Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Ảnh hưởng của siêu dự án cao tốc bắc nam đến con số GDP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.55 KB, 5 trang )


TỪ SIÊU DỰ ÁN ĐƯỜNG SẮT CAO TỐC ĐẾN CON SỐ GDP

Tô Văn Trường – Bùi Trinh
GS Phạm Phụ (nguyên là đại biểu Quốc hội) một nhà giáo rất tâm huyết với
ngành giáo dục, am hiểu về phân tích kinh tế dự án đầu tư sau khi đọc các thông tin
tranh luận về siêu dự án đường sắt cao tốc Bắc- Nam đã trao đổi với chúng tôi đại ý
như sau:
Dự án đầu tư lớn đến 56 tỷ đô la nhưng thông tin về hiệu quả kinh tế còn rất
mơ hồ. Qua báo “Tuổi trẻ” ngày 21/5 vừa qua, người dân được biết ông bộ trưởng bộ
giao thông vận tải Hồ Nghĩa Dũng đã nói: Đây là một “dự án cần thiết” và “Thuần
hiệu quả kinh tế thì không cao nhưng nếu xét hiệu quả kinh tế xã hội và tài chính thì
Dự án có khả năng lấy thu bù chi, hoàn trả được vốn…” Vế thứ hai này, thực khó
hiểu, có lẽ ngay cả với người có hiểu biết ít nhiều về “Phân tích kinh tế dự án đầu tư”.
Nhưng dù sao, người đọc cũng cảm nhận được, “hiệu quả kinh tế của Dự án là không
cao”. Điều đó cũng đã được thể hiện phần nào qua “hiệu quả tài chính” rất thấp của
Dự án, “Chỉ số nội hoàn tài chính (FIRR) chỉ đạt 2,4 – 3,0%” (Cũng do đó, “thời gian
hoàn vốn nhanh nhất là 45 năm”!). GS Phạm Phụ phải giật mình, còn chúng tôi nổi da
gà vì thông tin này bởi vì đây là con số còn thấp hơn rất nhiều so với “Suất thu lợi
tối thiểu chấp nhận được”, có lẽ phải khoảng 8%, nếu tính theo USD.
GS được giải Nobel kinh tế 1979, T. W. Schultz cho rằng: Đầu tư là tối ưu cho
một quốc gia khi hiệu quả đầu tư cho các lĩnh vực là bằng nhau. Mà theo Ngân hàng
thế giới (WB – 2008), “Suất thu lợi” (RR) trong đầu tư cho giáo dục đại học của
những nước có thu nhập trung bình (GDP/đn = 755 ÷ 9625 USD) là “RR xã hội” ≈
11,3% và “RR cá nhân” ≈ 19,3%. “RR cá nhân” ở đây gần đúng chính là loại chỉ số
FIRR nói trên của Dự án. Vậy tại sao một đất nước Việt Nam có GDP năm 2009 chỉ
khoảng 100 tỷ USD lại đặt cả 56 tỷ USD để đầu tư vào Dự án đường sắt cao tốc với
FIRR = 2,4 – 3,0% mà lại không thể bớt ra, ví dụ khoảng 1/10 con số đó (với phương
án có vốn đầu tư ít hơn), nghĩa là chỉ khoảng 5 – 6 tỷ USD, để đầu tư thêm cho giáo
dục đại học RR có thể lên đến 19,3%? Câu hỏi này xin dành cho những người có
trách nhiệm quản lý đất nước trả lời.


Lâu nay, nhiều người thường đánh đồng ý niệm tăng trưởng kinh tế với tăng
trưởng GDP, điều này là sai lầm về nhận thức. Bởi vì, có thể GDP tăng vọt nhờ vào
thiên tai, lãng phí, tham nhũng, nhờ những công trình mà sau khi xây dựng xong,
người ta không biết phải dùng vào việc gì. Robert Kennedy đã từng nói “ Trong GDP
có cả ô nhiễm môi trường và quảng cáo thuốc lá… Nó tính cả những ổ khoá của cửa
nhà chúng ta, và cả những nhà tù cho những ai phá khoá. Nó tăng cùng với việc sản
xuất bom napan, tên lửa và đầu đạn hạt nhân…Và nếu GDP bao gồm tất cả những
thứ này, thì lại có rất nhiều thứ khác nó không tính tới như tình cảm của con người, vẻ
đẹp của thi ca…”.
Chỉ tiêu GDP được tính toán như thế nào ở Việt nam?
Chỉ tiêu GDP ngày nay được nhắc đến nhiều trong các phương tiện thông tin
đai chúng và trong các báo cáo thành tích cuối năm. GDP tăng trưởng cao thường gắn
liền với sự hãnh tiến, còn khi GDP tăng trưởng thấp lại là một nỗi lo âu.
GDP chỉ là một chỉ tiêu rất sơ cấp trong Hệ thống các tài khoản quốc gia của
Liên Hiệp Quốc (System of National accounts-SNA) được các nhà kinh tế hàng đầu
thế giới đứng đầu là Richard Stone (Nobel 1984) đưa ra. Hệ thống này đã tập hợp một
cách hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng nhằm mô tả, phân tích các hiện
tượng kinh tế cơ bản. Hệ thống SNA mô tả quá trình chu chuyển sản phẩm và tiền tệ
trong một quốc gia, nó là một tập hợp đây đủ, phù hợp và linh hoạt các chỉ tiêu kinh tế
vĩ mô. Các chỉ tiêu này được xây dựng trên các khái niêm, định nghĩa và quy tắc
chuẩn mực được thừa nhận trên phạm vi toàn thế giới. Hệ thống SNA phục vụ nhiều
mục đích khác nhau, trong đó mục đích cơ bản là cung cấp thông tin để phân tích và
hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô làm cơ sở cho các nhà quản lý và lãnh đạo các
cấp giám sát, nghiên cứu, điều hành và ứng xử với nền kinh tế
Từ năm 1954-1975 đất nước Việt Nam chia làm 2 miền thuộc 2 chế độ chính
trị khác nhau. Ở miền Bắc, ngành Thống kê áp dụng phương pháp luận của “Hệ thống
các bảng cân đối vật chất-MPS”. Ở miền Nam, Viện thống kê thuộc chính quyền Sài
gòn áp dụng “Hệ thống các tài khoản quốc gia-SNA”. Thời kỳ 1976-1988 đất nước
thống nhất, ngành Thống kê áp dụng MPS cho phạm vi cả nước. Từ 1989 đến nay,
đặc biệt ngày 25 tháng 12 năm 1992, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 183/TTg về

việc chính thức áp dụng hệ thống SNA trên phạm vi cả nước thay cho hệ thống MPS
trước đây.
Trong SNA bao gồm các phân tổ như ngành kinh tế (ISIC), ngành sản phẩm
(CPC) trong S.U.T và I-O. Các khu vực thể chế như khu vực hộ gia đình, khu vực tài
chính, khu vực phi tài chính, khu vực Chính phủ và khu vực nước ngoài. Tuy nhiên,
tuỳ theo nghiên cứu có thể gộp vào hoặc chia ra thành những khu vực thể chế khác
nhau như chia ra khu vực hộ gia đình, khu vực doanh nghiệp (nhà nước, ngoài nhà
nước và đầu tư nước ngoài), khu vực chính phủ và nước ngoài.
Ma trận hạch toán xã hội (SAM) hoặc các mô hình mở rộng từ mô hình I-O
khác là sự kết hợp giữa các loại phân tổ nhằm mô tả luồng chu chuyển sản phẩm và
tiền tệ của một quốc gia. Ma trận hạch toán xã hội cũng như các tài khoản khác trong
hệ thống tài khoản quốc gia đều có thể tính toán được các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như
GDP, NDI và tiết kiệm.
Trong SNA, 1993 bao gồm các tài khoản và các chỉ tiêu cân đối như : Tài
khoản sản xuất và tài khoản tạo thu nhập. Hai tài khoản này được mô tả chi tiết bằng
bảng Nguồn và Sử dụng (Supply and Use tables) và bảng I-O; chỉ tiêu cân đối là GDP.
Ngoài ra, còn có Tài khoản thu nhập và phân phối thu nhập. Ba tài khoản này cũng có
thể được miêu tả bằng ma trận như ma trân hạch toán xã hội (SAM); các chỉ tiêu cân
đối là tổng sản phẩm trong nước (GDP), thu nhập quốc gia (GNI), thu nhập quốc gia
khả dụng (NDI) và để dành (Saving) của các khu vực thể chế.
GDP = Tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình + tiêu dùng cuối cùng của nhà nước +
tích luỹ tài sản + xuất khẩu - nhập khẩu (phương pháp sử dụng cuối cùng) = tổng thu
nhập của người lao động từ sản xuất + tổng thăng dư sản xuất + tổng khấu hao tài sản
cố định + tổng thuế gián thu và thuế sản xuất khác + thuế nhập khẩu - Trừ trợ cấp cho
sản xuất (phương pháp phân phối) = Tổng giá trị sản xuất - tổng chi phí trung gian +
thuế nhập khẩu (phương pháp sản xuất)
GNI = GDP + thu nhập từ sở hữu thuần
NDI = GNI + thu nhập từ chuyển nhượng hiện hành thuần
Để dành = NDI – Tiêu dùng cuối cùng
Hiện nay, cơ quan Thống kê Việt Nam tính toán GDP từ phía cung, tức là cộng

tất cả giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế và thuế gián thu (Trừ trợ cấp, trợ giá) và
hầu hết các nhà Thống kê cho rằng đó cũng là ý nghĩa của GDP. Như vậy, GDP theo
tổng cầu cuối cùng chỉ được sử dụng như một sự đối chiếu với phía cung. Cách làm
này, có thể được hiểu trong tư tưởng vẫn mang nặng theo lối sũy nghĩ về chỉ tiêu
“Thu nhập quốc dân” trong Hệ thống “Cân đối vật chất – MPS” trước đây.
Từ cách tư duy này dẫn đến những phương pháp và khái niệm không đồng bộ
trong các bộ phận chuyên ngành của cơ quan Thống kê. Ví dụ: Giá trị sản xuất công
nghiệp của các doanh nghiệp làm gia công như dệt may, giầy da chỉ tính phần gia
công, trong khi xuất khẩu lại tính cả giá trị sản phẩm. Như vậy, về mặt kỹ thuật
không thể cân đối vĩ mô nền kinh tế và thành tích xuất khẩu cũng chẳng còn ý nghĩa.
Hơn nữa, khi cân đối nguồn và sử dụng GDP, phía sử dụng (demand size) bao gồm
tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình như chi tiêu từ nguồn chính thức và từ nguồn thu
không chính thức của người dân. Trong khi đó, phía cung nguồn thu không chính thức
không được tính vào tổng giá trị tăng thêm. Như vậy, tất nhiên sự sai số giữa nguồn và
sử dụng sẽ bị dồn vào tích lũy, nhưng càng ngày tỷ lệ tích lũy tài sản/ Vốn đầu tư
càng thấp đi. Hiện tượng này rất khó lý giải về độ chính xác của số liệu.
CÂN ĐỐI SỬ DỤNG TỔNG SẢN PHẨM TRONG NƯỚC
Theo giá thực tế
Đơn vị tính: Tỷ đồng

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
GDP (tính t
ừ phía
Cung)

441.646


481.295


535.762

613.443

715.307



839.211

974.265

1.143.715

1.477.717

1.645.481
1. Tích luỹ tài sản

130.771


150.033

177.983

217.434

253.686



298.543

358.629

493.300 589.746

632.326
TSCĐ

122.101


140.301

166.828

204.608

237.868


275.841

324.949

437.702 513.987

572.526
TSLĐ


8.670

9.732

11.155

12.826

15.818

22.702

33.680

55.598 75.759

59.800
2. Tiêu dùng cuối
cùng

321.853


342.607

382.137

445.221


511.221


584.793

675.916

809.862 1.084.876

1.206.818
Nhà nước

28.346

30.463

33.390

38.770

45.715

51.652

58.734

69.247 90.904

104.540
Hộ gia đình


293.507


312.144

348.747

406.451

465.506


533.141

617.182

740.615 993.972

1.102.279
3. Xuất khẩu

249.049


262.846

304.262

363.735


470.216


579.339

717.109

879.461 1.157.178

1.132.688
4. Nhập khẩu

259.927


273.828

331.946

415.023

524.216


614.427

761.547

1.060.763


1.383.006

1.304.350
5. Chênh lệch xuất
nhập khẩu
-10.878 -10.982 -27.684 -51.288 -54.000 -35.088 -44.438 -181.302 -225.827 -171.663
6. Sai số -100 -363 3.326 2.076 4.400 -9.037 -15.842 21.855 28.922 -22.000
Sai số/GDP -0,02 -0,08 0,62 0,34 0,62 -1,08 -1,63 1,91 1,96 -1,34
Nguồn: Tổng Cục Thống kê
Ngay như về phía cung bao gồm các yếu tố rất cơ bản của nền kinh tế như lao động
(L) và vốn tư bản (K), đặc biệt là chỉ tiêu vốn cũng không được cơ quan Thông kê tính
đến.
Định nghĩa tổng quát nhất về đầu tư: “Đầu tư là phần sản lượng được tích lũy
nhằm tăng năng lực sản xuất tương lai của nền kinh tế” . Vốn (hay tư bản – capital
stock) tại một thời điểm nào đó được định nghĩa băng giá trị tổng các đầu tư qua các
năm, tính đến thời điểm đó trừ đi phần hao mòn tài sản cố định lũy kế. Theo quốc tế
để tính toán giá trị vốn tại thời điểm nào đó nguời ta cộng tất cả các đầu tư trước đó,
rồi trừ đi khấu hao tài sản cố định hàng năm. Phương pháp thứ 2 để xác định giá trị
của vốn tại một thời điểm nào đó người ta căn cứ vào giá thị trường hiên tại của khối
lượng vốn này. Xin lưu ý, phương pháp thứ 2 là rất khó thưc hiện bởi muốn xác định
cần phải có tông điều tra (kiểm kê) tài sản trên phạm vi toàn quốc.
Hai ý niệm cơ bản trên hoàn toàn xa lạ với Việt Nam. Hiện nay, cơ quan thông
kê Việt nam có chỉ tiêu “Vốn đầu tư ” thực chất chỉ tiêu này không phải vốn cũng
không hoàn toàn là đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tài sản trên “Vốn đầu tư” được thể hiện
trong bảng sau
Vốn đầu tư và tích lũy tài sản

( Theo gía 1994)
Tỷ đồng



Nguồn: Niên giám thống kê
Tốc độ tăng trưởng GDP thường được tính từ GDP theo giá so sánh. Chuyển
GDP từ giá thực tế về giá so sánh là một vấn đề rất phức tạp. Việt Nam tính GDP từ
phương pháp sản xuất (là cơ bản) việc tính chuyển GDP về giá so sánh theo quốc tế
cần lấy trọng số (quyền số) từ bảng I-O. Điều kỳ lạ, ở chỗ là năm gốc mà Tổng cục
Thông kê chọn lại là những năm không có bảng I-O (giá 94)!?. Bởi vậy, GDP theo giá
so sánh để từ đó tính ra tốc độ tăng trưởng, được tính toán như thế nào vẫn còn là một
câu hỏi lớn?. Vì khuôn khổ của bài viết, chúng tôi chưa đề cập đến chỉ số ICOR (đo
lường số đơn vị đầu tư tính theo % GDP để tạo ra một đơn vị tăng trưởng) cũng là một
nỗi lo về độ tin cậy đằng sau những con số.
Nói tóm lại: Các con số GDP và ICOR nhiều khi làm cho người hoạch định
chính sách phát triển, và ngay cả nhiều vị đại biểu Quốc hội cũng dễ bị ngộ nhận, ảo
tưởng vào số liệu thống kê! Những người làm tư vấn cho các siêu dự án, trong đó có
dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, vì sao biết hiệu quả kinh tế rất thấp, chưa kể đến
các mặt tác động xấu đến môi trường xã hội như phá rừng, di chuyển dân cư
vv…nhưng vẫn ra sức bảo vệ dự án? Lý do đơn giản, chỉ cần Quốc hội “bấm nút”
thông qua chủ trương sẽ có bẫm tiền về khoản “Tư vấn”. Sau này, dù cho dự án có
phải STOP thì tiền tư vấn đã bỏ túi, lại được tiếng là biết lắng nghe các ý kiến phản
biện!? Nếu dự án được xây dựng thì chắc chắn dòng chảy của tiền sẽ càng lớn gấp
bội, còn hậu quả đã có thế hệ tương lai gánh chịu.
Người dân, các nhà khoa học vẫn chưa quên bài học kinh nghiệm về dự án thủy
điện Sơn La. Hồi ấy, bên tư vấn Việt Nam và Liên Xô (cũ) phải chuẩn bị dự án đầu
tư hơn chục năm, trải qua hàng trăm cuộc hội thảo lớn, nhỏ. Khi các thành viên Chính
phủ bỏ phiếu quyết định lựa chọn phương án thì số người ủng hộ phương án Sơn La
thấp chỉ là thiểu số. Tôi được nghe kể lại, trong số hơn 20 thành viên Chính phủ có
mặt khi bỏ phiếu lần ấy, chỉ có 1 người bỏ phiếu phương án Sơn La thấp, 1 người bỏ
phiếu trắng, còn lại tất cả chọn phương án Sơn La cao. Các nhà khoa học, đặc biệt là
Hội thủy lợi đã quyết liệt bảo vệ quan điểm phương án Sơn La thấp với các luận

chứng khoa học, phân tích sâu về bài toán hệ thống, các yếu tố kinh tế, xã hội, môi
trường và liên hệ với thực tế. Trải qua nhiều lần tranh luận, sau đó, các thành viên của
Chính phủ đã tiếp tục lắng nghe, phân tích và tiếp thu ý kiến của các nhà khoa học,
thay đổi lại quyết định là chọn phương án Sơn La thấp. Bài học đó cho đến nay vẫn
còn nguyên tính thời sự, và người dân không bao giờ quên sự cầu thị biết lắng nghe,
phân tích ý kiến đa chiều để có quyết định đúng đắn của Chính phủ.
Có lẽ chưa có một dự án nào thu hút được sự quan tâm lớn của dư luận như dự
án đường sắt cao tốc Bắc Nam không phải chỉ vì số tiền đầu tư kỷ lục mà ngay cả hậu
quả về kinh tế cũng sẽ là “kỷ lục”! Tuy nhiên, trong bầu không khí dân chủ và cởi mở
hiện nay, chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ XI, người dân kỳ vọng, tin tưởng vào sự
sáng suốt của các vị đại biểu Quốc hội. Vì thế, đông đảo cử tri cả nước muốn được
lắng nghe các ý kiến thảo luận, đặc biệt là kết quả “bấm nút” tại hội trường kèm theo
danh tính của từng đại biểu thì sẽ tốt hơn. Bởi vì chỉ có công khai, sòng phẳng như
thế, chắc chắn sẽ nâng cao rất nhiều trách nhiệm của các vị đại biểu Quốc hội trước
cử tri cả nước.

×