BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ NỤ
DẠY HỌC THEO GÓC
VÀ VẬN DỤNG TRONG CÔNG NGHỆ 11
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn KTCN
Mã số : 60.140.111
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ HUY HOÀNG
HÀ NỘI – 2014
1
LỜI CẢM ƠN
Tác giả bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới:
Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Trung tâm thông tin – thư viện và
các Thầy, Cô ở khoa Sư phạm kĩ thuật – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã
quan tâm, tạo điều kiện để tác giả học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận
văn của mình
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS.TS Lê Huy Hoàng
đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành luận văn này.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu và các Thầy, Cô ở
trương Trung học phổ thông Lương Tài 1, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh
đã quan tâm, tạo điều kiện, góp ý cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài
này
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, người
thân đã ở bên, động viên, giúp đỡ trong suốt quá trình hoàn thành khóa học.
Hà Nội, tháng 6 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Nụ
2
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
DH Dậy học
PP Phương pháp
PT Phương tiện
KT Kiến thức
KN Kĩ năng
HS Học sinh
GV Giáo viên
TN Thực nghiệm
ĐC Đối chứng
TCN Trước Công Nguyên
SGK Sách giáo khoa
ĐCT Điểm chết trên
ĐCD Điểm chết dưới
PPDH Phương pháp dạy học
THPT Trung học phổ thông
KHBH Kế hoạch bài học
HTTC Hình thức tổ chức
ĐCĐT Động cơ đốt trong
GD & ĐT Giáo dục và đào tạo
3
MỤC LỤC
4
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong bối cảnh Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục đang triển khai
công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà, Việc nâng
cao chất lượng dạy học được coi nhiệm vụ trọng tâm của các nhà trường
hiện nay. Để nâng cao chất lượng dạy học thì việc phát triển ở người học
hứng thú, tính tích cực và năng lực vận dụng kiến thức là cần thiết.
Luật giáo dục đã ghi rõ : “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú cho người học”.
Trong thực tiễn lập kế hoạch và tiến hành dạy học, người thầy giáo
thường xuyên đối diện với câu hỏi: làm thế nào để lựa chọn phương pháp
dạy học phù hợp và có hiệu quả. Khi bàn về hiện trạng phương pháp dạy
học những năm gần đây, đã có rất nhiều giáo viên áp dụng phương pháp
mới vào trong quá trình dạy học. Đó là cách thức DH theo lối phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế thường gọi PP này là PPDH tích cực.
Ở đó, giáo viên là người giữ vài trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho
người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận,
hội thảo theo nhóm. Người thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển
tiến trình giờ dạy. PPDH này rất đáng chú ý đến đối tượng học sinh, coi
trọng việc nâng cao quyền năng cho người học.
Điều này có nghĩa là sử dụng phương pháp dạy học tập trung
nhiều hơn vào nhu cầu học tập, sở thích, mức độ phát triển của từng cá
nhân và từ đó thúc đẩy việc tự nhận thức của học sinh. Phương pháp
tiếp cận này tỏ ra có hiệu quả hơn với sự đa dạng trong môi trường giáo
dục nhằm đảm bảo tất cả học sinh nhận được những gì các em cần để
1
tiếp tục phát triển trên cơ sở năng lực bản thân; đồng thời tiềm năng
của các em được thúc đẩy phát triển đầy đủ.
Thực tiễn cho thấy, mỗi học sinh có những phong cách học khác nhau
và các em chỉ thực sự học hiệu quả với cách học đó. Vì vậy, việc nghiên cứu các
hình thức tổ chức linh hoạt sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh là
hết sức quan trọng mà học theo góc là một trong những phương pháp điển
hình.
Vì vậy, nên chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Dạy học theo góc và
vận dụng trong công nghệ 11
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của dạy học theo góc. Trên cơ sở đó,
đề xuất biện pháp vận dụng phương pháp dạy học này trong dạy học môn
Công nghệ 11 - THPT nhằm đáp ứng tối đa phong cách học tập của học
sinh. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn công nghệ 11
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Dạy học theo góc
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu sử dụng phương pháp học theo góc tập trung nhiều hơn vào nhu cầu
học tập, sở thích, mức độ phát triển của từng cá nhân sẽ kích thích người
học tích cực chủ động học tập, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
• Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn của dạy học theo góc trong
dạy học Công nghệ 11;
• Phân tích thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học Công Nghệ
2
11
• Ứng dụng dạy học theo góc trong dạy học Công Nghệ 11
• Thực nghiệm sư phạm và đánh giá
6. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Phạm vi ứng dụng: Ứng dụng dạy học theo góc dạy học phần 3 - Động
cơ đốt trong thuộc môn Công nghệ lớp 11
Phạm vi khảo sát và thực nghiệm sư phạm: Khảo sát tại một số
trường THPT thuộc địa bàn tỉnh….Thực nghiệm sư phạm được tiến
hành tại trường THPT….
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1.Các phương pháp nghiên cứu lí luận:
Các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu, các
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Từ đó xây dựng cơ sở lý luận
của đề tài và giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu khác.
Mục đích : Bổ sung và tích lũy vốn tri thức lý luận có liên quan tới đề
tài xây dựng, những khái niệm công cụ của đề tài.
7.2.Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Quan sát sư phạm
Thông qua dự giờ, quan sát các hoạt động giảng dạy của giáo viên và
hoạt động học tập của học sinh trong quá trình dạy học Công Nghệ có sử
dụng các kỹ thuật dạy học, quan sát sự chú ý và hứng thú học tập của học
sinh trong quá trình học môn Công Nghệ. Từ đó tìm hiểu sự tác động phù
hợp của các phương pháp dạy học tương ứng với phong cách học tập của
từng học sinh
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Phương pháp này nhằm thu thập thông tin về thực trạng, nhận thức và
cách thức sử dụng phương pháp dạy học của giáo viên và hứng thú học tập
3
của học sinh khi giáo viên sử dụng phương pháp dạy học theo trong Bài
giảng.
7.2.3. Phương pháp trao đổi, phỏng vấn
Phương pháp này hỗ trợ phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, đồng
thời cung cấp một số thông tin cụ thể nhằm tăng độ tin cậy và sức thuyết
phục của phương pháp điều tra. Nội dung phỏng vấn giáo viên tập trung
vào ý nghĩa, tầm quan trọng, yếu tố nào quyết định sự thành công khi sử
dụng dạy học theo góc. Với học sinh, tập trung vào các vấn đề việc học theo
góc có tác động tích cực đối với học sinh như thế nào.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm có đối chứng nhằm kiểm chứng tính hiệu
quả, khả thi khi áp dụng dạy học theo góc trong dạy học Công nghệ 11. Qua
đó, khẳng định tính đúng đắn của giả thuyết đã đề ra.
7.2.5. Phương pháp sử lý số liệu bằng toán thống kê
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu, phiếu điều tra,
khẳng định tính tin cậy của những số liệu đã thu thập được. Trên cơ sở tiến
hành so sánh các giá trị thu được giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối
chứng, đánh giá hiệu quả của các biện pháp đã thực nghiệm, khẳng định
tính khả thi của hình thức đã đề xuất.
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của đề tài dự kiến gồm bốn chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận của dạy học theo góc
Chương 2 : Thực trạng sử dụng phương pháp dạy học trong dạy học Công
nghệ
Chương 3: Vận dụng dạy học theo góc trong dạy học phần động cơ đốt
trong – Công nghệ 11
4
Chương 4: Kiểm nghiệm và đánh giá
5
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA DẠY HỌC THEO GÓC
1.1. TỔNG QUAN
1.1.1.Ở nước ngoài
Dạy học theo góc nằm trong hệ thống phương pháp dạy học tích cực,
nhằm phát huy cao độ tính tích cực hoạt động của học sinh trong quá trình
học tập, vấn đề này đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau.
Từ thời cổ đại, các nhà sư phạm tiền bối đã từng nói đến tầm quan
trọng to lớn của việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh và nói
nhiều đến phương pháp và biện pháp hỗ trợ và thúc đẩy học sinh tích cực
thông qua hoạt động; có sự khác nhau đáng kể về nội dung và bản chất của
các hoạt động nhằm mục đích để học sinh được thực hành, khám phá và
trải nghiệm. Socrat (469 – 339 TCN) nhà triết học, người thầy vĩ đại của Hy
Lạp cổ đại đã từng dạy các học trò của mình bằng cách luôn đặt ra các câu
hỏi gợi mở nhằm giúp người học dần dần phát hiện ra chân lí. Phương
châm sống cảu ông là “ sự tự nhận thức, nhận thức chính mình …”. Khổng
Tử (551- 479 TCN) nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại của Trung Hoa cổ đại
đòi hỏi người ta phải học và tìm tòi, suy nghĩ, đào sâu trong quá trình học.
Ông nói: “Không tức giận vì muốn biết, thì không gợi mở cho, không bực
tức vì không rõ được thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một
góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa…”
Montaigne (1533 – 1592) nhà quý tộc Pháp, người chuyên nghiên cứu
lý luận, đặc biệt là về giáo dục, ông đề ra phương pháp giáo dục “ học qua
hành” ông cho rằng: “Muốn đạt được mục tiêu này, tốt nhất, kiến hiệu nhất
là bắt trò liên tục hành để học, học qua hành. Vậy vấn đề không phải là
6
giảng dạy một cách giáo điều, thầy nói liên tục, thao thao bất tuyệt. Trái lại,
chủ yếu là bắt trò hoạt động, vận dụng khả năng xét đoán của mình…”
Komensky (1592 – 1670) là một nhà tư tưởng Clovakia, nhà lý luận
giáo dục, đã đưa ra bí quyết về phương pháp giảng dạy: “Bí quyết của giáo
dục là rèn luyện cho các em một tâm hồn dễ dàng, tích cực, tự do, ngăn cản
được các điều mà các em muốn làm, ngược lại đẩy được các em làm những
điều mà chúng không muốn”. Ông nêu rõ: “Chủ yếu dạy các em qua việc làm
chứ không phải qua lời giảng”
J.J Rousseau (1712 – 1778), thiên tài lý luận của Pháp thời kỳ khai
sáng, kịch liệt phê phán nhà trường đương thời lạm dụng lời nói, ông coi
trọng sự phát triển tự nhiên, tự do, coi trọng tự giáo dục của trẻ, phản đối
việc chèn ép cá tính của trẻ. Ông cho rằng muốn giáo dục con người tốt phải
bằng hoạt động tiếp cận đối tượng với hoạt động, với thực tế. Ông nhận xét,
các giảng dạy ba hoa sẽ tao nên những con người ba hoa, đừng cho trẻ em
khoa học mà phải để nó tự tìm tòi ra khoa học. Ông viết “ Không dạy các em
môn khoa hoạc mà chỉ khêu gợi tinh thần yêu chuộng khoa học và cấp cho
các em phương pháp học khoa học. Đó là nguyên tắc căn bản của mỗi nền
giáo dục tốt
Căn cứ vào các điều trên, chúng tôi thấy việc nghiên cứu phương
pháp dạy học tích cực nhằm giúp người học chủ động thực hành, khám phá
và trải nghiệm. Dạy học theo góc là một trong những phương pháp dạy học
tích cực, có ý nghĩa to lớn với sự nghiệp giáo dục và sự phát triển xã hội.
1.1.2.Trong nước
Ở nước ta, ngay từ những năm 60 của thế kỉ 20, những phương pháp
dạy học tích cực đã bắt đầu được đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
trong giáo trình Giáo dục học, Tâm lý học trong các trường sư phạm đã
xuất hiện tư tưởng “ Phương pháp giáo dục tích cực”, khẩu hiệu biến quá
7
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”
Năm 1979, tập thể cán bộ trung tâm thực nghiệm giáo dục phổ thông
Giảng Võ – Hà Nội (trung tâm công nghệ giáo dục) đã tiến hành nghiên cứu
thực nghiệm đề tài cấp Nhà nước với tên gọi: “Mô hình nhà trường mới
theo khả năng phát triển tối ưu của trẻm em Việt Nam hiện đại. Đề tài do
GS.TSKH Hồ Ngọc Đại, giám đốc trung tâm làm chủ nhiệm đề tài. Nhân vật
trung tâm của mô hình nhà trường này là trẻ em. Toàn bộ hoạt động giáo
dục là xuất phát từ trẻ em. Bằng hoạt động của mình, theo quy trình công
nghệ, mỗi trẻ em tự làm ra sản phẩm giáo dục tức là tự sinh thành ra mình
với sự giúp đỡ của giáo viên.
Công trình nghiên cứu khoa học đã được hội đồng khoa học nghiệm
thu và đánh giá kết quả tốt. Như vậy, bằng quá trình tổ chức dạy học theo
quan điểm lấy người học làm trung tâm, dựa trên nhu cầu và sở thích của
trẻ, đã được thực hiện trong nhà trường thực nghiệm.
Tại nghị quyết IV của ban chấp hành TW khóa VII đã chỉ rõ: Đổi mới
phương pháp giảng dạy ở tất cả các cấp học, bậc học…. áp dụng những
phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy,
sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Trần Hồng Quân (nguyên Bộ trưởng Bộ GD & ĐT) trong bài: “Cách
mạng về PP sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục ở thời đạ
mới” đăng trên tạp trí nghiên cứu GD số 1/1995 viết: “Muốn đào tạo được
con người khi bước vào đời là con người tự chủ, năng động và sáng tạo thì
phương pháp giáo dục cũng phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và
phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, năng động và sáng tạo
thì phương pháp giáo dục cũng phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và
phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, năng động và sáng tạo.
Người học tích cực học bằng hành động của mình. Người học tự tìm hiểu,
8
phân tích, xử lý tình huống và giải quyết vấn đề, khám phá ra cái chưa biết.
Nhiệm vụ của người thầy là chuẩn bị cho học sinh thật nhiều tình huống
chứ không phải là nhồi nhét kiến thức vào đầu óc học sinh”.
Như vậy, Phương pháp tổ chức các hoạt động hoạc tập mà theo đó
người học thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại các vị trí cụ thể trong
không gian lớp học đảm bảo cho người học học sâu và học thoải mái đã
được chú trọng từ rất lâu. Phương pháp dạy học theo góc là một trong
những phương pháp cụ thể thể hiện rõ ràng điều này
Dạy học theo góc được triển khai vào nước ta năm 2011 theo dự án
Việt – Bỉ bởi tiến sĩ Nguyễn Tuyết Nga của Viện Khoa học Giáo dục Việt
Nam với sự phối hợp chặt chẽ của bà Leen Pil từ Trung tâm giáo dục trải
nghiệm, đại học Leuven, Vương quốc Bỉ
Ngày nay, có nhiều luận văn, luận án đề cập đến vấn đề dạy học theo
góc. Tuy nhiên, mỗi một tác giả vận dụng dạy học theo góc ở các bộ môn
khác nhau, chẳng hạn: Nguyễn Minh Đức nghiên cứu “Vận dụng dạy học
theo góc và phần sự điện li chương trình hóa học 11 nâng cao với sự hỗ
trợ của công nghệ thông tin”. Phạm Hương Giang nghiên cứu: “Tổ chức
dạy học theo góc nội dung kiến thức "Định luật Ôm đối với toàn mạch và
ghép nguồn bộ" Vật lý 11 nhằm phát huy tính tích cực, tự chủ và bồi
dưỡng năng lực sáng tạo cho học sinh”. Lê Văn Hùng nghiên cứu: “Thiết kế
tiến trình hoạt động dạy học một số kiến thức chương “chất khí” (vật lí 10
– Nâng cao) theo hướng phát huy tính tích cực tự chủ của học sinh
Tóm lại, điểm qua các kết quả nghiên cứu trên cho thấy từ trước đến
nay tuy đã có một số công trình nghiên cứu về dạy học theo góc. Song
chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào việc nghiên cứu dạy học
theo góc trong việc dạy học môn Công Nghệ 11 ở trường phổ thông
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
9
- Dạy học theo góc: Là một hình thức tổ chức hoạt động học tập theo
đó người học thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại vị trí cụ thể trong
không gian lớp học, đáp ứng nhiều phong cách học khác nhau
Khi tổ chức dạy học theo góc, chúng ta tạo ra một môi trường học
tập trong đó, tại các góc học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau nhằm
đạt được mục tiêu dạy học hoặc có thể thực hiện cùng một nhiệm vụ nhưng
theo các cách tiếp cận khác nhau[7]
- Cảm giác thoải mái: Là cảm giác được quan tâm, cảm thấy an
toàn, được thể hiện bản thân và cảm giác yên bình bên trong [7]
- Sự tham gia: Nói đến cường độ của hoạt động, sự tập trung, sự say
mê với mọi vật xung quanh để học sinh trở nên hăng hái, yêu thích khám
phá và vượt qua những giới hạn của khả năng mỗi người. [7]
- Học tích cực: Theo L. Dee Fink
Học tích cực là đặt học sinh vào trong những tình huống bắt buộc
học sinh phải đọc, phát biểu, nghe và suy nghĩ kĩ và viết.
Học tích cực lôi cuốn học sinh tham gia vào giải quyết vấn đề, trả lời
câu hỏi, đặt câu hỏi, thảo luận, giải tích, tranh luận hoặc động não trong lớp
học
Học tích cực là bất kì những hoạt động nào mà học sinh thực hiện
trong lớp học hơn là việc ngồi nghe giảng bài
Học tích cực khiến cho những gì mà học sinh học được là một phần
của bản thân họ. Học sinh phải thảo luận về những cái họ đang học, đang
viết, liên hệ với những kiến thức đã học và ứng dụng nó vào cuộc sống hàng
ngày
1.3. DẠY HỌC THEO GÓC
1.3.1. Cơ sở khoa học của dạy học theo góc
Theo phong cách học tập của Kolb
10
David A.Kolb là giáo sư khoa Hành vi tổ chức của Trường quản trị
Weatherhead, Đại học Case Western Reserve. Ngoài ra, ông là nhà sáng lập
kiêm chủ tịch công ty Phương pháp học tập dựa trên kinh nghiệm.
Ông là tác giả của cuốn sách Học qua trải nghiệm: Kinh nghiệm là
nguồn học hỏi và phát triển, và là cha đẻ của cuốn sách Danh mục cách học.
Các công trình nghiên cứu khác là: Học qua đàm thoại: cách tiếp cận theo
kinh nghiệm để phát triển tri thức, Sự đổi mới trong giáo dục chuyên
nghiệp: Các bước của quá trình từ dạy đến học, Hành vi tổ chức: cách tiếp
cận dựa vào kinh nghiệm, và vô số bài báo về lĩnh vực học qua trải nghiệm.
Ông đã nhận được bốn bằng danh dự công nhận sự cống hiến hết mình
trong lĩnh vực nghiên cứu các cách học.
Ông cho rằng một chu kì học hỏi gồm những giai đoạn sau:
Hình 1.1 Chu kì học hỏi của Kolb
Từ mô hình trên, thấy rằng có bốn giai đoạn, và mỗi giai đoạn đều
phát triển theo sau giai đoạn kế tiếp. Quá trình quan sát phản ánh hành
động và suy nghĩ theo sau kinh nghiệm cụ thể của mỗi cá nhân. Điều này có
thể bắt nguồn từ những quy tắc mô tả kinh nghiệm chung hoặc sự áp dụng
của các học thuyết đã biết (Khái niệm trừu tượng), và sau đó tạo ra những
11
cách thử nghiệm để chuyển sang giai đoạn kế tiếp (Thử nghiệm chủ động),
và tiếp tục quay lại kinh nghiệm cụ thể. Chu kỳ này có thể diễn ra trong
chốc lát, hay vài ngày, vài tuần, vài tháng, tùy thuộc vào chủ đề và đôi khi
các giai đoạn có thể diễn ra cùng một lúc.
Kinh nghiệm cụ thể cũng có thể hiểu là “kinh nghiệm có được nhờ
quen thuộc”, là kinh nghiệm thực tế trực tiếp. (Theo văn phong của ông
là “Sự lĩnh hội”).
Khái niệm trừu tượng cũng có thể hiểu là “kiến thức về” điều gì đó
không thực tế (Theo văn phong của ông là “Sự nhận thức”).
Quan sát phản ánh tập trung trên kinh nghiệm có ý nghĩa với người
trải qua kinh nghiệm đó, hoặc các ý nghĩa của nó.
Thử nghiệm chủ động biến đổi thuyết Khái niệm trừu tượng bằng
cách thử nghiệm trong thực tế có liên quan đến những biểu hiện của nó.
Ông chia ra làm các dạng tri thức và chu kì học hỏi như sau:
Theo quan điểm của ông, bốn giai đoạn của một chu kỳ nói trên tương ứng
với bốn dạng tri thức khác nhau. Trong đó, có hai cặp tri thức đi đôi với
nhau nhưng trái ngược nhau thể hiện bằng đường chéo.
Hình 1.2. Cặp tri thức đi đôi, trái ngược nhau
12
Hình 1.3. Các cách học của Kolb
Cách học có nghĩa là:
Ở cấp độ thấp đòi hỏi nhu cầu điều chỉnh cho phù hợp giữa người
học và người dạy: đôi khi những ưu tiên của họ là bổ sung hoặc phản
kháng, và dĩ nhiên đôi khi là kết hợp nếu cả hai có chiều hướng phát triển
trong cùng một giai đoạn trong chu kỳ.
Ở cấp độ cao, việc bỏ qua một vài giai đoạn có thể gây trở ngại lớn
cho quá trình học.
Qua việc nhận biết được cách học của người khác (và của chính
mình), người học có thể định hướng một phương pháp học phù hợp với
cách học đó. Ở một chừng mực nào đó, mỗi người đều cần có tác nhân kích
thích đối với cả bốn cách học trên. Đây là vấn đề về việc nhấn mạnh cách
học nào phù hợp nhất trong từng hoàn cảnh cụ thể và việc lựa chọn cách
học của từng người.
Sau đây là tóm tắt về bốn cách học của Kolb:
Phân kỳ (cảm nhận và quan sát – CE/RO):
hững người với cách học này có thể nhìn mọi việc ở những góc độ khác
nhau. Họ là những người nhạy cảm. Họ thích quan sát hơn thực hiện, có
13
chiều hướng thu thập thông tin và dùng trí tưởng tượng để giải quyết vấn
đề. Họ có khả năng quan sát tốt nhất những tình huống cụ thể với những
quan điểm khác nhau. Ông gọi đây là kiểu “Phân kỳ” vì những người này
phát huy khả năng hiệu quả trong những tình huống cần đưa ra các ý
tưởng. Những người với cách học phân kỳ đều có kiến thức về văn hóa sâu
rộng và thích thu thập thông tin. Họ yêu con người, giàu trí tưởng tượng,
nhiều tình cảm, và thiên về nghệ thuật. Hơn nữa, họ thích làm việc theo
nhóm để có thể lắng nghe người khác với một quan điểm cởi mở và để
nhận được các phản hồi cá nhân.
Đồng hóa (tư duy và quan sát – AC/RO):
Những người với cách học này thiên về cách nhìn nhận vấn đề có khoa
học và súc tích. Đối với họ, các ý tưởng và khái niệm thì quan trọng hơn
con người. Những người này cần một sự giải thích rõ ràng hơn là một cơ
hội thực tế. Họ có khả năng nắm vững thông tin ở diện rộng và sắp xếp
chúng theo một lối tư duy có khoa học. Những người với cách học Đồng
hóa này ít chú trọng vào con người và dành ưu tiên cho những ý tưởng và
khái niệm trừu tượng. Họ thiên về những học thuyết sâu rộng hợp lý hơn
là những cách tiếp cận dựa trên các giá trị thực tế. Đây là những người
cần thiết để thu thập thông tin hiệu quả và là những người phù hợp với
nghề nghiên cứu khoa học. Họ thích đọc, diễn thuyết, khám phá những mô
hình phân tích và dành thời gian để tư duy mọi việc.
Hội tụ (tư duy và thực hiện – AC/AE):
Những người với cách học này có thể giải quyết vấn đề và dùng cách học
của mình để tìm giải pháp cho những vấn đề thực tế. Họ thiên về những công
việc kỹ thuật và các vấn đề, ít quan tâm đến con người, các vấn đề về cá nhân
và các vấn đề xã hội. Những người với cách học Hội tụ này có khả năng tìm
kiếm những cách ứng dụng thực tế cho các ý tưởng và lý thuyết. Họ có thể
14
giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định qua việc tìm kiếm giải pháp cho
những vấn đề đó. Họ có thể là các chuyên gia hoặc những người có khả năng
về kỹ thuật. Họ thích thử nghiệm những ý tưởng mới và tiến hành những
ứng dụng thực tế.
Thích nghi (cảm nhận và thực hiện – CE/AE):
Những người với cách học này dựa trên trực giác hơn là sự phân tích có
khoa học. Họ áp dụng các phân tích của người khác và thực hiện cách tiếp
cận thực tế và thử nghiệm. Họ bị thu hút vào những thử thách, kinh nghiệm
mới và hoạch định kế hoạch. Họ có xu hướng dựa trên thông tin của người
khác hơn là thực hiện theo cách phân tích của chính mình. Những người với
kiểu học Thích nghi này đảm nhận tốt những vai trò đòi hỏi hành động và
đưa ra các sáng kiến. Họ thích làm việc theo nhóm để hoàn thành công việc.
Họ chủ động xác định các mục tiêu và công việc theo các cách khác nhau để
đạt được mục tiêu.
Các ví dụ và ứng dụng thực tế:
• Những người trong các lĩnh vực cần sự sáng tạo như nghệ thuật
thiên về cách học Phân kỳ.
• Các nhà khoa học và toán học thiên về cách học Đồng hóa.
• Các nhà khoa học ứng dụng và luật sư thiên về cách học Hội tụ.
• Các chuyên gia hành động theo trực giác như giáo viên thiên về cách
học Thích nghi.
1.3.2. Bản chất của dạy học theo góc
Thuật ngữ tiếng anh “working in corners” hoặc working with areas”
hoặc cornor work” được dịch là học theo góc, làm việc theo góc hay làm
việc theo khu vực. Học theo góc là một phương pháp dạy học mà trong đó
giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại các vị
trí cụ thể trong không gian lớp học đảm bảo cho học sinh học sâu.
15
Dựa trên cơ sở các cách học của Kolb thì có các phong cách học như
Hình 1.4. Các phong cách học
Ứng với các phong cách học khác nhau, giáo viên có những phong
cách dạy khác nhau. Một số phong cách học và dạy như sau
Bảng 1.1. Một số phong cách dạy và học
Phong cách học Tổ chức dạy học
- Góc trải nghiệm (tương đương với
cách học thích nghi của Kolb): Học
sinh áp dụng các phân tích của
người khác và thực hiện cách tiếp
cận thực tế và thử nghiệm.
- Cách dạy của GV: Kích thích tính
chủ động làm chủ.
Học sinh được tiến hành các thí
nghiệm theo nhóm, quan sát hiện
tượng, giải thích và rút ra nhận xét
cần thiết.
- Góc quan sát (tương đương với
cách học phân kỳ của Kolb): Học
- Cách dạy của GV: Kích thích khả
năng quan sát.
QUAN SÁT
QUAN SÁT
TRẢI NGHIỆM
TRẢI NGHIỆM
PHÂN TÍCH
PHÂN TÍCH
ÁP DỤNG
ÁP DỤNG
CÁC PHONG CÁCH HỌC
CÁC PHONG CÁCH HỌC
16
sinh thích quan sát hơn thực hiện, có
chiều hướng thu thập thông tin và
dùng trí tưởng tượng để giải quyết
vấn đề.
Học sinh được quan sát mẫu vật thật
hoặc quan sát hình ảnh vật, thí
nghiệm, hiện tượng trên màn hình
máy tính hoặc ti vi rút ra kiến thức
cần lĩnh hội.
- Góc phân tích (tương đương với
cách học đồng hóa của Kolb): Học
sinh thường nhìn nhận vấn đề khoa
học và súc tích.
- Cách dạy của GV: Kích thích nhạy
cảm phân tích và suy ngẫm.
Học sinh được đọc tài liệu sách giáo
khoa và tài liệu tham khảo để trả lời
câu hỏi và kiến thức mới cần lĩnh
hội.
- Góc áp dụng (tương đương với
cách học hội tụ của Kolb): Học sinh
thích tìm kiếm những cách ứng
dụng thực tế, thích thử nghiệm
những ý tưởng mới và tiến hành
những ứng dụng thực tế.
- Cách dạy của GV: Kích thích năng
lực áp dụng.
Họ sinh đọc bảng trợ giúp (chỉ đối
với học sinh chọn góc áp dụng là góc
xuất phát), sau đó áp dụng để giải
bài tập hoặc giải quyết một vấn đề
liên quan thực tiễn.
Như vậy khi nói đến học theo góc, người dạy cần tạo ra môi trường
học tập với cấu trúc được xác định cụ thể, có tính khuyến khích, hỗ trợ và
thúc đẩy học sinh tích cực thông qua hoạt động; có sự khác nhau đáng kể
về nội dung và bản chất của các hoạt động nhằm mục đích để học sinh
được thực hành, khám phá và trải nghiệm.
1.3.1.1. Tạo môi trường học tập với cấu trúc được xác định cụ
thể
Quá trình học được chia thành các khu vực/ góc theo cách phân chia
17
nhiệm vụ và tư liệu học tập. Để có cái nhìn tổng thể, một cấu trúc rõ ràng sẽ
được áp dụng để học sinh có thể độc lập tìm kiếm cách thức học tập phù
hợp nhằm thực hiện nhiệm vụ và đạt mục tiêu. Các vấn đề cần chú ý là: Các
em có biết có những khu vực nào và cần làm gì để hoàn thành nhiệm vụ?
Liệu các em có cần tư liệu để tự sửa chữa kết quả thực hiện nhiệm vụ? Liệu
các em có thể chuyển sang một khu vực khác và nếu có thể thì trong điều
kiện nào? Tất cả đều được tổ tức để tạo ra một bầu không khí nhẹ nhàng và
không ồn ào. Có thể áp dụng cách vẽ hình thể hiện “cấu trúc cụ thể” như
một biện pháp hỗ trợ trong quá trình thực hiện.
1.3.1.2. Có tính khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy học sinh tích cực
học
Dậy học theo góc mang lại môi trường học tập thân thiện, mang tính
kích thích thể hiện sự bố trí bàn ghế, trang trí trên tường, cách sắp xếp
không gian lớp học, quan tâm tới sự thoải mái về tinh thần, không căng
thẳng, không nặng nề, không gây phiền nhiễu, có các hoạt dộng giải trí nhẹ
nhàng, truyện vui, hài hước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Hỗ trợ cho
học sinh một cách tích cực, tạo cơ hội để học sinh giao tiếp, thể hiện quan
điểm, giái trị, ước mơ, chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác trong hoạt động học
tập.
1.3.1.3. Các hoạt động có tính đa dạng cao về nội dung và bản
chất.
Nhiệm vụ các góc cần đa dạng, do đó học sinh có sở thích và năng lực
khác nhau, nhịp độ học tâp và phong cách học khác nhau đều có thể tự tìm
cách thích ứng và thể hiện năng lực của mình. Điều này cho phép giáo viên
giải quyết vấn đề đa dạng trong nhóm. Ví dụ như:
Bốn góc cùng thực hiện một nội dung và mục tiêu học tập nhưng theo
các phong cách khác nhau và sử dụng các phương tiện/đồ dùng học tập khác
18
nhau.
Hay: Bốn góc thực hiện bốn nội dung với (bốn nhiệm vụ khác nhau)
để hoàn thành mục tiêu học tập theo các phong cách khác nhau và sử dụng
phương tiện/đồ dùng khác nhau
1.3.1.4. Nhiệm vụ hướng tới việc thực hành, khám phá và trải
nghiệm.
Học sinh sẽ bị cuốn vào việc học tập một cách tích cực, không chỉ với việc
thực hành các nội dung học tập mà còn khám phá các cơ hội học tập mới mẻ.
Việc trải nghiệm và khám phá trong học tập sẽ có nhiều cơ hội được phát huy
hơn khi học theo góc. Học sinh sẽ có cảm giác gần gũi hơn với tư liệu. Mỗi học
sinh đều có cơ hội để phát triển năng lực của mình theo những cách khác nhau.
1.3.2. Một số hình thức tổ chức dạy học theo góc
Như đã nói ở trên, có nhiều khả năng để tổ chức dạy học theo góc,
mỗi khả năng ấy tương ứng với một hình thức tổ chức dạy học theo góc
riêng và cũng tương ứng với các nội dung kiến thức riêng. Tùy thuộc vào
mức độ đề xuất sáng kiến từ phía học sinh mà giáo viên có thể có các công
thức khác nhau cho việc tổ chức học theo góc. Dưới đây, là một số hình
thức tổ chức dạy học theo góc và các kiến thức tương ứng có thể tổ chức
dạy học theo góc.
1.3.2.1. Tổ chức dạy học tại các góc theo cách luân chuyển
Giáo viên có thể tổ chức hoạt động học theo hệ thống luân chuyển
theo vòng tròn và nối tiếp.
Giáo viên sẽ tạo ra nhiều góc học tập với các nhiệm vụ khác nhau.
Không chỉ là các bài tập trên giấy mà còn là các bài tập, tự luận, thực
nghiệm… Nói cách khác: giáo viên sẽ đưa ra các dạng bài tập khác nhau để
giải quyết với các kĩ năng và mức năng lực khác nhau ở người học.
Sự đồng thuận trong hoạt động luân chuyển góc là một yếu tố quan
19
trọng trong cách tổ chức này. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh chuyển
qua góc tiếp theo khi đã kết thúc một phần nội dung – nhiệm vụ tại mỗi góc
(cần bảo quản các tư liệu học tập đã sử dụng). Ví dụ : Với việc tổ chức 4
góc : Góc trải nghiệm, góc quan sát, góc phân tích, góc áp dụng, học sinh có
thể luân chuyển theo chiều kim đồng hồ như sơ đồ dưới đây
Hình 1.5. Các phong cách học
Học theo góc nối tiếp có những lợi ích khi tính tới số lượng học sinh
được hưởng lợi và trong điều kiện số lượng tài liệu học tập giới hạn. Trong
hệ thống quay vòng, tất cả học sinh đều có cơ hội như nhau để tiếp cận với
các tài liệu học tập. Điều này có nghĩa là giáo viên không cần phải chuẩn bị
nhiều tài liệu dạy học.
Nhưng một điều bất lợi trong phương pháp này, đặc biệt khi các
nhiệm vụ được thực hiện đơn lẻ, là những học sinh nhanh/ thông minh sẽ
QUAN SÁT
QUAN SÁT
TRẢI NGHIỆM
TRẢI NGHIỆM
PHÂN TÍCH
PHÂN TÍCH
ÁP DỤNG
ÁP DỤNG
CÁC PHONG CÁCH HỌC
CÁC PHONG CÁCH HỌC
20
phải chờ đến khi có dấu hiệu chuyển vòng. Chúng ta có thể khắc phục được
điều này thông qua việc sử dụng bảng lựa chọn trong lớp hoặc thẻ góc cá
nhân.
Đối với hình thức tổ chứ hoạt động học tập này chúng ta có thể áp
dụng cho các kiến thức sau :
- Cấu tạo, nguyên lí hoạt động của các cơ cấu hệ thống
- Kĩ năng thực hành các bài thực hành
- Tìm hiểu các ứng dụng thực tiễn
1.3.2.2. Tổ chức hoạt động học tập tại các góc vượt khỏi phạm vi
lớp học
Có thể làm tăng hiệu quả của việc học theo góc thông qua việc liên
kết các lớp học với nhau. Bằng cách này, học sinh có thể tận dụng các
nguồn tư liệu học tập khác, thực hiện các bài tập khác bên cạnh các bài tập
đã làm trên lớp, và sẽ làm tăng giá trị xã hội của nhiệm vụ học tập. Làm
việc với những bạn mới đồng thời hoàn thành các nhiệm vụ trong một
nhóm gồm nhiều học sinh thuộc các lớp đòi hỏi năng lực xã hội cao. Một lợi
ích khác là giáo viên có thể chia sẻ mô hình tổ chức : Chúng ta không đơn
độc khi làm mà chúng ta còn có sự hỗ trợ của đồng nghiệp.
Đối với hình thức tổ chức hoạt động học tập này chúng ta có thể áp
dụng cho các kiến thức sau :
- Cấu tạo, nguyên lí làm việc của các cơ cấu và hệ thống
- Các định luật, định lí, các khái niệm hay nhiệm vụ của các cơ cấu hệ
thống
- Kĩ năng thực hành các thí nghiệm.
1.3.2.3. Tổ chức hoạt động học tập theo góc dưới hình thức Hội
thảo học tập
Hội thảo học tập là một loại hình đặc biệt của học theo góc. Hội thảo
21