy định của điều lệ HTX. Nguyện vọng của họ được tôn
trọng, không bị cưỡng bức, gò ép. Đây là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo động
viên được sự nhiệt tình của các đối tượng tham gia.
- Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai:
Xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát HTX. Những vấn
đề lớn trong sản xuất, kinh doanh của HTX đều phải được đại hội xã viên thảo
luận dân chủ và thông qua. Các xã viên đều có quyền ngang nhau trong biểu
quyết theo hình thức mỗi người một phiếu bầu, giá trị mỗi phiếu như nhau,
không phụ thuộc vào mức độ vốn góp. Đồng thời, HTX phải thực hiện tốt việc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

công khai cho xã viên biết theo định kỳ về phương thức, kế hoạch sản xuất kinh
doanh, công khai tài chính, phân phối thu nhập của HTX. Đây là nguyên tắc đặc
biệt quan trọng, có tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phương hướng phát triển
lành mạnh của HTX
- Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi:
HTX là tổ chức kinh tế hoạt động với mục đích lấy lợi ích kinh tế làm
chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi
ích xã hội của các thành viên. Trong thành lập và hoạt động, HTX có quyền được
lựa chọn ngành nghề sản xuất- kinh doanh phù hợp mà pháp luật không cấm,

theo ý chí và nguyện vọng của xã viên; hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản
xuất- kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường; liên doanh, liên
kết với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong phân phối lợi ích và giải
quyết những vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi, phải tuân thủ nguyên
tắc cùng có lợi, hài hoà giữa xã viên với xã viên, giữa xã viên với HTX, HTX với
lợi ích cộng đồng. Nguyên tắc này đã xác định rõ điều kiện tồn tại và phát triển
của HTX chính là ở vai trò, trách nhiệm làm chủ của các xã viên đối với HTX;
chủ động phát huy các nguồn lực, nhất là nguồn lực sẵn có của xã viên; HTX
năng động tìm kiếm cơ hội kinh doanh và cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
- Hợp tác và phát triển cộng đồng:
Là nguyên tắc và tiêu chí mang tính đặc trưng của HTX hoạt động theo
Luật HTX, gắn kết lợi ích kinh tế của các thành viên hợp tác xã với lợi ích xã hội
và phát triển cộng đồng. HTX là tổ chức kinh tế tập thể, mọi hoạt động kinh tế
của các thành viên tham gia với phương châm hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để vượt
qua khó khăn, tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các
thành viên tham gia. Trên cơ sở đó không ngừng nâng cao vai trò, tính chất xã
hội của HTX để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần tích cực thực hiện chủ
trương giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ
tầng xã hội, tăng cường tình làng nghĩa xóm, đoàn kết cộng đồng. Đó là nhân tố
quan trọng để HTX phát triển bền vững.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

Thứ ba, về quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối trong HTX
- Về quan hệ sở hữu:
Trong mô hình HTX trước khi có Luật HTX, sở hữu cá nhân không được
thừa nhận, sở hữu của các hộ gia đình bị xoá bỏ, chỉ thừa nhận chế độ sở hữu tập
thể về tư liệu sản xuất. Người lao động vào HTX phải đóng góp ruộng đất, trâu
bò, công cụ sản xuất chủ yếu. Từ khi có Luật HTX, sở hữu tập thể và sở hữu cá

nhân của thành viên được phân định rõ. Sở hữu tập thể (sở hữu của hợp tác xã)
bao gồm các nguồn vốn tích luỹ tái đầu tư, các tài sản do tập thể mua sắm để
dùng cho hoạt động của HTX, tài sản trước đây được giao lại cho tập thể sử dụng
và tài sản do nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài trợ làm
tài sản không chia và các quỹ không chia. Thành viên khi tham gia HTX không
phải góp tư liệu sản xuất mà điều kiện tiên quyết là phải góp vốn theo quy định
của điều lệ HTX, có thể góp sức khi HTX có nhu cầu; suất vốn góp không hạn
chế, song được khống chế một tỷ lệ nhất định so với tổng số vốn góp của các
thành viên (vốn điều lệ của HTX) nhằm bảo đảm tính chất của HTX (theo Luật
HTX năm 2003 thì không quá 30%). Vốn góp của thành viên được chia lãi hàng
năm và được rút khi thành viên ra HTX. Thành viên có thể góp vốn bằng ngoại
tệ, tài sản, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và các loại giấy tờ có giá trị
khác, được quy ra tiền Việt Nam theo giá thị trường tại thời điểm góp và giá trị
đó được ghi thành vốn góp của thành viên, còn bản thân hiện vật thuộc sở hữu
tập thể HTX. Sở hữu thuộc cá nhân thành viên được tôn trọng, thành viên có
toàn quyền sử dụng vốn, các phương tiện sản xuất thuộc sở hữu riêng để sản
xuất, kinh doanh. Những thành viên của HTX vẫn là những chủ thể độc lập, có
kinh tế riêng. Vị trí, vai trò cũng như quyền tự chủ của kinh tế thành viên không
bị mất đi mà ngược lại được hỗ trợ thêm từ phía HTX để phát triển.
- Về quan hệ quản lý trong hợp tác xã:
HTX hoạt động khi chưa có Luật HTX, quan hệ giữa xã viên với HTX là
quan hệ phụ thuộc. Xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất trở thành người lao động
làm công theo sự điều hành tập trung của HTX, tính chất hợp tác đích thực trong
HTX không còn. Từ khi có Luật, quan hệ giữa HTX và thành viên là quan hệ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

bình đẳng, thỏa thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong sản xuất,
kinh doanh. Đặc trưng chung của HTX hoạt động theo Luật là hoạt động sản
xuất, kinh doanh của HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh

doanh của thành viên như HTX trước đó, mà chỉ diễn ra ở từng khâu công việc,
từng công đoạn, nhằm hỗ trợ phát huy thế mạnh của từng thành viên và do đó
cũng tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của thành viên. Thành viên tham gia
quyết định những công việc quan trọng của HTX như sửa đổi điều lệ HTX, tổ
chức lại HTX, quyết định cơ cấu tổ chức quản lý HTX, xác định phương án sản
xuất, kinh doanh, phương án phân phối thu nhập trong HTX Nguyên tắc bầu cử
và biểu quyết được thực hiện bình đẳng, mỗi thành viên một phiếu bầu, không
phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy quản lý HTX tổ chức gọn, nhẹ, hiệu quả.
Chức năng, nhiệm vụ của ban quản trị, ban kiểm soát, trưởng ban quản trị, chủ
nhiệm được xác định rõ ràng, cụ thể. Chủ nhiệm được giao quyền chủ động điều
hành công việc và tự chịu trách nhiệm về những quyết định của mình.
- Về quan hệ phân phối
Trước khi có Luật HTX, chế độ phân phối mang nặng tính bình quân, bao
cấp, chủ yếu phân phối theo công lao động, việc phân phối theo vốn góp gần như
không được thực hiện (vì việc góp vốn chỉ mang tính hình thức). Vì vậy, không
khuyến khích người lao động hăng hái, tích cực làm việc, xã viên thiếu gắn bó
với HTX, dành công sức làm kinh tế gia đình. Khi có Luật HTX, hình thức phân
phối được thực hiện trên nguyên tắc công bằng, cùng có lợi, vừa theo lao động,
vừa theo vốn góp và theo mức độ tham gia dịch vụ. Người lao động là xã viên,
ngoài tiền công được nhận theo số lượng và chất lượng lao động, còn được nhận
lãi chia theo vốn góp và theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX; lợi nhuận và vốn
góp càng lớn, mức độ sử dụng dịch vụ càng nhiều thì thu nhập càng cao. Đây là
động lực khuyến khích người lao động hăng say làm việc, gắn bó với HTX.
Trong quá trình phân phối, các HTX còn tạo ra được các quỹ không chia, một
mặt để mở rộng sản xuất, kinh doanh, mặt khác tạo nên phúc lợi công cộng cho
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

mọi thành viên trong HTX được hưởng chung, kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.

Thứ tư, về cơ chế quản lý đối với HTX
Từ khi có Luật, HTX đã được giải phóng khỏi sự ràng buộc cứng nhắc của
cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Khác với trước đây, HTX ngày nay đã
thực sự là một tổ chức kinh tế độc lập, tự chủ, có đầy đủ tư cách pháp nhân trong
cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật như các doanh nghiệp, tự quyết định
và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, liên
doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế khác cũng như phân chia lỗ lãi, bảo đảm
hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước và trách nhiệm đối với thành viên. Nhà
nước tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ của HTX, không còn can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của
HTX. Vai trò của Nhà nước trong việc quản lý đối với HTX được chuyển qua
việc ban hành pháp luật và các chính sách khuyến khích phát triển HTX. Các
nghĩa vụ đóng góp vật chất quá nặng trước kia của HTX đối với chính quyền và
cộng đồng, nhất là đối với các HTX ở nông thôn đã từng bước được xoá bỏ, HTX
tập trung vào phục vụ và thực hiện các nghĩa vụ đối với các thành viên của chính
mình là chủ yếu.
Thứ năm, về mô hình HTX
Tổ chức và hoạt động của HTX không bị giới hạn về quy mô, lĩnh vực và
địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng) với mô hình linh hoạt, đa dạng về hình
thức, phù hợp với đặc điểm từng ngành, từng vùng với nhiều trình độ phát triển từ
thấp đến cao, từ làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh đến mở mang ngành nghề, vươn lên kinh doanh tổng hợp và hình thành các
doanh nghiệp trực thuộc dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
từ HTX phát triển thành các liên hiệp HTX.
Thứ sáu, về hiệu quả hoạt động của HTX
HTX là một tổ chức kinh tế tập thể gồm nhiều chủ sở hữu, hoạt động lấy lợi
ích kinh tế làm chính, bao gồm cả lợi ích thành viên và lợi ích tập thể. HTX còn là vai
trò quan trọng trong xóa đói, giảm nghèo, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16


minh, giáo dục ý thức phát triển cộng đồng… Do đó, mọi hoạt động của HTX phải
được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp, cả về kinh tế, chính trị, xã hội, cả hiệu quả tập
thể và của các thành viên.
HTX có vai trò là Con đường đi lên của người dân để vượt qua khó khăn,
nghèo đói, xây dựng cộng đồng văn minh, tương thân, tương ái, chống lại mọi sự
bất công, áp bức về kinh tế- xã hội. HTX cũng là một tổ chức dân chủ và cách
mạng, nơi tập hợp, giáo dục, nâng cao trình độ sản xuất cho người dân, hướng
người dân vào những mục đích xã hội tích cực, tiến bộ và cách mạng.
Như vậy, với những đặc trưng trên, HTX hoạt động khi có Luật HTX
được xây dựng trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hóa tập trung; bao cấp trước đây có
các đặc trưng là tập thể hóa toàn bộ tư liệu sản xuất, không thừa nhận vai trò của
kinh tế hộ, tổ chức và hoạt động theo địa giới hành chính, tổ chức sản xuất tập
thể, tập trung, phân phối theo ngày công lao động, thực hiện quá nhiều trách
nhiệm xã hội; mô hình hợp tác xã được áp dụng nhất loạt trong cả nước, ít chú ý
đến đặc điểm của từng vùng.
Các HTX NN hoạt động các hình thức dịch vụ sau:
+ Dịch vụ các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp (các HTX cung ứng
vật tư, giống )
+ Dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp (HTX làm đất, tưới nước, bảo
vệ thực vật )
+ Dịch vụ quá trình tiếp theo của quá trình sản xuất nông nghiệp (HTX chế
biến, HTX tiêu thụ sản phẩm )
Trong nông nghiệp, do đặc điểm của ngành, một mặt nảy sinh các yêu cầu
khách quan đòi hỏi hình thành và phát triển các hình thức kinh tế hợp tác và
HTX. Mặt khác, nó đặt ra các giới hạn cho việc lựa chọn mô hình của kinh tế hợp
tác trong đó mô hình các HTX dịch vụ nông nghiệp là hình thức thích hợp và phổ
biến. HTX dịch vụ gồm:
- Các HTX dịch vụ chuyên khâu: là HTX chỉ thực hiện một chức năng dịch
vụ một khâu cho sản xuất nông nghiệp (HTX dịch vụ thuỷ nông, HTX dịch vụ

điện nông thôn )

×