Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

đánh giá ảnh hưởng của hoạt động làng nghề đa hội, phường châu khê, thị xã từ sơn, tỉnh bắc ninh đến chất lượng nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.98 MB, 112 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




NGUYỄN ĐỨC HIỂN



ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG LÀNG NGHỀ
ĐA HỘI, PHƯỜNG CHÂU KHÊ, THỊ XÃ TỪ SƠN,
TỈNH BẮC NINH ĐẾN CHẤT LƯỢNG NƯỚC





LUẬN VĂN THẠC SĨ







HÀ NỘI, 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




NGUYỄN ĐỨC HIỂN



ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG LÀNG NGHỀ
ĐA HỘI, PHƯỜNG CHÂU KHÊ, THỊ XÃ TỪ SƠN,
TỈNH BẮC NINH ĐẾN CHẤT LƯỢNG NƯỚC




CHUYÊN NGÀNH : KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ : 60.44.03.01


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN DUNG



HÀ NỘI, 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.


Tác giả luận văn

Nguyễn Đức Hiển


















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể các thầy cô giáo Khoa Môi trường, các
thầy cô giáo của Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã truyền đạt cho tôi những kiến
thức cơ bản và tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình học cao học trong
suốt hai năm qua.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc và chân thành tới thầy PGS. TS
Nguyễn Văn Dung đã dành nhiều thời gian trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cho
tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Tôi cũng xin cảm ơn Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh Bắc Ninh, Trung tâm
quan trắc môi trường tỉnh Bắc Ninh, Trung tâm quan trắc và bảo vệ môi trường tỉnh
Phú Thọ, UBND phường Châu Khê, thị xã Từ Sơn, Phòng Tài nguyên & Môi
trường, Phòng Công thương thị xã Từ Sơn đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
tiếp cận và thu thập những thông tin, lấy mẫu phân tích cần thiết cho đề tài.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã động
viên và giúp đỡ tôi về tinh thần, vật chất trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề
tài này.

Hà Nội, ngày 03 tháng 09 năm 2014
Học viên


Nguyễn Đức Hiển








Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
i

LỜI CẢM ƠN
ii
MỤC LỤC
iii
DANH MỤC BẢNG
v
DANH MỤC HÌNH
vi
DANH MỤC TỬ VIẾT TẮT
vii
MỞ ĐẦU
1
1.

Tính cấp thiết của đề tài
1
2.

Mục đích và yêu cầu nghiên cứu của đề tài
2
2.1 Mục đích:

2
2.2 Yêu cầu:
2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
3
1.1. Khái niệm và phân loại làng nghề 3
1.1.1. Khái niệm làng nghề 3
1.1.2. Phân loại làng nghề 4
1.2. Cơ sở nghiên cứu thực tiễn làng nghề:
5
1.2.1. Thực trạng hoạt động làng nghề trên thế giới: 5
1.2. Tình hình phát triển làng nghề tái chế kim loại ở nước ta
8
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển 8
1.2.2. Khái quát về làng nghề tái chế kim loại 11
1.2.3. Các vấn đề trong môi trường làng nghề tái chế kim loại: 13
1.2.4. Tình hình quản lý môi trường làng nghề 21
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
28
2.1.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
28
2.2.

Nội dung nghiên cứu:
28
2.3. Phương pháp nghiên cứu
28

2.3.1. Phương pháp điều tra, thu thập số liệu thứ cấp
28
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.3.2. Phương pháo điều tra bảng hỏi: 29
2.3.3. Phương pháp lấy mẫu, bảo quản và phân tích mẫu:
29
2.3.4. Phương pháp đối chứng chất lượng nước 34
2.3.5. Phương pháp xử lý số liệu 34
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
35
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
35
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
35
3.1.2 Tình hình phát triển kinh tế xã hội: 39
3.2. Hiện trạng hoạt động sản xuất tại làng nghề: 41
3.2.1. Quy mô làng nghề: 41
3.2.2. Quy trình công nghệ sản xuất làng nghề: 42
3.3. Đặc trưng chất thải tại làng nghề tái chế sắt thép Đa Hội
51
3.4. Hiện trạng quản lý môi trường tại làng nghề
55
3.5. Hiện trạng chất lượng môi trường nước tại làng nghề sắt thép Đa Hội 57
3.5.1. Hiện trạng chất lượng nước mặt: 57
3.5.2. Hiện trạng chất lượng nước thải
62
3.5.3. Hiện trạng chất lượng nước ngầm 65
3.6 Ảnh hưởng của sự ô nhiễm nước tới đời sống người dân

67
3.6.1 Đặc điểm nhân khẩu 67
3.6.2. Tình hình sức khỏe người dân 68
3.7. Đề suất một số biện pháp bảo vệ môi trường nước tại làng nghề Đa Hội
70
3.7.1. Giải pháp về công nghệ và kỹ thuật 70
3.7.2 Giải pháp về quản lý, cơ chế, chính sách 72
3.7.3. Quy hoạch không gian CCN làng nghề gắn với BVMT 75
3.7.4 Tăng cường truyền thông môi trường và khuyến khích BVMT 76
3.7.5. Bảo vệ sức khỏe cộng đồng
77
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
79
1. Kết luận
79
2. Kiến nghị
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
81
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

DANH MỤC BẢNG


Bảng 1.1: Hàm lượng một số kim loại nặng trong đất nông nghiệp 15
Xã Đại Đồng - Huyện Văn Lâm – Tỉnh Hưng Yên 15
Bảng 1.2: Vị trí mẫu và hàm lượng một số kim loại nặng trong nước 17
Xã Đại Đồng – Huyện Văn Lâm – Tỉnh Hưng Yên 17
Bảng 1.3: Hàm lượng tổng số và linh động của một số KLN trong đất nông nghiệp

khu vực nghiên cứu 19
Bảng 2.1: Vị trí và ký hiệu các mẫu nước tại làng nghề sắt thép Đa Hội 30
Bảng 2.2. Thời gian các đợt lấy mẫu nước tại làng nghề Đa Hội 32
Bảng 2.3 : Danh mục các chỉ tiêu và phương pháp phân tích 33
Bảng 3.1: Thực trạng phát triển kinh tế làng nghề Đa Hội 40
Bảng 3.2: Số cơ sở sản xuất, sản lượng thép và giá trị đạt được của làng nghề Đa
Hội qua các năm 40
Bảng 3.3: Diến biến về cơ sở sản xuất và quy mô hiện tại của các cơ sở sản xuất
CCN làng nghề Đa Hội 42
Bảng 3.4: Nhu cầu sử dụng nguyên, nhiên liệu làng nghề Đa Hội năm 2014 43
Bảng 3.5: Tình hình sử dụng nguyên, nhiên liệu của các cơ sở sản xuất tại làng nghề
Đa Hội năm 2014 44
Bảng 3.6 Số lượng sản phẩm tại các cơ sở điều tra 45
Bảng 3.7: Các dạng chất thải từ hoạt động tái chế kim loại 52
Bảng 3.8: Lượng chất thải rắn sản xuất của các cơ sở sản xuất tại làng nghề Đa Hội
54
Bảng 3.9: Kết quả quan trắc chất lượng nước mặt tại vị trí NM-1 57
Bảng 3.10: Kết quả quan trắc tại vị trí NM-2 và NM-3 59
Bảng 3.11: Kết quả quan trắc tại vị trí NT1 và NT2 63
Bảng 3.12: Kết quả quan trắc tại vị trí NT3 và NT4 64
Bảng 3.13: Kết quả quan trắc chất lượng nước ngầm theo thời gian của làng nghề
Đa Hội 66
Bảng 3.14: Tỷ lệ bệnh tật của người dân phường Châu Khê 68
Bảng 3.15: Phân công chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, cá nhân trong 73
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Phân loại làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất

5
Hình 1.2: Hiện trạng phân bố làng nghề nước ta
9
Hình 1.2: So sánh hàm lượng trung bình của các KLN tổng số và linh động trong
đất nông nghiệp Châu Khê năm 2005 và 2010.
20
Hình 3.1: Sơ đồ hành chính thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh
36
Hình 3.2: Biểu đồ cơ cấu lao động theo ngành của Châu Khê năm 2008
39
Hình 3.3: Biểu đồ tình hình sản xuất sắt thép qua các năm
41
Hình 3.4: Quy trình tái chế sắt phế liệu và nguồn thải
48
Hình 3.5: Quy trình gia nhiệt, tẩy rỉ và mạ kẽm điện
51
Hình 3.6: Biến động thông số BOD, COD, TSS trong nước mặt tại làng nghề
Đa Hội
60
Hình 3.7: Diễn biến nồng độ Fe theo thời gian
61
Hình 3.8: Diễn biến nồng độ các thông số BOD, COD,TSS,Fe trong nước thải CCN
làng nghề Đa Hội theo thời gian
65
Hình 3.9: Diễn biến nồng độ COD và Fe theo thời gian trong nước ngầm
67
Hình 3.10: Tỷ lệ mắc bệnh giữa các hộ tại làng nghề Đa Hội
69
Hình 3.11: Mô hình xử lý nước thải cho cụm công nghiệp Đa Hội
70

Hình 3.12: Mô hình xử lý cho cơ sở có dây chuyền mạ
71
Hình 3.13: Mô hình xử lý nước thải sinh hoạt ra ao làng Đa Hội
71





Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BOD
5
Nhu cầu oxy sinh học trong 5 ngày
BVMT Bảo vệ môi trường
CCN Cụm công nghiệp
CNH - HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
NN & PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
COD Nhu cầu ôxy hóa học
GDP
KLN
Tổng thu nhập quốc dân
Kim loại nặng
KT - XH Kinh tế - xã hội
HTX Hợp tác xã
HTXL Hệ thống xử lý

QCCP Quy chuẩn cho phép
QCVN Quy chuẩn Việt Nam
SDD Suy dinh dưỡng
T-M-H Tai - Mũi - Họng
TNLĐ Tai nạn lao động
TSS Nồng độ chất rắn lơ lửng
UBND Ủy ban nhân dân
VSMT Vệ sinh môi trường






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế tăng
trưởng vượt bậc sau thời kỳ “Đổi mới”. Bên cạnh các ngành trọng tâm như công
nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch… phải kể đến sự phát triển của các làng nghề
truyền thống đã và đang góp phần giữ gìn bản sắc truyền thống văn hóa dân tộc,
thúc đẩy hội nhập nền kinh tế, nâng cao chất lượng đời sống của người dân, giải
quyết vấn đề lao động Tuy nhiên, sự phát triển làng nghề lại kéo theo rất nhiều
mặt hạn chế. Trong đó các vấn đề môi trường làng nghề đang ngày càng trở nên
trầm trọng và cũng ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế và sức khỏe của người dân
và rất cần chúng ta có những biện pháp, cách thức bảo vệ, duy trì, phát triển làng
nghề một cách bền vững.

Một trong những địa phương có làng nghề truyền thống lâu đời là tỉnh Bắc
Ninh với các làng nghề: Làng nghề tái chế sắt thép Đa Hội, Làng nghề đúc đồng
Đại Bái, làng nghề mây tre đan Xuân Lai và làng nghề sắt thép Châu Khê đang
phát triển mạnh mẽ trong nhưng năm gần đây, góp phần rất lớn cho nền kinh tế
chung của tỉnh Bắc Ninh. Bên cạnh những mặt tích cực, theo ban thanh tra của Bộ
tài nguyên và Môi trường thì làng nghề sắt thép Đa Hội (Châu Khê) được xếp vào
một trong 47 làng nghề đang bị ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng, phải
khẩn trương khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường. Do đặc trưng của làng
nghề tái chế sắt thép, cùng với đó là cơ sở hạ tầng còn kém quy trình sản xuất còn
thủ công, chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung hay công nghệ xử lý còn lạc hậu,
chưa được đầu tư đúng mức Nên nước thải phát sinh từ làng nghề gây ảnh hưởng vô
cùng to lớn đến sức khỏe của con người và môi trường.
Từ các vấn đề thực tế trên, dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Nguyễn Văn Dung, tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá ảnh hưởng của hoạt động làng nghề Đa Hội
phường Châu Khê, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đến chất lượng nước”


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

2. Mục đích và yêu cầu nghiên cứu của đề tài
2.1 Mục đích:
 Đánh giá ảnh hưởng của hoạt động phát triển làng nghề Đa Hội, phường Châu
Khê, huyện Từ Sơn – tỉnh Bắc Ninh đến chất lượng nước.
 Đề xuất biện pháp giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ và quản lý chất lượng nước của
làng nghề.
2.2 Yêu cầu:
 Khảo sát và phỏng vấn các chủ cơ sở sản xuất làng nghề.
 Tìm hiểu và thu thập thông tin về làng nghề.
 Lấy mẫu và phân tích mẫu nước đề tài nghiên cứu.

 Đánh giá đúng ảnh hưởng của hoạt động làng nghề đến chất lượng nước.
 Đề xuất giải pháp nhằm quản lý chất lượng nước làng nghề đạt hiệu quả.


















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm và phân loại làng nghề
1.1.1. Khái niệm làng nghề
Khái niệm làng nghề được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Các nhà nghiên cứu đã
đưa ra nhiều quan niệm về làng nghề, dưới đây là một số quan niệm.
Quan niệm thứ nhất: Dựa theo đề tài “Khảo sát một số làng nghề truyền thống
– chính sách và giải pháp” (Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,1996) thì “Làng nghề

là một cộng đồng dân cư, một cộng đồng sản xuất nghề TTCN và nông nghiệp ở
nông thôn”. Theo quan niệm này, làng nghề được hiểu khá đơn giản, xúc tích và
ngắn gọn gồm 3 yếu tố: Là một cộng đồng dân cư, nghề sản xuất TTCN và nông
nghiệp ở nông thôn.
Quan niệm thứ hai: Một số nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm làng nghề kèm
theo tiêu chí cụ thể về lao động và thu nhập. Theo đó “Làng nghề là những làng đã
từng có 50 hộ hoặc từ 1/3 tổng số hộ hay lao động của địa phương trở lên làm nghề
chiếm phần chủ yếu trong tổng thu nhập của họ trong năm” (Đỗ Quang Dũng, 2006).
Hoặc trong dự thảo Nghị định của Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát
triển ngành nghề nông thôn được Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đệ trình
tháng 5 năm 2007 quy định “Làng nghề là thôn ấp, bản có trên 35% số hộ hoặc lao
động tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn và thu nhập từ ngành nghề nông
thôn chiếm trên 50% tổng thu nhập của làng”.Các định nghĩa này đã khắc phục
nhược điểm của quan niệm thứ nhất, quan tâm đến tỷ lệ người làm nghề và thu nhập
từ ngành nghề, nhưng lại cố định tiêu chí xác định làng nghề.
Quan niệm thứ ba: Theo Dương Bá Phương (2001), thì “Làng nghề là làng ở
nông thôn có một (hoặc một số) nghề thủ công tách hẳn khỏi nông nghiệp và kinh
doanh độc lập”. Quan niệm này nêu lên được 2 yếu tố cơ bản cấu thành của làng
nghề là làng và nghề, nêu lên được vấn đề nghề trong làng tách ra khỏi nông nghiệp và
kinh doanh độc lập nên phù hợp với điều kiện mới hơn.
Quan niệm thứ tư: Theo Đặng Kim Chi (2005), có thể hiểu làng nghề “là làng nông
thôn Việt Nam có ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số
lao động và thu nhập so với nghề nông”.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

Có rất nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau khi đề cập đến tiêu chí để một làng ở
nông thôn được coi là một làng nghề. Nhưng nhìn chung, các ý kiến thống nhất ở một số
tiêu chí sau:
Giá trị sản xuất và thu nhập từ phi nông nghiệp ở làng nghề đạt trên 50% so với

tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng nghề trong năm; hoặc doanh thu hàng
năm từ ngành nghề ít nhất đạt trên 300 triệu đồng.
Số hộ và số lao động tham gia thường xuyên hoặc không thường xuyên, trực tiếp
hoặc gián tiếp đối với nghề phi nông nghiệp ở làng ít nhất đạt 30% so với tổng số hộ
hoặc lao động ở làng nghề có ít nhất 300 lao động.
Sản phẩm phi nông nghiệp do làng sản xuất mang tính đặc thù của làng và do
người trong làng tham gia.
Như vậy, làng nghề là làng trong đó có phần lớn dân cư sống bằng các nghề phi
nông nghiệp và thường cùng một nghề chủ yếu.Thu nhập của người dân trong làng phần
lớn từ tiểu thủ công nghiệp. Đây trở thành một lĩnh vực hoạt động độc lập, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng thu nhập của dân cư nông thôn.
1.1.2. Phân loại làng nghề
Làng nghề với những hoạt động và phát triển đã có những tác động tích cực và
tiêu cực đến nền kinh tế, đời sống xã hội và môi trường với những nét đặc thù rất đa
dạng. Vấn đề phát triển và môi trường của các làng nghề hiện nay đang có nhiều bất
cập và đang được chú ý nghiên cứu. Muốn có được những kết quả nghiên cứu xác
thực, đúng đắn và có thể quản lý tốt các làng nghề thì cần có sự nhìn nhận theo nhiều
khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau đối với làng nghề. Bởi vậy, hệ thống phân loại các
làng nghề dựa trên các số liệu thông tin điều tra, khảo sát là cơ sở khoa học cho
nghiên cứu, quản lý hoạt động sản xuất cũng như việc quản lý, bảo vệ môi trường
làng nghề. Cách phân loại làng nghề phổ biến nhất là phân theo loại hình sản xuất,
loại hình sản phẩm. Theo cách này có thể phân thành 6 nhóm ngành sản xuất gồm:
+ Ươm tơ, dệt vải và may đồ da.
+ Chế biến lương thực thực phẩm, dược liệu.
+ Tái chế phế liệu (giấy, nhựa, kim loại…).
+ Thủ công mỹ nghệ, thêu ren.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

+ Vật liệu xây dựng, khai thác và chế tác đá.

+ Nghề khác (mộc gia dụng, cơ khí nhỏ, đóng thuyền, quạt giấy, đan vó, lưới ).
Thủ công mỹ
nghệ
39%
Chế biến
lương thực,
thực phẩm,
chăn nuôi, giết
mổ
20%
Tái chế phế
liếu
4%
Dệt nhuộm,
ươm tơ, thuộc
da
17%
Các nghề khác
15%
Vật liệu xây
dựng, khai
thác đá
5%

Hình 1.1. Phân loại làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất
Nguồn: Tổng cục Môi trường, 2008
Ngoài ra còn có thể phân loại theo quy mô sản xuất (lớn, nhỏ, trung bình),
phân loại theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm, theo lịch sử phát triển, theo mức độ
sử dụng nguyên liệu, theo thị trường tiêu thụ sản phẩm hoặc theo tiềm năng tồn tại
và phát triển

1.2. Cơ sở nghiên cứu thực tiễn làng nghề:
1.2.1. Thực trạng hoạt động làng nghề trên thế giới:
Trên thế giới, từ những năm đầu của thế kỷ XX cũng có một số công trình
nghiên cứu có liên quan đến làng nghề như: “Nhà máy làng xã” của Bành Tử
(1922); “Mô hình sản xuất làng xã” và “Xã hội hóa làng thủ công” của N.H.Noace
(1928). Năm 1964, tổ chức WCCI (World crafts council International - Hội đồng
Quốc tế về nghề thủ công thế giới) được thành lập, hoạt động phi lợi nhuận vì lợi
ích chung của các quốc gia có nghề thủ công truyền thống (Ngô Trà Mai, 2008).
Đối với các nước châu Á, sự phát triển kinh tế làng nghề truyền thống là giải
pháp tích cực cho các vấn đề kinh tế xã hội nông thôn. Thực tế nhiều quốc gia trong
khu vực có những kinh nghiệm hiệu quả trong phát triển làng nghề, điển hình là
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan. Trung Quốc sau thời kỳ cải
cách mở cửa năm 1978, việc thành lập và duy trì Xí nghiệp Hương Trấn, tăng
trưởng với tốc độ 20 - 30 % đã giải quyết được 12 triệu lao động dư thừa ở nông
thôn. Hay Nhật Bản, với sự thành lập “Hiệp hội khôi phục và phát triển làng nghề
truyền thống” là hạt nhân cho sự nghiệp khôi phục và phát triển ngành nghề có tính
truyền thống dựa theo “Luật nghề truyền thống”…(Trần Minh Yến, 2003).
Đối với các làng nghề tái chế sắt thép, ở các nước châu Á như Thái Lan,
Malaysia, Trung Quốc…đã chú trọng tới từ lâu.
Ở Nhật Bản, tuy CNH diễn ra nhanh và phát triển mạnh, song làng nghề vẫn
tồn tại, các nghề thủ công vẫn được mở mang. Họ không những chỉ duy trì và phát
triển các ngành nghề cổ truyền mà còn mở ra một số nghề mới. Đồng thời, Nhật
Bản cũng rất chú trọng đến việc hình thành các xí nghiệp vừa và nhỏ ở thị trấn, thị
tứ ở nông thôn để làm vệ tinh cho những xí nghiệp lớn ở đô thị.
Ngành nghề thủ công truyền thống của Nhật bao gồm: Chế biến lương thực,
thực phẩm, nghề đan lát, nghề dệt chiếu, nghề thủ công mỹ nghệ, nghề dệt lụa, nghề
rèn nông cụ…Đầu thế kỷ XX, Nhật Bản còn 867 nghề thủ công cổ truyền hoạt

động. Năm 1992 đã có 2.640 lượt người của 62 nước trong đó có Trung Quốc,
Malayxia, Anh, Pháp tới thăm làng nghề truyền thống của Nhật. Nổi lên là nghề rèn
là nghề thủ công cổ truyền phát triển ở nhiều làng nghề và thị trấn của Nhật. Thị
Trấn Takeo tỉnh GiFu là một trong những địa phương có nhiều nghề cổ truyền từ
700 – 800 năm, đến nay vẫn tiếp tục hoạt động, hiện nay cả thị trấn có khoảng 200
hộ gia đình với 1000 lao động là thợ thủ công chuyên nghiệp, hằng năm sản xuất ra
9 – 10 triệu nông cụ các loại, với chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Điều đáng chú ý là
công nghệ chế tạo công cụ của Nhật từ thủ công dần dần được hiện đại hóa với các
máy gia công tiến bộ và kỹ thuật tiến tiến
Sau Chiến tranh kết thúc Chính phủ Hàn Quốc đã chú trọng đến công nghiệp
nông thôn, trong đó có ngành nghề thủ công và làng nghề truyền thống. Đây là một
chiến lược quan trọng để phát triển nông thôn. Các mặt hàng được tập trung sản
xuất là: Hàng thủ công mỹ nghệ, hàng truyền thống công nghiệp phục vụ du lịch và
xuất khẩu, đồng thời tập trung chế biến lương thực, thực phẩm theo công nghệ cổ
truyền. Chương trình này tập trung vào các nghề sử dụng lao động thủ công, công
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

nghệ đơn giản và nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương, sản xuất quy mô nhỏ với
khoảng 10 hộ gia đình liên kết với nhau thành tổ hợp tác được ngân hàng cung cấp
vốn tín dụng với lãi xuất thấp để mua nguyên liệu sản xuất và cả tiêu thụ sản phẩm.
Phát triển ngành nghề thủ công truyền thống cũng được triển khai rộng khắp từ
những năm 1970 đến 1980, đã xuất hiện 908 xưởng thủ công dân tộc chiếm 2,9%
các xí nghiệp vừa và nhỏ, thu hút 23.000 lao động, hoạt động theo hình thức sản
xuất tại gia là chính. Đây là loại hoạt hình nông thôn với 79,4% dựa vào các hộ gia
đình riêng biệt, sử dụng nguyên vật liệu địa phương và bí quyết truyền thống. Để
phát triển công nghiệp thủ công truyền thống Chính phủ đã thành lập 95 hãng
thương mại về những mặt hàng này (Đặng Ngọc Vinh, 2009).
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực, phát triển làng nghề còn tồn tại những
mặt tiêu cực, đặc biệt là làng nghề làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, …

Tình trạng ô nhiễm đã xảy ra ở hầu hết các làng nghề trên thế giới và cần thiết phải
có các biện pháp quản lý, khắc phục. Đặc biệt, “việc sử dụng cộng đồng như những
nhà quản lý môi trường không chính thức và tính cộng đồng là công cụ bảo vệ môi
trường đã được thực hiện thành công ở một số nước trong khu vực và thế giới bằng
các hình thức khác nhau” (Đặng Đình Long, 2005). Cũng theo Đặng Đình Long,
các nghiên cứu của World Bank đã chứng minh rằng, “dựa trên sức ép của cộng
đồng, cộng với việc tăng cường năng lực của các cơ quan quản lý môi trường có
thể cải thiện được lượng phát thải tại các cơ sở gây ô nhiễm”.
Một số quốc gia đã thực hiện thành công cách quản lý này như: Côlômbia,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippin, Bănglađét, Malaysia, Inđônêxia… với phương
pháp cho điểm đơn giản để dân chúng nhận rõ cơ sở nào tuân thủ các tiêu chuẩn
chống ô nhiễm của quốc gia và địa phương, cơ sở nào không tuân thủ. Trung Quốc
đã cho phép tính các loại phí ô nhiễm dựa trên sự thảo luận của cộng đồng. Mức
định giá phí ô nhiễm dựa trên mức độ ô nhiễm, mức dân cư phải hứng chịu hậu quả
của ô nhiễm, mức thu nhập bình quân… Cùng với đó, chính phủ nước này cũng
thường xuyên nâng cao năng lực của cộng đồng trong nhận thức và hành động giải
quyết các vấn đề môi trường địa phương.
Ở Inđônêxia, dưới áp lực của cộng đồng địa phương bằng việc phát đơn kiện
các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm, qua đó chính phủ và các cơ quan kiểm soát ô nhiễm
làm trung gian đứng ra giải quyết, buộc các cơ sở gây ô nhiễm phải đền bù cho cộng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

đồng và có những giải pháp giảm thiểu ô nhiễm (Đặng Đình Long, 2005)…
Như vậy, cần thiết có sự phối hợp giữa Nhà nước và cộng đồng trong quản lý
môi trường cũng như giải quyết xung đột trong vấn đề môi trường. Đây là giải pháp
mang tính bền vững cho sự phát triển của xã hội.
1.2.2. Tình hình phát triển làng nghề tái chế kim loại ở nước ta
1.2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Sự phát triển của các làng nghề tái chế kim loại ở Việt Nam đã trải qua những

giai đoạn khác nhau, gắn với những cung bậc thăng trầm của lịch sử. Đặc biệt, từ khi
đổi mới nền kinh tế 1986 đến nay, dưới tác động to lớn của sự biến đổi nền kinh tế
trong nước cũng như trên toàn thế giới nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật: Các
cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng xanh trong nông nghiệp… giúp cho quá
trình phát triển của các làng nghề thay đổi to lớn, mang lại nhiều thành công nhưng
cũng để lại rất nhiều vấn đề cần giải quyết: kinh tế, xã hội…đặc biệt là vấn đề môi
trường bị ảnh hưởng quá nghiêm trọng trong nhưng năm trở lại đây.
Trải qua nhiều thăng trầm theo chiều dại của lịch sử, các làng nghề tái chế kim
loại cũng như các làng nghề khác có lúc hưng thịnh, nhưng cũng có lúc suy thoái tưởng
trừng như khó khôi phục do bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, bởi chế độ cai trị của thực
dân xâm lược: Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ.
Cho đến năm 2005, cả nước có 2.017 làng nghề dải khắp cả 3 miền Bắc, Trung,
Nam, trong đó tập trung phần lớn ở vùng đồng bằng sông Hồng. Làng nghề tái chế kim
loại chiếm số lượng ít, chỉ vào khoảng 80 -120 làng nghề. Các làng nghề trong cả nước
thu hút hơn 10 triệu lao động, nâng cao thu nhập cho người dân, cải thiện đáng kể đời
sống cho một bộ phận dân cư khu vực nông thôn. Hiện nay, Nhà nước có nhiều chính
sách nhằm khuyến khích làng nghề phát triển, đặc biệt từ khi Hiệp hội làng nghề Việt
Nam được thành lập (2005), đã có nhiều chương trình, chính sách nhằm bảo tồn, thúc
đẩy sự phát triển làng nghề (Dương Đình Giám, 2012).
Tuy nhiên, nhiều làng nghề nói chung và làng nghề tái chế kim loại nói riêng có
nguy cơ lâm vào tình trạng suy thoái do nhiều nguyên nhân khác nhau (do bế tắc về thị
trường, do bị cạnh tranh, do thiếu vốn để cải tiến sản xuất, gây ô nhiễm môi trường…).
Để giải quyết những khó khăn này, cần có cái nhìn tổng quan về làng nghề và gắn với
thực trạng kinh tế xã hội trong nước và thế giới.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9


Hình 1.2: Hiện trạng phân bố làng nghề nước ta
(Tổng cục môi trường, 2008)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

Ngày nay với mạng lưới phân bổ rộng khắp trong cả nước bao gồm trên
40.000 cơ sở sản xuất ở gần 3.000 làng nghề. Riêng làng nghề tái chế kim loại cũng
tăng lên so với trước đây, có khoảng 160 - 200 làng nghề. Nhìn chung các làng nghề
ở Việt Nam đều trên 80% là các hộ cá thể, đang đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế của mỗi địa phương. Bởi ngoài việc tăng thêm thu nhập cho người
dân, các làng nghề còn giải quyết việc làm cho khoảng 20 triệu lao động, trong đó
30% số lao động có việc làm thường xuyên còn lại là lao động thời vụ (TS Dương
Đình Giám, 2012).
Nguyên, vật liệu cho các làng nghề tái chế kim loại chủ yếu được được đi
thu mua lại từ các phế liệu kim loại bỏ đi, một phần cũng phải nhập khẩu từ nước
ngoài, một phần nhỏ lấy từ thiên nhiên. Phần lớn công nghệ và kỹ thuật áp dụng cho
sản xuất trong các làng nghề ở nông thôn còn lạc hậu tính cổ truyền vẫn chưa được
chọn lọc và đầu tư khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm còn thấp, do
đó chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường và giảm sức cạnh tranh. Do hạn chế
về công nghệ và kỹ thuật sản xuất nên các các làng nghề vẫn sử dụng chủ yếu là lao
động thủ công ở hầu hết các công đoạn, kể cả các công đoạn nặng nhọc và độc hại
nhất. Nhiều sản phẩm đặc thù đòi hỏi trình độ kỹ thuật và tính mỹ thuật cao, tay
nghề khéo léo… chủ yếu là các làng nghề truyền thống, sản xuất các sản phẩm thủ
công mỹ nghệ như làng nghề đúc đồng. Riêng về thị trường tiêu thụ sản phẩm thì
trước đây về cơ bản thị trường này nhỏ hẹp tiêu thụ tại chỗ do đó giá thành cũng
thấp. Nhưng hiện nay, thị trường xuất khẩu các mặt hàng truyền thống của Việt
Nam đã mở rộng sang khoảng hơn 100 quốc gia trên thế giới, trong đó có các thị
trường truyền thống như Trung Quốc, Hồng Công, Xingapo, thậm chí cả các thị
trường khó tính như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, EU…Do đó giá trị sản lượng
các làng nghề cùng phát triển nhanh đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên làng nghề hiện nay nói chung đang tồn tại một số bất cập và phải
có các chính sách phù hợp để phát triển, nhất là trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc

tế (Dương Đình Giám, 2012).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

1.2.2.2. Khái quát về làng nghề tái chế kim loại
* Tái chế kim loại: Là hoạt động phân loại các loại kim loại như sắt, đồng,
thép, nhôm…từ dòng thải và sử dụng chúng như nguyên liệu đầu vào để sản xuất ra
các sản phẩm, chất lượng các sản phẩm này có thể kém hơn chất lượng sản phẩm
ban đầu.
* Về quy mô: Các làng nghề tái chế kim loại phần lớn đều có quy mô vừa và
nhỏ (chiếm 72% tổng số cơ sở sản xuất), nằm xen kẽ với khu dân cư, hình thành
chủ yếu trên cơ sở gia đình, kinh nghiệm được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Số lượng công nhân không nhiều, khoảng 6 người/hộ sản xuất và thường có
nguồn thu nhập ổn định, góp phần thúc đẩy kinh tế hộ gia đình.
* Về phân bố các làng nghề: Đa số các làng nghề này nằm ở phía Bắc, công
nghệ sản xuất đang từng bước được cơ khí hóa. Một số tỉnh thành phố tập trung với
số lượng lớn các làng nghề tái chế kim loại: Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam
Định, Bắc Ninh… Làng nghề đúc nhôm Vân Chàng - Nam Định, làng nghề đúc
đồng Phước Kiều - Quang Nam, làng nghề đúc đồng Ngũ Xã - Hà Nội, làng nghề
đúc nhôm Mẫn Xá - Bắc Ninh, làng nghề đúc đồng Đại Bái – Bắc Ninh, làng nghề
tái chế kim loại Đa Hội - Bắc Ninh…(Nguyễn Thị Cẩm Vân, 2013).
* Quy trình tái chế kim loại:

Quy trình này là quy trình chung mà tất cả các làng nghề tái chế kim loại hiện
nay ở Việt Nam đang áp dụng.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

* Tác động tích cực:

- Về mặt kinh tế:
Tái chế kim loại cung cấp nguyên liệu giá rẻ và được xem như là nguồn cung cấp
nguyên liệu đầu vào cho các chu trình tiếp theo.
Giảm chi phí mua nguyên liệu.
Giảm chi phí xử lý chất thải, hạ được giá thành sản phẩm.
Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương nói chung và của gia đình nói
riêng.
- Về mặt xã hội:
Giải quyết công an việc làm, tạo thu nhập cho người lao động nông thôn.
Tăng thêm thu nhập khi những lúc nông nhàn.
Ổn định xã hội, hạn chế được những tệ nạn xã hội.
Giữ gìn được nét truyền thống văn hóa của làng nghề.
* Về hiện trạng hoạt động của các làng nghề tái chế kim loại: Hầu hết các làng
nghề tái chế kim loại ở nước ta hiện nay đều có quy trình tái chế tương đối đơn
giản, dễ vận hành, hoàn toàn bằng thủ công. Họ thu mua các phế thải như thép vụn,
phế liệu do máy móc, dụng cụ sắt bị hư hỏng, vật dụng gia đình…tái chế thành sản
phẩm mới theo sự đặt hàng của người mua.
Đặc thù của các làng nghề công nghệ sản xuất và thiết bị ở các làng nghề phần lớn
lạc hậu, chắp vá. Thiết bị phần lớn là đơn giản, không đảm bảo được yêu cầu kỹ thuật,
an toàn và vệ sinh môi trường. Thường sử dụng các nhiện liệu rẻ tiền, hóa chất độc hại
(kể cả đã cấm sử dụng) để hạ giá thành sản phẩm. Tuy lượng chất thải của làng nghề
loại này không lớn nhưng chứa nhiều thành phần độc hại. Ô nhiễm đáng quan tâm
nhất là ô nhiễm không khí và nước.
Trình độ người lao động ở các làng nghề, chủ yếu là lao động thủ công, văn hóa
thấp, số lao động chỉ tốt nghiệp cấp I, II chiếm trên 60%. Kiến thức tay nghề không
toàn diện dẫn tới tiêu hao nhiều nguyên liệu, làm tăng phát thải nhiều chất ô nhiễm
môi trường nước, đất, không khí, ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm và chất lượng
môi trường.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13


1.2.2.3. Các vấn đề trong môi trường làng nghề tái chế kim loại:
Vấn đề ô nhiễm tại làng nghề tái chế kim loại hiện nay đang là một trong những
vấn đề nóng của xã hội. Các làng nghề hầu hết chưa đi vào quy hoạch cụm công
nghiệp làng nghề, mà vẫn chủ yếu sản xuất kinh doanh tại hộ gia đình. Công nghệ
sản xuất còn lạc hậu, các biện pháp bảo vệ môi trường và sức khỏe cho người lao
động và những người xung quanh còn rất hạn chế.
• Ô nhiễm nước thải:
- Nước làm mát các thiết bị máy móc.
- Nước làm nguội sản phẩm trong quá trình đúc.
- Vệ sinh thiết bị, mặt bằng nhà xưởng.
Nước sẽ cuốn theo các tạp chất bẩn còn trong máy móc như các hóa chất, muối
acid, muối kim loại, cyanua, các kim loại nặng như thủy ngân, kẽm, sắt, crom,
niken…dầu mỡ công nghiệp, chất rắn lơ lửng trực tiếp chảy ra cống xả rồi xả ra các
ao, hồ, sông, cánh đồng…của làng nghề mà không qua bất kỳ hệ thống xử lý nào.
• Ô nhiễm môi trường không khí:
- Quá trình vận chuyển nguyên liệu tới làng nghề: Bụi phát sinh từ khói thải của
xe chuyên chở. Ngoài ra còn một phần bụi bám trên bề mặt kim loại do chứa các tạp
chất đá…cũng phát tán vào môi trường không khí.
- Gia công sơ bộ, tẩy gỉ: Phát sinh một lượng lớn bụi, bụi chứa kim loại nặng và
bụi của vật liệu độc hại
- Quá trình nấu: Người ta thường sử dụng than, củi, dầu FO,DO gây ô nhiễm
CO
2
, SO
2
, NO
x
, chất hữu cơ bay hơi (hơi axit, kiềm, oxit kim loại PbO, ZnO,
Al

2
O
3
, Fe
x
O
y
, khí độc…)
Ngoài ra còn gây ô nhiễm đất, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm nhiệt, ô nhiễm mùi…
Các vấn đề ô nhiễm môi trường đã ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống của những
người sản xuất và người xung quanh, cần có những biện pháp, cách thức quản lý
của nhà nước nhằm hạn chế mức thấp nhất việc ô nhiễm môi tại các làng nghề như
hiện nay (Đặng Kim Chi, 2005).
Làng nghề Đông Mai xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên là làng nghề
đúc đồng từ xưa nhưng chuyển sang tái chế pin, bình ắc-quy hỏng từ những năm
1970 đến nay.

Đông Mai có tới 200 hộ làm nghề tái chế chì. “Pin và bình ắc-quy cũ
sau khi thu gom về sẽ được tháo rút phần axít còn sót rồi phá dỡ để lấy các tấm chì.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

Số chì này được đưa vào lò nung để loại bỏ tạp chất và đổ thành thỏi. Bước cuối
cùng là quét bột khói để tạo màu phấn phía ngoài các thỏi chì rồi bán. lượng axít
còn sót được súc rửa và đổ thẳng ra cống rãnh, ao hồ, đường sá. Vỏ bình ắc-quy
nhựa màu trắng được nghiền và bán cho cơ sở tái chế; còn vỏ đen thì bỏ chất đống.
Bầu không khí ở làng nghề này luôn ngợp trong khói bụi. Những ngày nắng nóng,
bụi chì và nước axít tồn đọng bốc mùi khét lẹt; khi trời đổ mưa thì chất thải chảy
lênh láng khắp nơi, đọng đầy các ao hồ rồi ngấm vào lòng đất. Trong quá trình nấu
chì, một lượng khói, bụi, xỉ không qua bất cứ công đoạn xử lý nào được thải trực

tiếp ra môi trường. Công nhân làm việc trong các lò nấu chì không hề được trang bị
đồ bảo hộ lao động. Đi làm về, áo quần của họ dính đầy bụi chì và hóa chất, vô tình
trở thành nguồn nhiễm độc cho chính bản thân và những người trong gia đình.
Nhiều năm nay, Đông Mai được xem là 1 trong 4 làng nghề gây ô nhiễm môi
trường trầm trọng nhất tỉnh Hưng Yên. Có thời điểm, hơn 50% người dân của thôn
bị bệnh đường ruột, đau dạ dày; 30% mắc bệnh đường hô hấp, đau mắt; 100%
người trực tiếp nấu chì bị nhiễm độc. Cách đây 10 năm, thôn đã có hơn 40 người bị
teo cơ, bại não, bại liệt, mù bẩm sinh do ảnh hưởng của bụi và khói chì. Theo Quyết
định 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đến hết năm 2007, Đông Mai
phải hoàn tất việc xử lý ô nhiễm môi trường, di dời các hộ, cơ sở sản xuất ra khỏi
khu dân cư. Đến năm 2011, tỉnh Hưng Yên đã phê duyệt dự án xây dựng cụm công
nghiệp Đông Mai rộng 21 ha, cách khu dân cư trên 1 km để tập trung các cơ sở tái
chế kim loại độc hại. Tuy nhiên, hiện rất nhiều cơ sở tái chế chì trong khu dân cư
vẫn chưa chịu di dời. Báo cáo mới nhất của Viện Sức khỏe nghề nghiệp và Môi
trường cho thấy kết quả đáng báo động: Có đến 97% trong tổng số 500 trẻ tại thôn
Đông Mai được làm xét nghiệm nhanh có kết quả phơi nhiễm chì. Hầu hết các trẻ
này đều có hàm lượng chì trong máu vượt ngưỡng 3-7 lần. Trẻ em vì nhiễm chì
nặng nên bị còi cọc, chậm phát triển trí não…và ngày càng nhiều người chết vì căn
bệnh ung thư (Văn Duẩn, Ngọ Dung, 2014).
Xã Đại Đồng nằm ở phía Đông Bắc của huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên có Thôn
Lộng Thượng trong xã có nghề đúc đồng truyền thống, và thôn Xuân Phao và Văn ổ có
nghề tái chế kẽm. Sự tích luỹ kim loại nặng trong đất nông nghiệp và nước ngầm của
xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên là điều tất yếu sảy ra (Hồ Thị Lam Trà,
2006).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

Bảng 1.1: Hàm lượng một số kim loại nặng trong đất nông nghiệp
Xã Đại Đồng - Huyện Văn Lâm – Tỉnh Hưng Yên
Đơn vị tính: mg/kg đất

Mẫu Địa điểm lấy mẫu Cd Cu Pb Zn
1 Thôn Văn ổ 1,71 31,2 51,2 58,2
2 Thôn Văn ổ 1,71 49,1 68,8 152,1
3 Thôn Văn ổ 1,93 48,4 51,3 160,2
4 Thôn Văn ổ 2,08 61,2 99,1 329,9
5 Thôn Xuân Phao 1,57 48,2 121,5 116,1
6 Thôn Xuân Phao 1,28 180,2 313,0 287,7
7 Thôn Lộng Thượng 1,85 169,0 225,5 166,1
8 Thôn Lộng Thượng 2,19 238,7 263,3 206,1
9 Thôn Lộng Thượng 1,13 79,0 126,5 144,2
10 Thôn Lộng Thượng 1,42 28,3 73,9 174,1
11 Thôn Đông Xá 1,35 64,6 64,6 92,2
12 Thôn Đông Xá 1,06 40,5 59,5 96,3
13 Thôn Đình Tổ 1,42 30,3 64,7 102,2
14 Thôn Đình Tổ 2,00 38,5 54,7 114,0
15 Thôn Đình Tổ 0,92 34,8 50,6 92,1
16 Thôn Đại Từ 1,64 35,6 57,6 166,0
17 Thôn Đại Từ 1,28 33,2 61,2 102,3
18 Thôn Đại Từ 1,13 56,2 59,4 116,1
19 Thôn Đại Từ 1,28 57,1 64,3 98,0
20 Thôn Đại Bi 1,86 56,0 65,4 92,1

Đất nông nghiệp của xã đã có biểu hiện ô nhiễm kim loại nặng và mức độ ô
nhiễm của các nguyên tố khác nhau thì không giống nhau. Trong 20 mẫu nghiên
cứu về sự ô nhiễm kim loại nặng của xã chúng tôi nhận thấy có 9 mẫu đã bị ô nhiễm
Cu, 3 trên bốn mẫu bị ô nhiễm Cu đều thuộc khu vực chịu ảnh hưởng của làng nghề
chuyên sản xuất các mặt hàng về đồ đồng dân dụng (Lộng Thượng), và một mẫu ở
làng nghề tái chế kẽm (Xuân Phao). Ba mẫu ô nhiễm Zn đều nằm ở các làng nghề
tái chế kẽm (Văn ổ và Xuân Phao) và làng nghề đúc đồng (Lộng Thượng). Sự tích
luỹ Pb ở khu vực làng nghề là rất lớn có 7 mẫu trong khu vực nghiên cứu có hàm

lượng Pb cao hơn tiêu chuẩn Việt Nam. Cá biệt có 2 mẫu chịu ảnh hưởng của làng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

nghề đúc đồng có hàm lượng Pb trên 200 mg/kg và 1 mẫu chịu ảnh hưởng của làng
nghề tái chế kẽm có hàm lượng Pb trên 300 mg/kg.
Điều tra về tình hình sản xuất của làng nghề đúc đồng tác giả Hồ Thị Lam Trà
thấy có hơn 70% các hộ trong làng làm nghề đúc đồng. Quy trình sản xuất của các
hộ mang tính thủ công, các mảnh vụn của đồng, nước rửa, khuôn đúc đồng được
thải trực tiếp vào môi trường. Trong làng không có hộ nào xử lý rác thải, nước thải.
Nước thải được đổ và dẫn trực tiếp ra các mương thoát nước rồi chảy ra các cánh
đồng lúa lân cận. Kết quả phân tích Cd, Cu, Pb và Zn được thể hiện ở phần kết quả
nghiên cứu chứng minh được rằng: quá trình sản xuất này đã gây ra sự tích đọng
một hàm lượng lớn về Cd, Cu, Pb và Zn. Sự ô nhiễm Cu, Pb và Zn ở mức độ khá
cao.
Hiện tại ở hai làng nghề tái chế kẽm (Văn ổ và Xuân Phao) không còn nhiều hộ dân
làm nghề này do gần đây nguồn nguyên liệu bị khan hiếm, tuy nhiên do trước kia,
trong thời gian dài, quá trình sản xuất là thủ công và không có ý thức trong việc thu
gom phế liệu nên đất nông nghiệp chịu ảnh hưởng của làng nghề này đã bị tích luỹ
một lượng đáng kể Cd, Cu, Pb và Zn.
Qua quá trình nghiên cứu của tác giả Hồ Thị Lam Trà nhận thấy rằng sự ảnh
hưởng của các làng nghề khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào ngành nghề sản
xuất, thời gian và quy mô hoạt động của làng nghề mà ảnh hưởng đến chất lượng
môi trường theo các mức độ khác nhau. Nhìn chung hầu như tất cả các làng nghề
đều ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng môi trường. Sau đây là bảng số liệu kết quả
hàm lượng một số kim loại nặng mà tác giả Hồ Thị Lam Trà nghiên cứu tại Đại
Đồng – Văn Lâm –
Hưng Yên.

×