Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

CÁC LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.58 KB, 34 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
LÝ THUYẾT THƯƠNG MẠI MỚI ........................................................................................................2
NEW TRADE THEORY (PAUL KRUGMAN).......................................................................................2
I.Tiểu sử : ...............................................................................................................................................2
II. Hoàn cảnh ra đời:..............................................................................................................................2
III. Tư tưởng chủ đạo:...........................................................................................................................3
IV. Một vài ví dụ thực tế minh họa cho lý thuyết thương mại mới:.....................................................4
LÝ THUYẾT VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH QUỐC GIA................................................................5
V.MICHAEL EUGENE PORTER......................................................................................................16
LÝ THUYẾT KHÔNG GIAN TIỀN TỆ TỐI ƯU..................................................................................21
(R.MUNDELL VÀ R.McKINNON).......................................................................................................21
I/ Tiểu sử :............................................................................................................................................21
III/ Sự vận dụng vào thực tế:...............................................................................................................22
IV/ Đánh giá:........................................................................................................................................23
Các Dự Báo Về Tác Động Của Đồng Tiền Chung Châu Âu Với Thị Trường Tài Chính Quốc Tế...23
Các Kết Quả Và Cột Mốc................................................................28
CHỦ NGHĨA CHIẾT TRUNG TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ.......................................................29
I.Một số lý thuyết về đầu tư quốc tế:...................................................................................................29
II.Chủ nghĩa triết chung trong hoạt động đầu tư:................................................................................32
ĐÁNH GIÁ CÁC LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ QUỐC TẾ...................................................................34
1.Những thành công:..........................................................................................................................34
2.Những vấn đề cần tiếp tục giải quyết:.............................................................................................34
1 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LÝ THUYẾT THƯƠNG MẠI MỚI
NEW TRADE THEORY (PAUL KRUGMAN)
I. Tiểu sử :
Paul Robin Krugman ( sinh ngày 28 tháng 2 năm
1953) là một nhà kinh tế Mỹ , giáo sư kinh tế và vấn
đề quốc tế tại Woodrow Wilson School of Public và


vấn đề quốc tế tại Đại học Princeton , Centenary
giáo sư tại trường London Kinh tế , và một chuyên
mục cho tờ The New York Times .Paul Krugman
tốt nghiệp đại học Yale năm 1974 và hoàn thành
luận án Tiến sĩ về tài chính quốc tế tại Đại học MIT
danh tiếng (Học viện Công nghệ Massachusetts) chỉ
ba năm sau đấy, ở tuổi 24. Ông là tác giả của 20
cuốn sách và hơn 200 bài báo chuyên ngành.
Paul Krugman nhận giải Nobel Kinh tế do Viện
Hàn lâm Khoa học Thụy Điển trao tặng tại trường Đại học Princeton, Mỹ, vào ngày 13/10/2008.
Theo thông cáo, Paul Krugman được trao giải cho “sự phân tích của ông về các hình mẫu thương
mại và vị trí của hoạt động kinh tế”. Cụ thể hơn, giải thưởng được trao cho những đóng góp của Paul
Krugman trong hai lĩnh vực thương mại quốc tế và địa lý kinh tế.
II. Hoàn cảnh ra đời:
Trong một thời gian dài từ đầu thế kỷ 19 cho tới những năm 1970, lý thuyết thương mại quốc tế
được xây dựng dựa trên ý tưởng của nhà kinh tế học người Anh David Ricardo về lợi thế so
sánh.Theo Ricardo, các quốc gia sở dĩ trao đổi mua bán hàng hóa vì họ có những lợi thế so sánh khác
nhau và thương mại quốc tế diễn ra trên cơ sở sự khác biệt về lợi thế so sánh này.
Sang thế kỷ 20, vào những năm 1920 - 1930, lý thuyết của Ricardo được hai nhà kinh tế học người
Thụy Điển Eli Heckscher và Bertil Ohlin mở rộng và mô hình hóa.
Mô hình Heckscher-Ohlin cho rằng thương mại quốc tế diễn ra trên cơ sở điều kiện khác biệt giữa
các quốc gia về nhân tố sản xuất: Một số nước dư thừa lao động nhưng lại thiếu vốn, trong khi một số
nước khác lại nhiều vốn nhưng thiếu lao động. Kết quả là những nước sẽ chuyên môn hóa vào sản
xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà nước đó có lợi thế tương đối và nhập khẩu những mặt hàng
kém lợi thế. Chẳng hạn, Việt Nam có nhiều lao động nhưng thiếu vốn và công nghệ nên có lợi thế
tương đối trong sản xuất các mặt hàng cần nhiều lao động như quần áo, giày dép, nông sản, trong khi
Mỹ có lợi thế tương đối trong sản xuất các mặt hàng công nghệ cao và cần nhiều vốn như máy tính,
Ipod, phim Hollywood…
Và quan hệ thương mại diễn ra trên cơ sở này, Việt Nam xuất khẩu quần áo, giầy dép, nông sản
sang Mỹ và nhập khẩu máy tính, Ipod, phim Hollywood… từ Mỹ.

2 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mô hình Heckscher-Ohlin ngự trị tư duy kinh tế quốc tế trong suốt nửa thế kỉ, và giải thích được
hầu hết các mối quan hệ thương mại quốc tế. Thế nhưng càng ngày, người ta càng thấy có những đặc
điểm trong thương mại quốc tế mà mô hình này không thể giải thích.
Một trong những đặc điểm đó là quan hệ thương mại nội ngành (intra-industry trade). Ví dụ, Mỹ
xuất khẩu xe hơi sang Nhật và châu Âu nhưng cũng nhập khẩu xe hơi từ Nhật và châu Âu. Theo lý
thuyết lợi thế so sánh thì trao đổi thương mại trong ngành này không thể xảy ra vì với một mặt hàng,
chỉ có một chiều thương mại từ nơi có lợi thế sang nơi không có lợi thế sản xuất mặt hàng đó, như
nước chỉ chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp, mà thôi. Nhưng thực tế lại không diễn ra như vậy.
Lý thuyết lợi thế so sánh cũng không giải thích được tại sao một số nền kinh tế như Đài Loan và
Hàn Quốc lại thành công trong việc chuyển từ xuất khẩu quần áo, giày dép vào những năm 1960 sang
xuất khẩu máy tính, ôtô đến Mỹ và châu Âu như ngày nay.
Việc này gây nhiều bối rối cho các nhà kinh tế học và đã có một số mô hình ra đời nhằm giải thích
cho quan hệ thương mại này.
Năm 1976, trong một lần dự tiết giảng của Robert Solow, một nhà kinh tế từng được giải Nobel, Paul
Krugman được biết tới khái niệm cạnh tranh độc quyền - là sự cạnh tranh xảy ra khi những nhà sản
xuất có được vị thế độc quyền với những nhãn hiệu hay sản phẩm nhất định.
Ý tưởng vận dụng khái niệm cạnh tranh độc quyền trong thương mại quốc tế chợt nảy ra trong đầu
Paul Krugman. Sau này ông kể lại: “Chỉ trong vài giờ sau đấy, tôi biết ngay tôi đã có chìa khóa để
cầm trong tay cả sự nghiệp của mình. Tôi còn nhớ rõ tôi thức cả đêm trong phấn khích”.
Thế nhưng ý tưởng của ông không dễ dàng được chấp nhận, bài viết của ông bị nhiều tạp chí
chuyên ngành có uy tín từ chối và vấp phải sự thờ ơ của đồng nghiệp. Mãi tới năm 1979, Krugman
mới có thể đăng bài viết của mình trên Tạp chí Kinh tế Quốc tế. Bài viết ngắn, chỉ 10 trang nhưng
ngay lập tức gây được sự chú ý đặc biệt trong ngành và Paul Krugman trở thành cha đẻ trường phái
“Lý thuyết thương mại mới” khi mới 26 tuổi.
III. Tư tưởng chủ đạo:
Lý thuyết này giải thích quan hệ thương mại nội ngành dựa trên giả định về lợi thế nhờ quy mô,
theo đó việc sản xuất trên quy mô lớn làm giảm chi phí sản xuất. Lý thuyết này được xây dựng nhằm
đưa ra cách giải thích khác về cơ cấu và mô thức của nền thương mại thế giới.Nó được xây dựng trên

các lập luận sau:
- Quá trình chuyên môn hóa sản xuất và lợi thế kinh tế theo quy mô sẽ mang lại các khoản lợi
ích cho các bên tham gia.
- Các doanh nghiệp đầu tiên gia nhập vào một thị trường nào đó có thể tạo ra những rào cản nhất
định đối với các doanh nghiệp gia nhập sau đó.
- Chính phủ của các nước có thể có vai trò hỗ trợ có hiệu quả cho các công ty của nước mình khi
tham gia vào thị trường thế giới.
Lý thuyết thương mại mới đưa ra khái niệm lợi thế của người đi trước. Đây là khái niệm chỉ ra
những lợi thế về kinh tế và lợi thế về mặt chiến lược đạt được của các công ty do chúng là người đầu
3 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiên gia nhập gia nhập vào một ngành công nghiệp nhất định. Theo lý thuyết này,khi một công ty mới
gia nhập vào một ngành sản xuất nào đó thì công ty thường gặp phải các loại chi phí cố định là rào
cản đối với sự gia nhập như chi phí nghiên cứu và phát triển,chi phí xây dựng nhà xưởng,chi phí mua
sắm máy móc,thiết bị… Quá trình chuyên môn hóa sẽ làm cho công ty tăng được khối lượng sản
phẩm sản xuất ra và việc này làm cho chi phí cố định có tăng lên đôi chút,nhưng do sản lượng tăng
lên rất lớn nên chi phí đối với mỗi đơn vị sản phẩm giảm xuống. Đây là điều kiện để công ty giảm giá
đối với khách hàng mà vẫn đảm bảo lợi nhuận. Đối với những công ty mới thâm nhập vào thị
trường,để có thể tồn tại được,chúng buộc phải sản xuất với mức sản lượng tương tự để có thể cạnh
tranh về giá. Những ưu thế của công ty đến trước có được do chủ động đưa ra các loại rào cản đối với
các đối thủ cạnh tranh thâm nhập thị trường muộn hơn được gọi là lợi thế của người đi trước.
Do là người đầu tiên gia nhập thị trường nên các công ty này thường được chính phủ ủng hộ dưới
nhiều hình thức. Hơn nữa,để giành lợi thế đến trước so với các đối thủ khác,các chính phủ cũng ý
thức được sự cố gắng và những nỗ lực có tính chất chủ động của mình,nhằm tạo cho các doanh
nghiệp đi tiên phong phải được hưởng những ưu đãi để hình thành và phát triển mạnh các lợi thế.
Theo cách xem xét đó,những cố gắng của doanh nghiệp phải kết hợp với sự hỗ trợ của chính phủ một
cách nhịp nhàng.

Bên cạnh lợi thế quy mô sản xuất, lý thuyết Krugman còn dựa trên giả định người tiêu dùng quan
tâm tới tính đa dạng sản phẩm.

Do hai đặc tính này - lợi thế quy mô của nhà sản xuất và sự ưa thích đa dạng nhãn hiệu của người
tiêu dùng - mà người sản xuất sẽ dần dần trở thành độc quyền đối với nhãn hiệu sản phẩm của mình,
kể cả khi phải chịu sự cạnh tranh giữa các nhãn hiệu khác.
Mô hình của Paul Krugman giải thích tại sao thương mại quốc tế vẫn có thể diễn ra giữa những
nước có lợi thế tương đối về công nghệ và nhân tố sản xuất tương tự nhau. Ví dụ Mỹ và châu Âu cùng
có lợi thế tương đối về vốn và công nghệ nhưng Mỹ vẫn xuất khẩu xe Ford và nhập xe BMW từ châu
Âu. Sở dĩ điều này xảy ra vì sự ưa thích tính đa dạng nhãn hiệu của người tiêu dùng cho phép cả hai
hãng Ford và BMW có lợi thế tương đối trong sản xuất những nhãn hiệu của mình.
IV. Một vài ví dụ thực tế minh họa cho lý thuyết thương mại mới:
1. Cụ thể ở Việt Nam,ta sẽ xét trong thị trường viễn thông. Trong thị trường viễn thông Việt
Nam,các doanh nghiệp đi tiên phong trong lĩnh vực này là Vinaphone,Mobiphone và Viettel. Đây là 3
ông lớn của làng viễn thông Việt Nam. Bắt đầu tham gia vào thị trường viễn thông vào năm 1993,thời
điểm này cước sử dụng dịch vụ điện thoại di động còn rất cao- vì thời điểm này số lượng khách hang
còn thấp,người dân VN còn khá dè dặt với hình thức mới mẻ này. Hai anh em Vinaphone và
Mobiphone cùng được ra đời từ tập đoàn viễn thông quốc gia VNPT được hậu thuẫn rất lớn từ chính
phủ,cùng với Viettel Telecom-tập đoàn viễn thông quân đội. Từ những năm 2000,số lượng người
dùng dịch vụ di động tăng lên đáng kể,cùng với đó là sự vào cuộc mạnh mẽ của các mạng di động nhỏ
như S-phone,HT-mobile,Vietnammobile,EVN telecom,Beeline…các ông lớn bắt đầu sử dụng lợi thế
4 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh tế của mình-đó là công nghệ thiết bị sẵn có,số lượng khách hàng lớn ( sản lượng lớn) để dựng
nên các rào cản thâm nhập với các công ty “đến sau” bằng các hình thức giảm giá cước liên
tục,khuyến mãi lớn…cùng với các dịch vụ gia tăng khác dựa trên cơ sở hạ tầng sẵn có mà vẫn đảm
bảo lợi nhuận cao. Còn các mạng nhỏ liên tục gặp khó khăn lớn và gần như không thể cạnh tranh nổi.
Các mạng nhỏ đến sau với nguồn khách hàng hạn hẹp,đầu tư ban đầu lớn thì không thể hạ giá thành
sản phẩm được.
Đây là một ví dụ rất điển hình cho lý thuyết người đi trước của Krugman.
Ngoài ra,chúng ta có thể thấy hiện nay có nhiều quốc gia đủ khả năng thành lập các nhà máy sản
xuất máy bay,nhưng thực tế chỉ có một số hãng máy bay có thể sản xuất như Boeing,Airbus. Đây
cũng là do tính kinh tế của quy mô bởi sản xuất máy bay cần đầu tư công nghệ cao,nghiên cứu cẩn

thận và nhà xưởng hiện đại. Đây là một rào cản lớn đối với các hãng muốn gia nhập thị trường sản
xuất máy bay.
2. Về lý thuyết người tiêu dùng ưa thích sự đa dạng sản phẩm,trên thực tế chúng ta cũng gặp rất
nhiều. Ví dụ như Việt Nam là nước đứng thứ 2 về xuất khẩu gạo( chỉ sau Thái Lan),nhưng người dân
Việt Nam vẫn lựa chọn các loại gạo như gạo Thái,gạo Nhật…
Một ví dụ khác đó là Đức với ngành công nghiệp sản xuất ôtô mạnh với các hãng như
Wolwagen,BMV,Mercedes nhưng họ vẫn nhập khẩu các loại ôtô từ Mỹ như Rolroys,Ford,,,hay từ
nhật như Toyota,Mazda…
Biểu đồ thị phần của các công ty viễn thông Việt Nam tính đến quý I/2009
LÝ THUYẾT VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH QUỐC GIA
( National competitive advantage)
5 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI LÝ THUYẾT
Sự cạnh tranh trở nên ngày càng khốc liệt giữa các quốc gia. Các rào cản thương mại bị dỡ
bỏ và các thị trường được mở cửa ra bên ngoài. Các quốc gia chuyển từ sự tập trung của họ từ
chính trị quốc tế sang nâng cao đời sống người dân.
Sự cải cách kinh tế vĩ mô là cần thiết nhưng chưa đủ. Cũng quan trọng không kém, thậm chí
là quan trọng hơn, là nền tảng vi mô của phát triển, bắt nguồn từ chiến lược của các doanh
nghiệp và trong các thể chế, hạ tầng chính sách  Làm gì sau quá trình điều chỉnh và ổn định
vĩ mô?
Thu hẹp khoảng cách giữ doanh nghiệp và chính phủ trong việc giải quyết các vấn đề sức
cạnh tranh.
Lợi thế so sánh, như nó được hiểu, dựa vào các nguồn lực đầu vào như lao động, tài nguyên
thiên nhiên và vốn tài chính. Tuy nhiên, những nhân tố đầu vào đó ngày nay càng trở nên ít có
giá trị trong bối cảnh toàn cầu hóa. Sự thịnh vượng phụ thuộc vào việc tạo dựng một môi
trường kinh doanh cùng với những thiế chế hỗ trợ cho phép một quốc gia sử dụng hiệu quả và
nâng cấp nguồn lực đầu vào của nó.
Sự nhầm lẫn giữa lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Với chính phủ, sự phân biệt giữa tự do và can thiệp đã lỗi tời. Chính phủ, đầu tiên và quan

trọng nhất, phải nỗ lực tạo ra một môi trường hỗ trợ nâng cao năng suất. Hàm ý mỗi chính phủ
cần có vai trò tối thiểu trong một số lĩnh vực và có vai trò chủ động trong những lĩnh vực
khác.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT
- Michael Poter đã nghiên cứu nhiều nước khác nhau và trong mỗi nước, ông xem xét kỹ
lưỡng cạnh tranh trong nhiều ngành công nghiệp. Nghiên cứu dựa trên chỉ một vài quốc gia
hay nhóm nhỏ các ngành có rủi ro nhầm lẫn những cái cá biệt đối với những nguyên lý tổng
quát. Ông đã chọn ra mười nước để nghiên cứu với nhiều đặc trưng và thể chế khác nhau.
Bao gồm: Đan Mạch, Đức, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh
Quốc, Hoa Kỳ.
- Công trình của ông bao gồm các phần chính:
o Phần 1: Trình bày tổng quan lý thuyết, cung cấp những nguyên lý của chiến lược cạnh
tranh.
o Phần 2: phân tích lịch sử phát triển của bốn ngành công nghiệp tiêu biểu được lựa
chọn từ nhiều ngành công nghiệp đã nghiên cứu.
o Phần 3: Áp dụng các lý thuyết vào các quốc gia.
o Phần 4: phát triển một số những hàm ý của lý thuyết đối với chiến lược của công ty và
chính sách của chính phủ.
o Phần 5: minh họa việc sử dụng lý thuyết để xác định những vấn đề sẽ điều chỉnh sự
phát triển trong tương lại của mỗi nền kinh tế quốc gia.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CẠNH TRANH QUỐC GIA
1. Sức cạnh tranh là gì?
6 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Một số người coi sức cạnh tranh quốc gia là một hiện tượng kinh tế vĩ mô liên quan tới các
biến số như tỉ giá hối đoái, lãi suất và mức thâm hụt ngân sách chính phủ. Nhiều nước vẫn
hưởng mức sống tăng lên gnanh chóng bất chấp thâm hụt ngân sách.
- Một số nước coi sức cạnh tranh là một hàm số của lao động giá rẻ và dồi dào. Việt Nam là
một ví dụ điển hình cho quan điểm này. Các nước như Đức, Thụy Sĩ và Thụy Điển trở nên
giàu có bất chấp mức lương trả cho công nhân cao và thiếu nguồn lao động trong muộn thời

gian dài.
- Còn một số quan điểm cho rằng sức cạnh tranh phụ thuộc vào việc sở hữu những nguyên tài
nguyên thiên nhiên dồi dào.
- Gần đây, nhiều người cho rằng chính sách của chính phủ có tác động lớn nhất tới sức cạnh
tranh.
- Sức cạnh tranh quốc gia là những khác biệt trong phương pháp quản lý.
- Không một sự giải thích nào về sức cạnh tranh là hoàn toàn thỏa đáng.
2. Những vấn đề về cạnh tranh
- Tại sao một số nhóm xã hội, tổ chức kinh tế và quốc gia lại giàu có và thịnh vượng?
- Tại sao một số quốc gia gặp nhiều bất lợi về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên lại
có thể phát triển thịnh vượng? Tại sao một số quốc gia khác có nhiều điều kiện tự nhiên
thuận lợi lại tụt hậu? Tại sao Nhật Bản lại có năng lực cạnh tranh trong ngành điện tự và
thiết bị tự động hóa, Ý trong ngành may mặc và thời trang còn Mỹ lại có lợi thế mạnh về
máy tính và phần mềm, điện ảnh? Làm sao chúng ta có thẻ giải thích được vì sao nước Đức
lại trở thành đất nước của những công ty sản xuất máy in, xe hơi sang trọng và hóa chất hàng
đầu thế giới? Vì sao đất nước Thụy Sĩ nhỏ bé lại là nơi đặt trụ sở của các doanh nghiệp dược
phẩm, chocolate và kinh doanh hàng đầu?
- Lý thuyết vĩ mô truyền thống về cạnh tranh và thương mại trên nguồn tài nguyên thiên nhiên
và lao động giá rẻ hay sự can thiệp của chính phủ dường như không thể lý giải thấu đáo
những câu hỏi trên.
- Các lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và David Ricardo ngày nay càng tỏ ra
không đầy đủ để giải quyết các vấn đề. Những thay đổi về bản chất của cạnh tranh quốc tế,
trong đó có sự nở rộ của các tập đoàn đa quốc gia không chỉ xuất khẩu mà còn cạnh tranh
quốc tế thông qua các doanh nghiệp con ở nước ngoài đã làm suy yếu cách lý giải truyền
thống vì sao và nơi nào một quốc gia sẽ xuất khẩu. Lý thuyết về lợi thế so sánh vấp phải
nghịch lý Leontief.
- Doanh nghiệp từ các nước đạt được những thành công toàn cầu khác nhau trong những
ngành cụ thể. Môi trường ở một số nước dường như thúc đẩy sự tiến bộ hơn ở các nước
khác.
- Lợi thế cạnh tranh quốc gia hay những đặc trưng quốc gia nuôi dưỡng lợi thế cạnh tranh

trong những lĩnh vực cụ thể và những hàm ý cho cả doanh nghiệp và chính phủ.
3. Sự thay đổi trong cạnh tranh:
- Sự phát triển của cộng nghệ:
o Ngày càng có nhiều ngành công nghiệp khác biệt với những ngành lý lý thuyết lợi thế
ó sánh đã dựa vào. Sự thay đổi công nghệ diễn ra khắp nơi và liên tục.
7 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
o Công nghệ đã mang tới cho các quốc gia và doanh nghiệp sức mạnh đề vượt qua sự
khan hiếm các yếu tố sản xuất thông qua những quy trình và sản phẩm mới.
o Trong nhiều ngành công nghiệp, việc tiếp cận với các yếu tố sản xuất dồi dào không
có vài trò quan trọng bằng công nghệ và kỹ năng sử dụng chúng hiệu quả. Ví dụ, lao
động giá rẻ ở Việt Nam là một lợi thế, chừng nào khoa học công nghệ còn gặp khó
khăn với những ngành sản xuất thủ công. Tuy nhiên, tới một thời điểm, công nghệ sản
xuất được cải tiến, điều đó làm giảm đi lợi thế về lao động giá rẻ của Việt Nam.
- Vốn yếu tố sản xuất tương đương:
o Hầu hết các hoạt động thương mại trên thế giới diễn ra ở những quốc gia tiên tiến với
vốn yếu tố sản xuất tương đương.
o Nhiều quốc gia cũng đã có những cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc cạnh tranh trong
hầu hết các ngành công nghiệp. Những lợi thế về nhân tố sản xuất thuận lợi ở các
quốc gia tiên tiến đã dần bị thu hẹp.
- Toàn cầu hóa:
o Các doanh nghiệp cạnh tranh với những chiến lược toàn cầu. Họ hình thành các liên
minh với những doanh nghiệp từ các quốc gia khác để có thể tiếp cận với điểm mạnh
của những doanh nghiệp đó.
o Sự toàn cầu hóa các ngành công nghiệp tách rời daonh nghiệp ra khỏi vốn yếu tố sản
xuất của riêng một quốc gia. Các yếu tố sản xuất như nguyên liệu thô, phụ kiện đều
tương tự nhau, có sẵn trên toàn cầu.
o Chính địa điểm và cách sử dụng hiệu quả các yếu tố sản xuất có ý nghĩa quyết định
hơn bản thân các yếu tố trong thành công quốc tế.
4. Lợi thế tạm thời:

- Một quốc gia có chi phí nhân công thấp ngày hôm nay sẽ nhanh chóng bị thay thế bơi một
quốc gia khác vào ngày mai.
- Những nguồn tài nguyên có chi phí thất có thể thay đổi qua một đem khi công nghệ mới cho
phép khai thác các nguồn tài nguyên ở những nơi trước đấy người ta cho là không thể hoặc
không có tính kinh tế.
 Các nước đang phát triển thường rơi vào vấn đề này.
IV. MÔ HÌNH KIM CƯƠNG VỀ CẠNH TRANH QUỐC GIA
Câu trả lời cho những vấn đề ở trên nằm trong bốn đặc tính tổng quát của một quốc gia,
hình thành nên môi trường trong đó các doanh nghiệp trong nước khi cạnh tranh, và có thể
làm tăng hoặc giảm lợi thế cạnh tranh.
- Thứ nhất, điều kiện về nhân tổ sản xuất: vị trí của quốc gia trong các nhân tổ cần thiết để
cạnh tranh trong nghành nghề đó. Ví dụ: lao động có tay nghê hay cơ sở hạ tầng.
- Thứ hai, điều kiện về nhu cầu thị trường: tính chất của như cầu trong nước về sản phẩm hay
dịch vụ của ngành nghề đó.
- Thứ ba, các ngành nghề bổ trợ và có liên quan: sự có mặt hay thiếu vắng tại quốc gia đó
những ngành nghề cung ứng và ngành nghề có liên quan có khả năng cạnh tranh quốc tế.
- Thứ tư, chiến lược, có cấu và tính thi đua của doanh nghiệp: điều kiện tại quốc gia đó quyết
định việc thành lập, tổ chức, quản lý doanh nghiệp như thế nào, và bản chất của sự cạnh
tranh trong nước
8 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mô hình kim cương
Ngoài ra còn có hai nhân tố có thể ảnh hưởng đến hệ thống quốc gia và cũng cần thiết
trong mô hình, đó là cơ hội và nhà nước.
- Cơ hội: là những điều kiện phát triển ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp (thường là bên
ngoài sự quản lý của nhà nước của quốc gia đang xét), ví dụ như những phát minh thuần túy,
những đột phá về kỹ thuật căn bản, chiến tranh.
- Nhà nước. Chính quyền các cấp có thể cải tiến hay giảm thiểu lợi thế quốc gia. Có thể thấy
vai trò này rõ nhất bằng cách kiểm tra xem các chính sách ảnh hưởng như thế nào đến mỗi
nhân tố quyết định.

1. Nhân tố sản xuất
Mỗi quốc gia đều sở hữu nhân tố sản xuất. Đây là nhân tổ cần thiết cho cạnh tranh trong
bất kỳ một ngành nghề nào. Tuy nhiên mỗi quốc gia có một đặc điểm khác nhau, có
9 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguồn dự trữ nhân tố sản xuất khác nhau. Điều đó tạo nên lợi thế cạnh tranh của mỗi
quốc gia.
Trong một quốc gia, những nhân tổ quan trọng nhất đói với lợi thế cạnh tranh trong hầu
hết các ngành nghề, đặc biệt là những ngành nghề cần thiết cho việc tăng năng suất lao
động trong các nền kinh tế tiên tiến, không phải được thừa hưởng mà phải được tạo ra,
thong qua các quá trình khác nhau giữa các quốc gia và các ngành nghề.
Nhân tổ sản xuất có thể chia làm 5 loại:
- Tài nguyên nhân lực : số lượng, tay nghề, chi phí nhân sự (bao gồm quản lý) tính cả giờ
làm việc chuẩn và qui tắc đạo đức trong khi làm việc. Nguồn nhân lực có thể được chia ra
thành nhiều loại, như kỹ thuật viên chế tạo công cụ, kỹ sư điện có bằng Tiến sỹ, thảo
chương viên viết các chương trình ứng dụng, v.v…
- Tài nguyên vật ch ấ t : sự phong phú, chất lượng, khả năng sử dụng, và chi phí về đất đai,
nước, khoáng sản hay sản lượng gỗ tiềm năng, nguồn thuỷ điện, ngư trường đánh bắt cá
và các nhân tố vật chất khác.
- Tài nguyên kiến th ức: kiến thức về thị trường, kỹ thuật và khoa học liên quan đến hàng
hóa và dịch vụ. Tài nguyên kiến thức đến từ các trường đại học, các viện nghiên cứu
thống kê của chính phủ, các tài liệu khoa học và thương mại, các bảng báo cáo và cơ sở
dữ liệu nghiên cứu thị trường, các hiệp hội thương mại và các nguồn khác.
- Nguồn vốn : tiền vốn và chi chi phí vốn có sẵn để tài trợ cho các ngành nghề. Vốn không
phải đồng nhất mà hình thành từ nhiều hình thức khác nhau như những khoản nợ không
bảo đảm (unsecured debts), những khoản nợ bảo đảm (secured debts), các cổ phiếu và
chứng khoán "nguy cơ" (rủi ro cao, lãi cao), và đầu tư vốn (venture capital). Tổng nguồn
vốn trong một đất nước, và những hình thức triển khai vốn, tuỳ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm
của quốc gia và cơ cấu thị trường vốn của quốc gia đó, cả hai đều thay đổi tuỳ theo mỗi
quốc gia. Sự toàn cầu hoá thị trường vốn và lượng vốn lớn luân chuyển giữa các quốc gia

đang dần làm các điều kiện của các quốc gia ngày càng giống nhau hơn. Tuy nhiên,
những mặt khác nhau căn bản vẫn tồn tại và có thể tiếp tục tồn tại mãi mãi.
- Cơ sở hạ t ầ ng : chủng loại, chất lượng và chi phí sử dụng cơ sở hạ tầng cũng ảnh hưởng
đến sự cạnh tranh, bao gồm hệ thống giao thông, hệ thống liên lạc, phân phát thư và hàng
hóa, thanh toán và chuyển các quỹ, tổ chức y tế v.v…. Cơ sở hạ tầng cũng bao gồm hệ
thống nhà ở, các tổ chức văn hoá ảnh hưởng đến chất lượng của cuộc sống và mức độ
quốc gia đó thu hút người dân đến sinh sống và làm việc.
Vấn đề tạo ra các nhân tố
Chúng ta được thừa hưởng các nhân tố đó hay không? Đó là yếu tố rất quan trọng để tạo
ra lợi thế cạnh tranh kéo dài hay ở mức độ cao. Nguồn tài nguyên thiên nhiên, địa thể là những
nhân tố có sẵn, và tất nhiên chúng ta được thừa hưởng. Tuy nhiên, các yếu tố như hệ thống
viễn thong của một quốc gia, số các nhà khoa học nghiên cứu cơ bản, hệ thống giáo, các
10 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường dạy nghề, viện nghiên cứu mới là yếu tố quyết định. Chuẩn mực nhân tố của thế giới
ngày càng tăng, do vậy cần phải được đầu tư một cách lâu dài, liên tục .
Các quốc gia thành công trong các lĩnh vực ngành nghề mà họ đặc biệt chú trọng tạo
ra và quan trọng nhất là nâng cao những nhân tố cần thiết. Vì vậy, các quốc gia sẽ có thể
cạnh tranh trong các lĩnh vực mà họ sở hữu những cơ chế chất lượng cao cho việc tạo ra các
nhân tố đặc trưng.
Các nhân tố tiên tiến và nhân tố đặc trưng đóng vai trò rất quan trọng cho lợi thế cạnh
tranh và chính các doanh nghiệp ở vào vị trí tốt nhất để biết xem lợi thế nào tốt cho việc cạnh
tranh. Các đầu tư của chính phủ nhằm tạo ra nhân tố thường tập trung vào nhân tố cơ bản hay
nhân tố khái quát. Ví dụ như, đầu tư vào việc nghiên cứu căn bản, nếu đặt nặng vấn đề khả
năng gieo mầm mống sự đổi mới vào thương mại, thì sẽ không dẫn đến lợi thế cạnh tranh nếu
không được chuyển giao, hay phát triển xa hơn bởi các ngành nghề.
Những nổ lực của chính phủ tạo ra những nhân tố tiên tiến và nhân tố đặc trưng sẽ gặp
thất bại nếu họ không kết hợp hai điều đó vào ngành nghề bởi vì các cơ quan chính phủ, ai
cũng đều biết là chậm chạp và không có khả năng nhận ra những lĩnh vực mới hay nhu cầu
chuyên sâu của một ngành nghề nào đó. Tiền đầu tư trực tiếp từ các công ty, tổ chức thương

mại, và từ cá nhân trong việc tạo ra nhân tố, cũng như các đầu tư nhà nước hay cá nhân, là
đặc tính của những ngành nghề quốc gia thành công trên thế giới.
Ví dụ như ở Nhật, tạo ra nhân tố có khuynh hướng thường do cá nhân, trong
khi ở Thuỵ Điển, tạo ra nhân tố thường do vai trò của công chúng hơn. Ở Ý, thông
thường tạo ra nhân tố thông qua việc chuyển giao kiến thức trong các thế hệ gia đình.
Thường thấy trong một quốc gia, đặc tính của cơ chế tổ chức việc tạo ra nhân tố, thông
thường một phần là chức năng của các giá trị xã hội, chính trị và lịch sử, theo một cách
nào đó, thường giới hạn phạm vi các ngành nghề mà trong đó quốc gia có thể cạnh
tranh.
Lợi thế cạnh tranh có thể đến từ một vài bất lợi về nhân tố
Trong các cuộc cạnh tranh thực sự, sự phong phú hay chi phí thấp của một nhân tố
thường dẫn đến sự triển khai kém hiệu quả. Trái lại, nhân tố bất lợi trong các nhân tố cơ
bản, ví dụ như thiếu hụt về tiền lương, thiếu nguyên vật liệu trong nước, hay thời tiết khắc
nghiệt, lại thúc đẩy việc đổi mới. Sự gia tăng ổn định về tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia
cũng có thể có cùng hiệu quả. Kết quả là lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trở nên
nâng cao và bền vững hơn. Một bất lợi theo khái niệm nghĩa hẹp của cạnh tranh có thể trở
thành một lợi thế trong một khái niệm năng động hơn.
2. Nhu cầu thị trường
Trong một ngành nghề, nhân tố quyết định quan trọng thứ hai về lợi thế cạnh tranh
quốc gia là những điều kiện về nhu cầu nội địa về sản phẩm hay dịch vụ của ngành nghề
đó.
11 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có ba đặc điểm chính quan trọng của nhu cầu nội địa: cấu thành nhu cầu nội địa, kích cỡ và
cách thức phát triển nhu cầu nội địa, và cơ chế mà sở thích nội địa của mỗi quốc gia
chuyển giao ra thị trường nước ngoài. Sự quan trọng của hai điều sau còn tuỳ thuộc vào điều
trước. Chất lượng của nhu cầu nội địa quan trọng hơn số lượng của nhu cầu nội địa trong
việc quyết định lợi thế cạnh tranh.
Cấu trúc phân đoạn của nhu cầu:
Đầu tiên là cấu trúc phân đoạn của nhu cầu nội địa hay sự phân phối nhu cầu đối với nhiều

hình thức khác nhau. Trong hầu hết các ngành nghề, người ta đều phân loại nhu cầu. Ví dụ,
trong các máy bay thương mại, người ta tạo ra nhiều loại máy bay kích thước và cấu trúc khác
nhau thích hợp với các hãng hàng không có cấu trúc lộ trình khác nhau (differing route
structure) và các tình huống khác nhau. Vài phân đoạn mang tính chất toàn cầu hơn so với các
phân đoạn khác.
Kích thước và cách thức phát triển của nhu cầu nội địa:
Trong nhiều ngành, kích cỡ của nhu cầu nội địa rất được chú ý. Kích cõ như cầu nội địa là
quan trọng nhất đối với lợi thế cạnh tranh tỏng nước ở những ngành nghề nhất định, nổi bật là
đòi hỏi điều kiện R&D cao, những lợi thế về quy mô quan trọng trong sản xuất, bước nhảy vọt
lớn trong kỹ thuật,
3. Lợi thế cạnh tranh trong các ngành cung ứng
Sự hiện diện của các ngành cung ứng cạnh tranh trên thế giới trong một nước tạo lợi thế
cho các ngành nghề chuyển động xuôi dòng theo nhiều cách khác nhau. Đầu tiên, thông qua sự
tiếp cận hiệu quả, sớm, nhanh chóng và đôi khi ưu đãi các đầu vào có chi phí tốt nhất. Ví dụ,
Ý đã liên tiếp dẫn đầu thế giới ngành nữ trang, vàng bạc. Một phần bởi vì các doanh nghiệp
khác của Ý sản xuất hai phần ba máy chế tạo nữ trang cho thế giới và cũng đứng đầu thế giới
về các thiết bị tái chế các kim loại quý.
Sự có mặt của một ngành nghề có liên quan thành công trên thê giới trong một nước tạo
cơ hội cho dòng chảy thông tin và trao đổi kỹ thuật. Quan hệ kinh doanh qua lại và văn hóa
tương đồng giúp những sự trao đối như vậy diễn ra dễ dàng hơn so với doanh nghiệp nước
ngoài.
Các doanh nghiệp nội địa trong những ngành nghề có liên quan thường chia sẻ những
hoạt động và đôi lúc dần dần trở thành cách đồng minh.
Trong một ngành công nghiệp, nhu cầu các sản phẩm và dịch vụ bổ sung cũng giúp
các doanh nghiệp thành công trên thế giới. Ví dụ, việc bán thiết bị vi tính của Mỹ ra nước
ngoài đã dẫn đến nhu cầu ở nước ngoài đối với phụ kiện máy tính, phần mềm máy tính
cũng như các dịch vụ dữ liệu của Mỹ. Các ngành nghề dịch vụ kéo theo thông qua việc bán
các sản phẩm được sản xuất liên kết nhau từ quốc gia này và ngược lại.
Trong tất cả các ngành cung ứng, một nước không cần phải có lợi thế quốc gia thì mới
có thể đạt được lợi thế cạnh tranh trong một ngành công nghiệp. Nếu đầu vào không thúc

đẩy đổi mới hoặc trong quá trình sản xuất các sản phẩm và các quá trình có thể được nhập từ
12 | P a g e
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước ngoài. Nhiều kỹ thuật, nếu chỉ ứng dụng rất hẹp trong một lĩnh vực, thì cũng được
nhập từ nước ngoài. Ví dụ, trong rất nhiều ngành khác nhau của Thụy Sĩ và Đức, như máy
trợ thính và máy chế biến chất dẻo, các doanh nghiệp đã thành công trong việc thiết lập các
chi nhánh ở Mỹ để xâm nhập phần nào vào lĩnh vực điện tử và phần mềm. Ở đây, kiến thức
rộng của họ về công nghiệp tiêu dùng (user industry) quan trọng hơn nếu thiếu chuyên môn
trong các kỹ thuật cung ứng. Việc bù đắp phần thiếu của một ngành nghề cung ứng. Sẽ bù
đắp được thiếu hụt của ngành nghề cung ứng quan trọng nếu quốc gia có công nghiệp tiêu
dùng phát triển cao và được các khách hàng thích sử dụng sản phẩm công nghiệp cung ứng.
4. Yếu tố, chiến lược và đối thủ của công ty:
Yếu tố quyết định thứ tư của lợi thế cạnh tranh quốc gia trong một ngành nghề là bối
cảnh mà doanh nghiệp được tạo dựng, tổ chức và quản lý cũng như tính chất của đối thủ cạnh
tranh trong nước. Mục tiêu, chiến lược, và cách thức tổ chức doanh nghiệp trong các ngành
nghề biến đổi đa dạng giữa các quốc gia. Lợi thế quốc gia có được là nhờ họ biết lựa chọn các
yếu tố trên và kết hợp với nguồn lợi thế cạnh tranh trong một ngành nghề đặc thù nào đó. Mô
hình cấu trúc của đối thủ địa phương cũng có một vai trò to lớn trong tiến trình cải cách và
triển vọng cuối cùng cho sự thành công mang tính quốc tế. Cách thức doanh nghiệp được quản
lý và cách thức họ chọn để cạnh tranh bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh quốc gia. Các doanh nghiệp
trong một quốc gia không thể hiện được tính đồng nhất nhưng bối cảnh chung của toàn bộ
quốc gia thì lại rất đáng chú ý.
Ví dụ ở Ý, rất nhiều các doanh nghiệp cạnh tranh quốc tế thành công là những doanh
nghiệp vừa và nhỏ của tư nhân và được điều hành như một gia đình nhiều thế hệ. Ở Đức, bộ
phận lãnh đạo cao nhất của các doanh nghiệp là những cá nhân có kiến thức nền tảng về kỹ
thuật, và các doanh nghiệp tổ chức và quản trị theo kiểu phân chia cấp bậc. Nỗ lực để giải
thích tại sao một hệ thống quản trị quốc gia lại đạt đến một trình độ cao là một quá trình lâu
dài. Sự chú ý được hướng vào Mỹ trong khi những thập niên tám mươi nó được hướng vào
Nhật.Không có một hệ thống quản trị nào lại thích hợp cho tòan cầu. Các quốc gia sẽ có
khuynh hướng thành công trong những ngành nghề mà việc thực hiên quản trị và cách thức tổ

chức (được ưu đãi bởi môi trường quốc gia) phù hợp với nguồn lợi thế cạnh tranh của các
ngành nghề. Chẳng hạn như các doanh nghiệp của Ý là những kẻ đi đầu trên thế giới trong
một loạt các ngành nghề phân nhỏ (như đèn chiếu sáng, đồ gia dụng, giày dép, sợi len, và máy
đóng gói) trong đó lợi thế kinh tế do quy mô vừa khiêm nhường vừa có thể bị qua mặt bởi
ngay cả các doanh nghiệp liên kết lỏng lẻo. Các doanh nghiệp Ý hầu hết cạnh tranh bằng chiến
lược tập trung vào nhân công, tránh các sản phẩm được tiêu chuẩn hóa và vận hành ở một địa
thế thuận lợi nho nhỏ nào đó với cách thức đặc thù của họ hay bằng sự đa dạng về sản phẩm
theo ý thích của khách hàng. Do thường được thống trị bởi một cá nhân riêng lẻ, các doanh
nghiệp này phát triển nhanh chóng những sản phẩm mới và có thể thích ứng với sự thay đổi
của thị trường với một khả năng thích ứng đáng kinh ngạc.
Mục tiêu
13 | P a g e

×