Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Nhân vật anh hùng trong thần thoại, sử thi, truyền thuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (782.7 KB, 79 trang )


1


LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc đến giảng viên
Thạc sỹ Trần Thị Mỹ Hồng - người đã tận tình hướng dẫn, động
viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn Quý thầy cô khoa Khoa học
Xã hội, Quý thầy cô Trường Đại học Quảng Bình đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi để em bồi dưỡng tri thức và hoàn thành khóa
học vừa qua.
Thiết tha bày tỏ lời tri ân sâu sắc đến người mẹ và những
người thân trong gia đình đã luôn quan tâm, yêu thương và tạo
mọi điều kiện cho em học tập. Cảm ơn những người bạn đã góp
ý, trao đổi và động viên em trong quá trình nghiên cứu.
Chân thành cảm ơn!
Tác giả

Đậu Thị Thu













LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép
của ai. Các số liệu, kết quả trong đề tài này là trung thực, chưa từng được công bố
trong các công trình khác. Nội dung đề tài có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông
tin được tăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và các trang wep theo danh mục tài liệu
tham khảo của đề tài này. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả

Đậu Thị Thu


















CÁC KÍ HIỆU DÙNG TRONG KHÓA LUẬN





Kí hiệu Chú giải
[1; Tr 68] Trích dẫn ở tài liệu số 1 trang 68
VHGD Văn học dân gian
NXB Nhà xuất bản
UBKHXH Ủy Ban Khoa học Xã hội
H Hà Nội


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
4. Phương pháp nghiên cứu 8
5. Đóng góp của đề tài 8
6. Cấu trúc của khóa luận 9
PHẦN NỘI DUNG 10
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ MỘT SỐ
THỂ LOẠI TRUYỆN DÂN GIAN 10
1.1.Nhân vật văn học 10
1.1.1. Khái niệm về nhân vật văn học 10
1.1.2. Chức năng của nhân vật văn học 11
1.1.3. Phân loại nhân vật văn học 12
1.2. Đặc trưng các thể loại Thần thoại, Sử thi, Truyền thuyết 14
1.2.1. Thần thoại 14
1.2.2. Truyền thuyết 18

1.2.3. Sử thi 25
CHƯƠNG II: CÁC KIỂU NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG THẦN THOẠI, SỬ
THI, TRUYỀN THUYẾT 31
2.1. Nhân vật anh hùng trong thần thoại, truyền thuyết 31
2.1.1. Kiểu nhân vật anh hùng chinh phục tự nhiên, lao động và sáng tạo văn hóa.
31
2.1.2. Kiểu nhân vật anh hùng chống giặc ngoại xâm 39
2.1.3. Kiểu nhân vật anh hùng nông dân khởi nghĩa 44
2.2. Kiểu nhân vật anh hùng trong sử thi 46
2.2.1. Kiểu nhân vât anh hùng chinh phục tự nhiên và nhân vật anh hùng sáng tạo
văn hóa 46
2.2.2. Kiểu nhân vật anh hùng chiến trận 48


CHƯƠNG III: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG
THẦN THOẠI, SỬ THI, TRUYỀN THUYẾT 56
3.1. Thần thánh hóa nhân vật 56
3.2. Sử dụng yếu tố thần kì 58
3.3. Ngôn ngữ nhân vật 61
3.4. Hành động nhân vật 64
KẾT LUẬN 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73

















1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở bất kì xã hội nào, từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim, dù văn minh hay lạc hậu đều phát
triển dựa trên những giá trị văn hóa truyền thống. Trong đó văn học dân gian (VHDG) là một
bộ phận không kém phần quan trọng. Văn học dân gian vừa là một bộ phận của văn học
dân tộc, vừa là bộ phận nghệ thuật ngôn từ truyền miệng của văn hóa dân gian, phản
ánh sinh hoạt xã hội, đời sống tâm lí, tình cảm, thái độ nguyện vọng, kinh nghiệm mọi
mặt của nhân dân lao động các thế hệ. VHDG ra đời từ thời kì công xã nguyên thủy,
trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp tiếp tục tồn tại
cho tới ngày nay.
Trong văn học dân tộc, VHDG là một bộ phận ra đời sớm. Nó không chỉ là một
bộ phận của văn chương mà còn chính là đời sống, là quan niệm là kinh nghiệm là
tiếng lòng muôn đời của dân gian. Vì vậy vai trò và giá trị của văn học dân gian thật
lớn lao và toàn diện, không chỉ với văn học thành văn mà còn với nhiều nghành khoa
học và văn hóa khác nữa. Mặc dù VHDG có sử dụng nhiều yếu tố hư cấu tưởng tượng,
nhưng cốt lõi của những tư liệu đó vẫn là nguồn sử liệu quý báu, mang dấu ấn văn hóa
lịch sử. Khi chưa có chính sử, nguồn tư liệu VHDG chính là sử liệu duy nhất để tái
hiện lịch sử dân tộc. Khi có chính sử VHDG là nguồn tư liệu hỗ trợ cho chính sử, góp
phần đính chính, sàng lọc các sự kiện lịch sử theo quan điểm của nhân dân, qua đó
hiểu thêm chính sử một cách chính xác và sâu sắc hơn. Văn học viết đã kế thừa rất
nhiều phương diện nghệ thuật từ văn học dân gian. Các nhà thơ, nhà văn vĩ đại luôn

tìm đến VHDG như mạch nguồn vô tận cho sáng tạo của mình. Về phương diện nhân
vật, VHDG đã xây dựng được những nhân vật điển hình đẹp đẽ mang tính biểu tượng
cao, trở thành khuôn mẫu của cái đẹp và cái hùng, trở thành nguồn mạch trong lành vô
tận cho văn học nhiều đời. Những hình tượng An Dương Vương, Thánh Gióng, Đăm
Săn, Khinh Dú, Thạch Sanh,… đã trở thành những nhân vật trở đi trở lại trong nhiều
tác phẩm văn học đời sau. M. Gorki- nhà văn, nhà nghiên cứu văn học Nga đã nhận
xét: “Những tác phẩm ưu tú của các đại thi hào trên thế giới đều bắt nguồn từ trong
cái kho tàng sáng tác tập thể của nhân dân từ thượng cổ vốn đã có được tất cả những
sự khái quát hóa thi ca, tất cả những hình tượng và điển hình kiệt xuất” [1; tr 68].
Chúng ta rất tự hào với truyền thống văn hoá dân tộc mà cha ông bao thế hệ đã
tích tụ và truyền lại. Những tác phẩm văn học dân gian ấy là nơi "Cho tôi nhận mặt

2
ông cha của mình". Kho tàng văn học dân gian thật phong phú và đa dạng nhưng nổi
bật nhất là thể loại truyện thần thoại, sử thi và truyền thuyết. Thần thoại là tập hợp
những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo
văn hóa, phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con
người. Nhân vật trong thần thoại là thần, hầu hết có nguồn gốc từ thiên nhiên. Họ là
“lời giải thích” cho chính nguồn gốc mà họ sinh ra. Nhân vật thần thoại có tầm vóc và
hành động phi thường mang tầm cỡ vũ trụ. Người ta cho rằng tất cả mọi thứ, mọi sự
vật trong thiên nhiên đều có thần, có hồn, có ý thức và có một khả năng phi phàm hơn
hẳn con người. Truyền thuyết là những truyện kể truyền miệng kể lại truyện tích các
nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm
của nhân dân. Tìm hiểu nhân vật truyền thuyết, ta thấy cách xây đựng nhân vật có sự
chuyển biến dần từ thần sang người. Điều này có thể được bắt nguồn từ cách nhìn
nhận về tự nhiên và con người đã có sự thay đổi, bước đầu phát hiện ra bản chất và
khoa học hơn. Còn sử thi là một loại truyện dân gian có tính chất hát kể, xâu chuỗi,
đúc kết các thần thoại, truyền thuyết thành các hệ thống một cách nghệ thuật, sống
động và hấp dẫn, tạo nên bức tranh hoành tráng về lịch sử cộng đồng dân tộc. Nhân
vật chính trong sử thi được xây đựng trên nguyên tắc triệt tiêu tuyệt đối những đặc

điểm cá thể, tính cách cá nhân. Họ chính là hình tượng thể hiện những ước mơ, khát
vọng của cộng đồng, ở họ là sự tập hợp tất cả những gì tốt đẹp nhất, ưu việt nhất. Điều
này thể hiện mơ ước của bộ lạc, bộ tộc có được người đứng đầu người lãnh đạo xứng
đáng để dìu dắt họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và trong đấu tranh chống
lại kẻ thù.
Những nhân vật xuất hiện trong truyện dân gian mang đậm màu sắc thần thánh
hóa, đặc biệt trong đó là các nhân vật anh hùng trong thần thoại, sử thi, truyền thuyết.
Từ thuở hồng hoang, những nhân vật anh hùng xuất hiện một cách tự nhiên nhằm giải
thích tự nhiên, xã hội và ước mơ chinh phục thế giới đó. Trong cuộc đấu tranh chống
giặc ngoại xâm của dân tộc ta, biết bao tấm gương anh hùng dám xả thân vì nghĩa lớn,
cùng với cả dân tộc bảo vệ vững chắc nền độc lập tự do của Tổ quốc đã được nhân dân
khắc cốt, sử sách lưu thơm, được ngàn đời thờ phụng ở các đền, chùa, đình, miếu Việt
Nam. Bằng cách ấy dân tộc ta, từ đời này qua đời khác muốn thể hiện lòng thành kính,
biết ơn đối với công trạng của các vị anh hùng. Họ trở thành Thần ở các làng và nhân
dân tin tưởng sâu sắc rằng các vị thần đó sống mãi ở một thế giới vô hình, và luôn hiện

3
về để phù trợ cho các thế hệ đời sau. Niềm tin ấy trở thành một sức mạnh to lớn khích
lệ cho dân tộc ta chiến thắng mọi kẻ thù, trường tồn mãi mãi. Điều mà truyện cổ dân
gian hấp dẫn và làm say lòng người cho tới tận hôm nay là bởi chính các nhân vật anh
hùng đã làm nên lịch sử, là niềm tự hào của mỗi bản làng, mỗi bộ tộc và mỗi dân tộc.
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Rất nhân hậu vừa tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm…”.
(Lâm Thị Mỹ Dạ - Chuyện cổ nước mình)
Xuất phát từ những điều trên và tình yêu truyện cổ dân gian Việt Nam tha thiết từ
thuở bé thơ qua từng lời kể, bài học của thầy cô. Đặc biệt là các nhân vật anh hùng
trong thần thoại, sử thi, truyền thuyết được lưu danh muôn đời, các nhân vật ấy trở
thành thần tượng với tấm lòng mến mộ của người đọc qua mọi thế hệ. Tất cả những

điều ấy, đã trở thành động lực, thôi thúc người viết chọn đề tài “Nhân vật anh hùng
trong thần thoại, sử thi, truyền thuyết”.
Đây là một đề tài khá mới, người viết không tham vọng gì nhiều, chỉ tìm hiểu các
nhân vật anh hùng trên phương diện nội dung và nghệ thuật để thấy được tính cách
nhân vật trong Truyện dân gian nói chung và trong thể loại thần thoại, sử thi, truyền
thuyết nói riêng. Hiểu thêm giá trị của nền văn học dân gian trong kho tàng văn học
dân tộc Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Lịch sử ngành nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam so với thế giới hãy còn
non trẻ nhưng cũng đã đi được một chặng đường hơn nửa thế kỷ. Viết lịch sử văn học
bao giờ cũng khó, viết lịch sử văn học dân gian lại càng khó khăn hơn. “Văn chương
tự cổ vô bằng cớ”, văn học dân gian lại càng đúng với câu nói này. Sau đây chúng tôi
điểm qua các ý kiến đáng chú ý liên quan trực tiếp đến đề tài trong phạm vi tư liệu bao
quát được:
Trước cách mạng tháng tám (1945) và cho đến những năm kháng chiến lần thứ
nhất (1946 - 1954), ở nước ta chưa có ngành nghiên cứu văn học dân gian và khoa
nghiên cứu văn hóa dân gian với ý nghĩa chính xác và đầy đủ của những thuật ngữ đó,
mặc dù cha ông ta đã để lại những cuốn sách biên soạn từ khá sớm như Việt điện u linh
(thế kỉ XIV), Lĩnh nam chích quái (thế kỷ XV). Từ những năm ba mươi, bốn mươi của

4
thế kỷ này Nguyễn Văn Huyên được xem là nhà nghiên cứu folklore nổi tiếng người
Việt Nam.
Sau 1954, miền Bắc căn bản đã hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ.
Trong khung cảnh ổn định, các nhà nghiên cứu có điều kiện cần thiết để từng bước xây
dựng bộ môn mácxit về văn học dân gian. Từ cuối những năm 50 việc giảng dạy văn
học dân gian một cách có hệ thống đã được tiến hành ở bậc đại học. Đầu những năm
60 các giáo trình về văn học dân gian của các trường đại học sư phạm và trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội được xuất bản. Việc nghiên cứu, sưu tầm, xuất bản văn học dân
gian ngày càng được đẩy mạnh.

Sưu tầm biên soạn truyện cổ dân gian Việt Nam, trước cách mạng tháng 8 năm
1945, Nguyễn Văn Ngọc đã có nhiều đóng góp, sau 1945 người đạt nhiều thành tựu
trong sưu tầm truyện dân gian là Nguyễn Đổng Chi với bộ Kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam (5 tập). So với Nguyễn Văn Ngọc, Vũ Ngọc Phan không phải là người đi
trước. So với bộ sưu tập truyện cổ của Nguyễn Đổng Chi, sưu tập về truyện dân gian
của Vũ Ngọc Phan cũng không đồ sộ bằng. Tuy nhiên công lao của Vũ Ngọc Phan lại
đáng ghi nhận ở chỗ dưới chế độ mới, cuốn sách Truyện cổ Việt Nam (1955), tuy chỉ
có 174 trang do ông biên soạn, đã đóng vai trò mở đầu cho các sưu tập truyện dân gian
của các soạn giả khác xuất bản sau đó.
Với khối lượng các bài báo, tạp chí và sách xuất bản, Bùi Văn Nguyên xứng
đáng được xếp vào hạng các tác gia nghiên cứu folklore Việt Nam. Giáo sư Bùi Văn
Nguyên có những đóng góp tích cực theo nhiều chiều hướng khác nhau của quá trình
nghiên cứu. Điều đó chứng tỏ ông luôn tìm tòi những cái mới không những trên những
vấn đề cụ thể mà còn trên cả bình diện phương pháp luận. Suốt một thời gian dài từ
năm 1969 đến năm 1984, Bùi Văn Nguyên viết một loạt bài báo với khí thế hào hùng
của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa chống giặc ngoại xâm:
- “Hình tượng anh hùng trong truyện dân gian các dân tộc thiểu số miền Bắc”,
1969
- “Việt Nam, nước của Thánh Gióng, truyền thống và hiện đại”, 1976
- “Tinh thần tự cường và bất khuất của dân tộc và ý nghĩa chân thực trong thư
tịch cổ thời Hùng Vương”, 1983
Công trình “Người anh hùng làng Dóng” (1969) là một đỉnh cao trong sự nghiệp
nghiên cứu của Cao Huy Đỉnh, cuốn sách hướng tới chủ đề đánh giặc, giữ nước thắng

5
lợi cũng là chủ đề căn bản xuyên suốt cả lịch sử văn học dân gian Việt Nam. Trong
cuốn sách này, tác giả hướng tới ba mục tiêu:
- Chủ đề đánh giặc, giữ nước thắng lợi là chủ đề căn bản, quán xuyến cả lịch sử
văn học dân gian Việt Nam. Tác giả đã phân tích và nguồn gốc và quá trình phát triển
của chủ đề này ở trong truyện “Ông Gióng” theo sự lớn mạnh của ý thức dân tộc trên

đà đấu tranh để dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
- Theo Cao Huy Đỉnh, về mặt thể loại, truyện “Ông Gióng” tổng hợp cả ba yếu
tố thần thoại, truyền thuyết và anh hùng ca. Vì vậy, người ta đều có lí khi xếp truyện
“Ông Gióng” vào thể loại này hay thể loại khác của văn học dân gian. Nhà nghiên cứu
cố gắng miêu tả quá trình chuyển hóa và tổng hợp của ba yếu tố đó thành thể anh hùng
ca dân gian ở trong truyện kể và thành nghệ thuật diễn xướng ở trong hội Gióng, theo
lí tưởng đạo đức và thẩm mỹ của nhân dân trong điều kiện xã hội và văn hóa nhất định
ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định.
- Tác giả cũng đã tự đặt cho mình nhiệm vụ tìm hiểu cốt truyện “Ông Gióng”
trên cơ sở dựa vào tài liệu thành văn và tài liệu truyền miệng ghi được ở các làng xã
còn vết tích văn hóa, văn học, nghệ thuật và tín ngưỡng có liên quan đến truyện “Ông
Gióng” nói riêng, đến văn học dân gian nói chung.
Ở Việt Nam, người ta biết đến văn bản sử thi anh hùng, kể từ khi có bản dịch
sang tiếng Pháp “Bài ca chàng Đăm Săn” của L.Sabatier năm 1929. Mãi gần 30 năm
sau, đến năm 1959 mới có tiếp một văn bản sử thi anh hùng khác là “Anh hùng ca
Đăm Di” do Antomarchi dịch sang Pháp văn và G.Condominas viết lời giới thiệu. Xét
về mặt thời gian, có thể nói rằng hai bản “Bài ca Đăm Săn” và “Anh hùng ca Đăm Di”
đã nêu ở trên là văn bản về thể loại sử thi anh hùng được giới thiệu vào loại sớm nhất
ở Việt Nam. Đó là những đóng góp đáng được ghi nhận trong tiến trình nghiên cứu
văn học dân gian ở Việt nam. Tháng 5/ 2012, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội và Công ty FAHASA đã chính thức công bố bộ sách “Kho tàng sử
thi Tây Nguyên”, bộ sử thi đồ sộ bậc nhất ở Việt Nam từ trước đến nay. Đây là kết quả
của dự án điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây
Nguyên mà Chính phủ đã giao cho Viện KHXH Việt Nam chủ trì, tiến hành từ năm
2001 đến nay. Sau cuốn sách “Bài ca Đam San” (của L.Sabatier) được xuất bản tại
Pháp từ năm 1927, đây là lần đầu tiên sử thi Tây Nguyên được công bố một cách có hệ
thống, in song ngữ, kèm chân dung nghệ nhân hát kể. Những giá trị của sử thi Đăm

6
Săn là không thể phủ nhận. Vậy mà, nó vẫn không được nhiều nhà nghiên cứu quan

tâm. Những công trình trực tiếp bàn đến Đăm Săn như Sử thi Êđê của Phan Đăng
Nhật, bài giảng thể loại của Hoàng Ngọc Hiến là không nhiều. Còn với các khoá luận
của sinh viên thì dường như Đăm Săn ít có duyên!
Năm 1959, Đào Tử Chí cho xuất bản “Bài ca chàng Đăm Săn”. Trong thời kì đất
nước bị chia cắt, một số cán bộ người Ê Đê tập kết ra bắc cùng Ngọc Anh hoàn thành bản
thảo một số khan Ê Đê và cho xuất bản với nhan đề Trường ca Tây Nguyên vào năm
1963. Sử thi Ê Đê, nhất là sử thi Đăm Săn được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước rất quan tâm. G.Condominas, nhà dân tộc học nổi tiếng người Pháp trong bài
“Những quan sát về xã hội học về hai trường ca Rađê” đã nghiên cứu khía cạnh về
phương diện xã hội học, dân tộc học của tác phẩm Đăm Di và Đăm Săn. Trong bài nghiên
cứu này ông đã nhiệt liệt ca ngợi sử thi Đăm Săn “Người ta không thể nói về văn hóa dân
gian Đông Dương nguyên thủy mà không nói đến một cái đầu đề: Trường ca Đăm Săn.
Bài thơ tuyệt vời này, bài thơ lớn đầu tiên ai cũng biết trong văn học truyền miệng của
các bộ tộc người miền Trung Việt Nam, hiện nay hiển nhiên vẫn là một tuyệt tác” [2; tr
230]. Các nhà nghiên cứu trong nước đã dành sự chú ý và công sức để tìm hiểu Ê Đê.
Chẳng hạn như Chu Xuân Diên có bài “Tìm hiểu giá trị Bài ca Đăm Săn”; Bùi Văn
Nguyên có bài “Vẻ đẹp hùng tráng và nên thơ trong Trường ca Tây Nguyên”; Hoàng
Ngọc hiến có bài “Bài ca chàng Đăm Săn như là một tác phẩm anh hùng ca”; Nguyễn
Văn Hoàn có bài “Giới thiệu sử thi Đăm Săn”. Còn lại các nhà nghiên cứu chủ yếu tìm
hiểu sử thi Ê Đê về phương diện văn học, như các vấn đề về đề tài, nội dung thi pháp. Các
vấn đề thi pháp sử thi Ê Đê giới nghiên cứu đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
So với sử thi Ê Đê, việc phát hiện, sưu tầm, biên soạn và nghiên cứu sử thi Mơ
Nông diễn ra muộn hơn sáu thập kỉ. Tuy việc sưu tầm và suất bản sử thi Mơ Nông được
tiến hành muộn hơn và được thực hiện trong một thời gian ngắn hơn, nhưng kết quả đạt
được về số lượng là rất đáng kể. Trong việc tìm hiểu, nghiên cứu sử thi Mơ Nông, PGS.
TS. Đỗ Hồng Kỳ là người thâm canh và đạt được nhiều kết quả nhất. Năm 1990, trên tạp
chí Văn hóa dân gian, số 3, TS. Đỗ Hồng Kỳ công bố bài “Ôt nrong - sử thi cổ sơ Mơ
Nông”. Năm 1993, trên Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, PGS.TS. Đỗ Hồng Kỳ công bố
bài “Cốt truyện nhân vật trong sử thi nrong của người M’Nông”. Tác giả bàn đến cốt
truyện đơn và cốt truyện liên kết, phân tích đặc điểm của cốt truyện sử thi Ôt nrong, bàn

về sự thể hiện nhân vật trong cốt truyện của sử thi Ôt nrong Năm 1995, ông Đỗ Hồng

7
Kỳ bảo vệ luận án phó tiến sĩ ngữ văn về sử thi Mơ Nông. Năm 1996, nhà xuất bản khoa
học xã hội công bố nội dung luận án với tên sách Sử thi thần thoại M’Nông… Năm 1998,
trên tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, GS.TSKH. Phan Đăng Nhật công bố bài “Ốt –
nroong, một bộ sử thi phổ hệ đồ sộ mới được phát hiện”.
Nếu như trên mảnh đất Tây Nguyên, sử thi Ê Đê được thế giới biết đến từ năm 1927
qua bản dịch tiếng Pháp của L. Sabatier, sử thi Mơ Nông được giới nghiên cứu Việt Nam
biết đến muộn hơn vào cuối những năm 80 của thế kỉ XX thì hơ m’uan Xơ Đăng mà PGS.
TS. Võ Quang Trọng là người đầu tiên xác định là sử thi mới chỉ được phát hiện và sưu
tầm vào thời gian từ cuối năm 2001 đến giữa năm 2002. Trên phương diện nghiên cứu
giới thiệu, ở tạp chí Văn hóa dân gian, số 3 năm 2002, PGS. TS. Võ Quang Trọng công
bố bài “Đăm Giong, phát hiện mới về sử thi của người Xê Đăng ở Kom Tum”. Những
phân tích kĩ hơn về nội dung nghệ thuật của bốn tác phẩm sử thi Xơ Đăng được PGS. TS.
Võ Quang Trọng và ThS. Bùi Ngọc Quang thể hiện trong bốn bài giới thiệu in trong hai
tập sách về sử thi Xơ Đăng (công bố vào năm 2006 - 2007). So với các sử thi Ê Đê, Mơ
Nông, Ba Na, việc sưu tầm xuất bản sử thi Xơ Đăng được tiến hành muộn hơn, số tác
phẩm công bố ít hơn. Còn việc nghiên cứu, giới thiệu nó cũng chưa được tiến hành đầy đủ
và kĩ lưỡng.
Trong các dân tộc thiểu số Việt Nam chỉ có một vài dân tộc được phát hiện là có
sử thi. Ở Tây Nguyên, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã sưu tầm và phát hiện 622
tác phẩm sử thi tại hơn 1.000 buôn, bon, làng, plây của 35 huyện, thị xã, thành phố,
thuộc các dân tộc Êđê, Gia Rai, M'nông, Ba Na, và Chăm hơ roi, Xơ tiêng, Xê đăng,
Cơ ho, Mạ. Năm 2007, một bộ sách Kho tàng sử thi Tây Nguyên đã được xuất bản
gồm 75 tác phẩm, được in trong 62 tập với tổng số 60.400 trang sách. Đây được xem
là bộ sách đồ sộ nhất Việt Nam từ trước đến nay về văn hóa dân gian của Tây Nguyên.
Ta thấy rằng, sử thi vẫn là một “mảnh đất” màu mỡ nhưng còn "hoang hoá" cần
phải được "khai khẩn"! Nói như vậy cũng để khẳng định rằng: Chúng ta cần chú ý hơn
nữa đến những giá trị tinh thần vô giá của dân tộc.

Các công trình nghiên cứu trên đây là những gợi ý quý báu cho chúng tôi trong
việc thực hiện đề tài này. Việc nghiên cứu văn học dân gian và các nhân vật anh hùng
trong truyện cổ đã có nhiều nhà khoa học đề cập đến trên nhiều phương diện khác
nhau song chưa đi sâu vào tìm hiểu các nhân vật anh hùng trong thần thoại, sử thi,

8
truyền thuyết. Khảo cứu chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài này, đây đó cũng
chỉ xét trên một số phương diện nhất định để làm rõ ý tưởng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật anh hùng trong thần thoại, sử thi, truyền thuyết.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung vào khảo cứu các nhân vật anh hùng trong thần thoại, sử thi,
truyền thuyết ở một số tuyển tập truyện cổ dân gian Việt Nam, sử thi dân gian.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
sau:
Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phân tích các nhân vật anh hùng trong truyện
thần thoại, sử thi, truyền thuyết để thấy được các đặc điểm, kiểu nhân vật cũng như
nghệ thuật xây dựng nhân vật từ đó tổng hợp, khái quát lại và đưa ra kết luận chung.
Phương pháp thống kê, phân loại: Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng
phương pháp này để thống kê những ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà nhiên cứu
về vấn đề có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của khóa luận và các dẫn chứng một
cách hệ thống cho khóa luận. Đồng thời sử dụng phương pháp này trong việc khảo cứu
tư liệu, thống kê các nhân vật anh hùng có trong truyện thần thoại, sử thi, truyền thuyết
từ đó phân loại rõ các kiểu nhân vật với từng đặc điểm cụ thể trong từng thể loại văn
học.
Phương pháp hệ thống: Để tìm hiểu các nhân vật anh hùng trong thần thoại, sử
thi, truyền thuyết phải dựa trên hệ thống các đặc điểm phương diện nghệ thuật của
từng thể loại. Phương pháp hệ thống giúp người viết hệ thống hóa thế giới nhân vật

anh hùng trong ba thể loại văn học dân gian thần thoại, sử thi, truyền thuyết.
Phương pháp so sánh: So sánh để thấy được điểm khác biệt giữa nhân vật anh
hùng và các nhân vật anh hùng khác cũng như đặc trưng các nhân vật trong các thể
loại văn học khác nhau.
5. Đóng góp của đề tài
Từ những phương diện của lịch sử vấn đề, khóa luận của chúng tôi có những
đóng góp sau:

9
- Về mặt lí luận, hệ thống lại những vấn đề nghiên cứu các nhân vật anh hùng
trong thần thoại, sử thi, truyền thuyết trong phạm vi tài liệu bao quát. Thống kê và
phân tích nghệ thuật xây dựng các nhân vật anh hùng. Góp thêm tiếng nói mới vào vấn
đề nghiên cứu nhân vật văn học nói chung và nhân vật anh hùng trong truyện thần
thoại, sử thi, truyền thuyết nói riêng.
- Về mặt thực tiễn, đề tài là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên học tập,
nghiên cứu giúp cho các giáo viên vận dụng vào việc giảng dạy văn học dân gian
trong việc phân tích các nhân vật anh hùng.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận gồm có
ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về nhân vật văn học và một số thể loại truyện
dân gian.
Chương 2: Các kiểu nhân vật anh hùng trong thần thoại, sử thi, truyền thuyết
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật anh hùng trong thần thoại, sử thi,
truyền thuyết.













10
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ MỘT SỐ THỂ
LOẠI TRUYỆN DÂN GIAN
1.1. Nhân vật văn học
1.1.1. Khái niệm về nhân vật văn học
M. Gorki có lần khuyên một nhà văn trẻ: “Anh hãy bỏ nghề viết đi. Đấy không
phải là việc của anh, có thể thấy rõ như thế. Anh hoàn toàn không có khả năng miêu tả
con người cho sinh động, mà đấy lại là điều chủ yếu” [3; tr 6]. Nhân vật văn học là
khái niệm dùng để chỉ các hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học -
cái được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng phương tiện riêng của nghệ thuật
ngôn từ. Đọc bất cứ một văn bản văn học nào, trước hết người đọc cũng bắt gặp những
con người được miêu tả, trần thuật cụ thể. Đó chính là những nhân vật văn học. Ðối
tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn giữ vị trí trung
tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên nhiên, những lời
bình luận đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tác phẩm nhưng cái quyết
định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng nhân vật. Ðọc một tác phẩm,
cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm
xúc, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi
cho rằng "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một
sáng tác".
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng

phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh
động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ
vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Nhân vật văn học có thể là con người có tên, có thể là những người không có tên
hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó. Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Nhân
vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong các tác phẩm văn học, nhân vật
văn học có thể có tên riêng (Tấm Cám, chị Dậu, anh Pha) cũng có thể không có tên
như “thằng bán tơ” một mụ nào trong Truyện Kiều” [4; tr 162].
Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn dụ nhằm
chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, người ta thường nói đến

11
nhân dân như là một nhân vật trung tâm trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi,
Ca Cao là nhân vật chính trong Ðất dữ của G. Amađô, chiếc quan tài là nhân vật trong
tác phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan
tài: "Trong truyện ngắn Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải
là người mà là một chiếc quan tài. Nhưng chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là
một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc. Như vậy, chiếc
quan tài cũng là một thứ nhân vật". Tuy vậy, nhìn chung nhân vật vẫn là hình
tượng của con người trong tác phẩm văn học.
Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật
khác. Ở đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ. Vì vậy,
nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng
lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó.
Tóm lại, nhân vật văn học là một hình tượng nghệ thuật do nhà văn sáng tạo nên,
nhân vật văn học rất phong phú, nó có thể là đồ vật, loài vật… nhưng chủ yếu vẫn là
con người. Sự thể hiện nhân vật cũng ở những hình thức rất đa dạng. Dù nhân vật là
thế giới loài người hay loài vật nó cũng đều có vai trò rất quan trọng trong sáng tác của
nhà văn, nó làm nên linh hồn của tác phẩm.
1.1.2. Chức năng của nhân vật văn học

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “Trong thế giới nghệ thuật của nhà
văn thường có một hình tượng tâm huyết cứ trở đi trở lại nhiều lần là một “ám ảnh”
đối với nhà văn. Những hình tượng như thế càng có tính phổ biến bao nhiêu, càng có ý
nghĩ tư tưởng sâu sắc và cơ bản bấy nhiêu” [5]. Như vậy nhân vật văn học là căn cứ
quan trọng giúp người đọc có thể hiểu được phong cách và tư tưởng nghệ thuật của
nhà văn.
Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống
và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có
mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm.
Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách
của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật
muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính,
người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là
thân phận của người phụ nữ có tài sắc trong xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn

12
đề tình yêu và ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để
thực hiện khát vọng tự do, công lí Trong Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo
thể hiện quá trình lưu manh hóa của một bộ phận nông dân trong xã hội thực dân nửa
phong kiến. Ðằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa
thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người
Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể
hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình mô tả nhân vật, nhà
văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết bộc lộ được quan
niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy, không nên đồng nhất nhân
vật văn học với con người trong cuộc đời. Khi phân tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối
chiếu, so sánh có thể cần thiết để hiểu rõ thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có
nguyên mẫu ngoài cuộc đời (anh hùng Núp trong Ðất nước đứng lên, Tnú trong Rừng
xà nu ) nhưng cũng cần luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ
thuật độc đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề

của hiện thực cuộc sống. Bectôn Brêcht cho rằng: "Các nhân vật của tác phẩm
nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là
những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả".
Tóm lại, nhân vật có vai trò hết sức quan trọng trong tác phẩm văn học. Tất cả
tinh thần tư tưởng mà nhà văn gửi gắm đều được thể hiện qua hệ thống nhân vật. Đây
là yếu tố không thể thiếu và làm nên thành công của một tác phẩm văn học.
1.1.3. Phân loại nhân vật văn học
Nhân vật văn học là một hiện tượng rất phong phú và đa dạng. Những nhân vật
được xây dựng thành công từ xưa đến nay bao giờ cũng là những sáng tác độc đáo,
không lặp lại. Tuy xét về mặt nội dung tư tưởng, kết cấu, chất lượng miêu tả… có thể
thấy những hiện tượng lặp đi lặp lại tạo thành các loại nhân vật khác nhau. Để hiểu
được thế giới nhân vật đa dạng, phong phú có thể tiến hành phân loại ở nhiều góc độ
khác nhau.
Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất của nhân vật, có thể nói đến nhân
vật chính diện (nhân vật tích cực), nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực).
Nhân vật chính diện là nhân vật đại diện cho lực lượng chính nghĩa trong xã hội,
cho cái thiện, cái tiến bộ. Khi nhân vật chính diện được xây dựng với những phẩm chất
hoàn hảo, có tính chất tiêu biểu cho tinh hoa của một giai cấp, một dân tộc, một thời

13
đại, mang những mầm mống lí tưởng trong cuộc sống,… có thể coi là nhân vật lí
tưởng. Ở đây, cũng cần phân biệt nhân vật lí tưởng với nhân vật lí tưởng hóa. Loại
nhân vật sau là loại nhân vật được tô hồng, hoàn toàn theo chủ quan của nhà văn. Ở
đây là nhà văn đã vi phạm tính chân thực của sự thể hiện. Nhân vật phản diện là nhân
vật đại diện cho lực lượng phi nghĩa, cho cái ác, cho cái lạc hậu, phản động, cần bị lên
án. Trong quá trình phát triển văn học, trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, việc xây
dựng các loại nhân vật trên cũng khác nhau. Nếu như trong thần thoại chưa có sự phân
biệt rạch ròi giữa nhân vật chính và nhân vật phản diện thì trong truyện cổ tích, các
truyện thơ Nôm, các nhân vật thường được xây dựng thành hai tuyến rõ rệt có tính
chất đối kháng quyết liệt. Ở đây, hễ là nhân vật chính diện thường tập trung những đức

tính tốt đẹp còn nhân vật phản diện thì hoàn toàn ngược lại. Trong văn học hiện đại,
nhiều khi khó phân biệt đâu là nhân vật chính diện, đâu là nhân vật phản diện. Việc
miêu tả này phù hợp với quan niệm cho rằng hiện thực nói chung và con người nói
riêng không phải chỉ mang một phẩm chất thâm mĩ mà bao nhiêu phẩm chất thẩm mĩ
khác nhau, cái nhìn của chủ thể đối với sự vật nhiều chiều, phức hợp chứ không đơn
điệu,… Những nhân vật Chí Phèo, Thị Nở, Tám Bính, Năm Sài Gòn,… là những nhân
vật có bản chất tốt nhưng đó không phải là phẩm chất duy nhất của nhân vật. Bakhtin
cho rằng: Cần phải thống nhất trong bản thân mình vừa các đặc điểm chính diện lẫn
phản diện, vừa cái tầm thường cao cả, vừa cái buồn cười lẫn cái nghiêm túc. Chính vì
vậy, ở đây sự phân biệt chính diện, phản diện chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi đặt nhân
vật vào loại nào để nghiên cứu, cần phải xét khuynh hướng chủ đạo của nó đồng thời
phải chú ý đến các khuynh hướng, phẩm chất thẩm mỹ khác nữa.
Từ góc độ kết cấu cần xem xét chức năng và vị trí của nhân vật trong tác phẩm,
có thể chia thành các loại nhân vật: nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ.
Nhân vật chính là nhân vật giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức và triển khai tác
phẩm. Ở đây, nhà văn thường tập trung miêu tả, khắc họa ti mỉ từ ngoại hình, nội tâm,
quá trình phát triển tính cách của nhân vật. Qua nhân vật chính, nhà văn thường nêu
lên những vấn đề và những mâu thuẫn cơ bản trong tác phẩm và từ đó giải quyết vấn
đề, bộc lộ cảm hứng tư tưởng và tính điệu thẩm mỹ. Nhân vật chính có thể có nhiều
hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Với
nhứng tác phẩm lớn có nhiều nhân vật chính thì nhân vật chính quan trọng nhất xuyên
suốt toàn bộ tác phẩm được gọi là nhân vật trung tâm. Trong không ít trường hợp, nhà

14
văn dùng tên nhân vật trung tâm để đặt tên cho tác phẩm. Ví dụ: AQ chính truyện của
Lỗ Tấn, Truyện Kiều của Nguyễn Du,… Trừ một hoặc một số nhân vật chính, những
nhân vật còn lại đều là những nhân vật phụ ở cấp độ khác nhau. Đó là những nhân vật
giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính trong quá trình diễn biến cốt truyện, của việc
thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật phụ phải góp phần hỗ trợ, bổ sung
cho nhân vật chính nhưng không được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có nhiều nhân vật

phụ vẫn được các nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính cách riêng, cùng với
những nhân vật khác tạo nên một bức tranh đời sống sinh động và hoàn chỉnh
Xét từ góc độ thể loại, có thể phân thành các nhân vật: Nhân vật trữ tình, nhân
vật tự sự và nhân vật kịch.
Xét từ góc độ chất lượng miêu tả, có thể phân thành các loại: Nhân vật, tính cách,
điển hình. Nhân vật là những con người nói chung được miêu tả trong tác phẩm. Nhà
văn chỉ có thể mới nêu lên một vài chi tiết về ngôn ngữ, cử chỉ, hành động… cũng có
thể miêu tả kĩ và đậm nét. Tính cách là nhân vật được khắc họa với một chiều sâu bên
trong. Nó như một điểm qui tụ mà từ đó có thể giải thích được mọi biểu hiện muôn
màu, muôn vẻ sinh động bên ngòai của nhân vật. Điển hình là tính cách đã đạt đến độ
thực sự sâu sắc, là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái khái quát và cái cá
thể… nói một cách nghiêm ngặt, thuật ngữ này chỉ áp dụng từ chủ nghĩa hiện thực phê
phán trở về sau. Ngoài những loại nhân vật dược trình bày, có thể nêu lên một số khái
niệm về nhân vật qua các trào lưu văn học khác nhau. Chẳng hạn, khái niệm nhân vật
bé nhỏ trong văn học hiện thực phê phán, khái niệm nhân vật - con người trong chủ
nghĩa tự nhiên, nhân vật - phi nhân vật trong các trào lưu văn học hiện đại chủ nghĩa
phương Tây…
1.2. Đặc trưng các thể loại Thần thoại, Sử thi, Truyền thuyết
1.2.1. Thần thoại
1.2.1.1. Khái niệm chung về Thần thoại
Từ thời khởi thủy của xã hội loài người, con người đã biết dùng lời văn tiếng
nhạc để làm phong phú thêm vẻ đẹp tâm hồn. Điều này được thể hiện bằng những câu
hát, truyện kể lưu truyền trong dân gian của các dân tộc trên thế giới. Trong các câu
hát, truyện kể trong dân gian thì thần thoại xuất hiện từ khá sớm, gắn liền với sự hình
thành và phát triển của xã hội loài người.
Cho đến nay, giới học giả, các nhà nghiên cứu vẫn chưa cho thấy sự thống nhất

15
trong cách trình bày khái niệm thần thoại. Điều này thể hiện qua những quan điểm
khác nhau của các học giả, thậm chí trái chiều, mâu thuẫn.

Thần thoại là gì? Thần thoại theo Mác nói đó là vẻ đẹp “một đi không trở lại” của loài
người khi xã hội nguyên thuỷ kết thúc. Sự thực thì trên thế giới, bất cứ dân tộc nào cũng có
thần thoại.
E.M. Mêlêtinxki đã định nghĩa thần thoại như sau: Thần thoại có nguồn gốc từ tiếng Hy
Lạp, nghĩa đen là truyền thuyết, huyền thoại. Thường người ta hiểu đó là những truyện về các
vị thần, các nhân vật được sùng bái hoặc có quan hệ nguồn gốc với các vị thần, về các thế hệ
xuất hiện trong thời gian ban đầu tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập thế giới
cũng như vào việc tạo lập nên những nhân tố của nó - thiên nhiên và văn hoá (Thi pháp của
huyền thoại ).
Theo Từ điển Văn học - bộ mới - NXB thế giới: “Thần thoại là tập hợp những truyện
kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hoá, phản ánh
quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc của thế giới và của đời sống con người”.
1.2.1.2. Nguồn gốc ra đời của Thần thoại
Theo quan điểm của Mác, thần thoại gắn liền với thời kỳ ấu thơ của nhân loại “trong
những điều kiện xã hội vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa”, nó là thứ “nghệ thuật vô ý thức”.
Cũng theo Mác, “Thần thoại nào cũng chinh phục, chi phối và nhào nặn những sức mạnh tự
nhiên ở trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng”. Nghĩa là không thể nào hiểu và lý
giải đúng thần thoại nếu tách nó ra ngoài xã hội nguyên thuỷ, thế giới quan thần linh và nhu
cầu lý giải, chinh phục tự nhiên, xã hội của con người thời cổ đại.
Theo Đinh Gia Khánh, ở nước ta “Thần thoại đã nảy sinh từ cuộc sống của người
nguyên thuỷ và phát triển theo yêu cầu của xã hội Lạc Việt”, có nghĩa là thần thoại có từ
trước công nguyên. Đồng quan điểm như trên, các nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, Chu Xuân
Diên cũng đưa ra các ý kiến: “Nói một cách đơn giản thần thoại là một loại truyện nói về
thần, mang yếu tố thiên nhiên và xuất hiện vào thời kì khuyết sử” và “Thần thoại chỉ có thể
xuất hiện trong giai đoạn thấp của sự phát triển xã hội và của sự phát triển nghệ thuật. Trong
giai đoạn đó, thần thoại đã có một vai trò tích cực trong đời sống tinh thần của con người: đó
là phương tiện nhận thức quan trọng của người nguyên thuỷ, cũng là một trong những nguồn
hình thành những giá trị tinh thần truyền thống đầu tiên của dân tộc” .
Cơ sở đầu tiên dẫn đến sự ra đời của Thần thoại là sự phát triển của xã hội công xã
nguyên thủy khi con người đã xuất hiện tư duy và hoạt động ngôn ngữ. Con người thời kỳ


16
nguyên thuỷ trong khi tiếp xúc với thiên nhiên, tiếp xúc với các hiện tượng vũ trụ kỳ bí, họ đã
muốn cố gắng tìm hiểu, xuyên qua cái bề ngoài để nhận thức thế giới, nhận thức tự nhiên. Sự
nhận thức thế giới của con người lúc đó là hoang đường và ấu trĩ. Con người tưởng tượng ra
và đặt niềm tin vào sự tưởng tượng ấy, rằng thế giới là do các vị thần linh tạo ra. Thế giới đó
luôn bí ẩn và to lớn, nó chế ngự con người và luôn luôn đe dọa đời sống của họ.
Trong quá trình lao động, sản xuất, con người nguyên thuỷ đã vận dụng lý trí non nớt,
sự nhận biết thô sơ của mình về thiên nhiên, vũ trụ để tìm câu trả lời cho những gì xảy ra
xung quanh như: Tại sao lại có ngày? Tại sao lại có đêm? Tại sao lại có bầu trời? Tại sao lại
có mặt đất? Tại sao lại có mặt trời, mặt trăng và các vì sao? Tại sao lại có sự sống, sự chết?
Con người sinh ra từ đâu? Tại sao lại có mưa gió, bão lụt, hạn hán? Và còn rất nhiều câu hỏi
khác. Chính vì thế, họ đã làm ra thần thoại. Và Mác đã gọi thần thoại là thứ nghệ thuật được
người xưa sáng tạo ra một cách không tự giác.
Lúc này, con người cũng đã nhận thức được mình là một bộ phận của thiên nhiên và
hơn nữa còn muốn khẳng định mình là bộ phận tinh tuý nhất của thiên nhiên. Sự phân biệt
giai cấp, phân biệt lợi ích giữa bộ tộc này và bộ tộc khác, sự đấu tranh chống lại giặc ngoài
xâm đã chuyển hóa bộ phận thần tự nhiên sang bộ phận thần thoại anh hùng văn hóa như Lạc
Long Quân, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thánh Gióng hay thần thoại về họ Hồng Bàng đã góp
phần tạo nên sự đa dạng, phong phú cho các thể loại thần thoại Việt Nam.
1.2.1.3. Cốt truyện thần thoại
So với các thể loại truyện kể dân gian khác, cốt truyện thần thoại có phần đơn
giản hơn. Thể hiện sự nhận thức và lí giải thế giới một cách giản đơn, ngây thơ.
Phần lớn ở cốt truyện này thường có kết cấu một thần - một nhân vật - một hành
động. Nhân vật thường xuất hiện đột ngột trong cõi hỗn mang, hình dạng khổng lồ,
thực hiện công việc của người sáng tạo ra thế giới. Kết cấu này chủ yếu là những thần
thoại kể về nguồn gốc của vũ trụ, thiên nhiên như: Thần trụ trời, thần mưa, thần
gió,… Song đó, trong thần thoại Việt Nam cũng có những trường hợp một cốt truyện
nhiều chủ đề. Cốt truyện là cốt truyện đơn, nhưng đã thêm những tình tiết, biến cố, sự
kiện,…Ở kết cấu này phần lớn là chủ đề về Nguồn gốc loài người, chủ đề Hồng thủy,

Quả bầu,… hiện tượng phức hợp chủ đề trong thần thoại phản ánh sự đa dạng, nhiều
tầng chồng chất lên nhau trong quá trình lưu truyền. Chính điều này đã tạo nên tính đa
nghĩa ở một số thần thoại như: Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thánh Gióng,… Dạng kết cấu
khác của thần thoại là một cốt truyện mang hình thức liên kết của nhiều cốt truyện
đơn, làm nên một hệ thần thoại. Kết cấu này chủ yếu là của những áng sử thi, thần
thoại lớn như họ Hồng Bàng, Đẻ đất đẻ nước, Đăm Săn,…

17
Tóm lại, do ra đời từ thời khởi thủy của xã hội loài người, giai đoạn mà ý thức
con người chưa phát triển nên cốt truyện của thần thoại có phần đơn giản. Tuy nhiên, ở
một mức độ nào đó ta cũng thấy được sự cố gắng của tổ tiên trong việc lí giải các hiện
tượng, nguồn gốc của thế giới.
1.2.1.4. Nhân vật thần thoại
Nhân vật trong thần thoại là thần, hầu hết có nguồn gốc từ thiên nhiên. Họ là “lời
giải thích” cho chính nguồn gốc mà họ sinh ra. Thần trụ Trời giải thích về sự hình
thành của trời đất. Thần Mặt Trăng giải thích tại sao mặt trăng lại mát dịu hơn mặt
trời. Thần Mưa, Thần Gió giải thích tại sao lại có hiện tượng mưa, gió. Thần Sông giải
thích cho sự hình thành của sông Đây là những nhân vật thần thoại đầu tiên có trong
những câu truyện cổ tích đầu tiên về tự nhiên. Chính vì thế người ta gọi kiểu nhân vật
này là nhân vật suy nguyên trong thần thoại suy nguyên.
Nhân vật thần thoại có tầm vóc và hành động phi thường mang tầm cỡ vũ trụ. Để
xây dựng môtíp nhân vật này, tác giả dân gian đã tận dụng tuyệt đối trí tưởng tượng
bay bổng của mình và sử dụng biện pháp nghệ thuật thần thánh hóa và nhân cách hóa
các hiện tượng tự nhiên. Đây là biện pháp nghệ thuật bắt nguồn từ thế giới tâm linh
hoàn toàn biệt lập với những quy luật và kiến thức khoa học tự nhiên cho nên nó mang
tính “vô thức” một cách thuần khiết. Người ta cho rằng tất cả mọi thứ, mọi sự vật
trong thiên nhiên đều có thần, có hồn, có ý thức và có một khả năng phi phàm hơn hẳn
con người (không phải thần thánh sinh ra con người mà con người đã sáng tạo ra thần
thánh bằng trí tưởng tượng ngây thơ của mình). TS. Lê Đức Luận đã nhận định: “Các
nhân vật có nguồn gốc thiên nhiên, vũ trụ không có hình hài rõ ràng, vô hạn định,

hành động của thần thì biến hóa khôn lường, đi mây về gió, thoắt biến, thoắt hiện,
hành động của thần là nguyên nhân của các hiện tượng tự nhiên. Hành động đó vừa
có yếu tố thực vừa có yếu tố hoang đường. Yếu tố thực lấy từ các hoạt động của con
người, yếu tố hoang đường là màu sắc thần thánh là cách lý giải ngây thơ về các hiện
tượng tự nhiên xã hội”.
Hệ thống nhân vật thần thoại được nhấn chìm trong không gian huyền thoại, cổ
kính và thiêng liêng với các tên gọi mang tầm vóc vũ trụ bao la như: Thần Mặt Trời,
Thần Biển, Thần Núi hoặc các tên gọi đã được Hán hóa hoặc Nho giáo hóa như
Ngọc Hoàng, Nữ Hoàng Hệ thống nhân vật thần thoại với những đặc điểm kỳ ảo mãi

18
mãi là sự quyến rũ mạnh mẽ, sự kích thích khám phá trong say đắm của thế giới tuổi
thơ nói riêng và sự tìm hiểu say mê của con người nói chung.
Tóm lại, nhân vật của thần thoại là kết quả của sự tưởng tượng mộng mơ của con người
thời cổ đại. Do vậy nhân vật của thần thoại hầu như đều được mô tả với hình dạng khổng lồ,
có sức mạnh to lớn, có tính cách đơn giản một chiều. Các nhân vật như: Thần Mưa, thần Sấm,
thần Gió, thần Biển, thần Nước, thần Lửa, mỗi thần chỉ thực hiện một chức năng, một hành
động. Đối với các nhân vật sáng tạo văn hoá cũng vậy, mỗi thần đem tới một chiến công, một
sự đóng góp cho xã hội loài người. Các nhân vật cặp đôi như hai thần Đực - Cái, Lạc Long
Quân - Âu Cơ (Việt), ông Thu Tha - bà Thu Thiên (Mường), đã tạo nên nòi giống, dân tộc.
Các nhân vật dũng sĩ như Thánh Gióng, Sơn Tinh Thủy Tinh đã có công chống lại thiên tai,
giặc dữ bảo vệ cương vực địa bàn sinh tụ sống.
1.2.1.4. Không gian và thời gian thần thoại
Không gian thần thoại là không gian vũ trụ, khó xác định cụ thể kích cỡ, nơi chốn, vị trí.
Trong thần thoại có ba không gian chủ yếu: Không gian trên trời, không gian mặt đất, không
gian dưới nước được chia thành ba cõi là cõi trời, cõi đất và cõi nước. Tuy nhiên ba cõi không
gian đó cũng không phải là cố định, ngăn cách thành ba thế giới riêng biệt mà nó luôn biến
chuyển, hòa nhập với nhau. Các thần dù được phân chia cai quản các cõi cụ thể nhưng khi
cần thì thần trên trời xuống hạ giới làm nhiệm vụ như thần Thiên Lôi, thần Mưa Hoặc thần
ở dưới cõi nước vẫn lên cõi đất để lấy tài sản, khoáng sản như thần nước.

Không gian chiều dọc trong thần thoại thể hiện sự xâm nhập của các vị thần trên trời
xuống mặt đất và từ mặt đất lên trời như: Thần mưa, thần sét, thần thổ công. Điều này góp
phần giải thích sự phân cách giữa trời và đất trong thần thoại một số dân tộc. chẳng hạn như
thần trụ trời trong thần thoại người Việt.
Thời gian trong thần thoại là thời gian không xác định, thời gian vĩnh hằng. Các truyện
không chỉ ra vào thời gian nào, chỉ biết thuở xưa, thuở mới khai thiên lập địa. Nhưng thuở
khai thiên lập địa là vào khi nào rồi kết thúc ra sao, thần thoại không nói rõ bởi lẽ thế giới thần
là thế giới của vĩnh hằng. Thần không có tuổi, không biết thần sinh ra khi nào, thần không bao
giờ chết.
1.2.2. Truyền thuyết
1.2.2.1. Khái niệm chung về truyền thuyết
Truyền thuyết là thể loại cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Môt số
nghiên cứu coi truyền thuyết là dã sử do tính chất gắn bó khá chặt chẽ với lịch sử của

19
thể loại. Tuy nhiên, truyện kể về nhân vật lịch sử hay sự kiện lịch sử thì cũng khác với
lịch sử. Đặc biệt, những nhân vật lịch sử khi vào truyện đã được hình tượng hóa để
phản ánh lịch sử một cách nghệ thuật. Trong sự phản ánh đó, không phải bao giờ sự
thật lịch sử cũng được tôn trọng, cũng không nhất thiết phải quan tâm đến mọi chi tiết
vốn có, mà chỉ chọn lựa và nhấn mạnh một số chi tiết có dụng ý, và quan tâm nhiều
hơn đến những điều nên có theo mong ước của nhân dân.
Một số tác giả phủ nhận sự tồn tại của truyền thuyết với tư cách là thể loại văn
học dân gian độc lập như Nguyễn Đổng Chi, Đinh Gia Khánh Ngược lại, Đỗ Bình
Trị, Kiều Thu Hoạch và nhiều nhà nghiên cứu khác quan niệm truyền thuyết là một thể
loại tự sự dân gian. Trong cuốn giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam (Bùi Văn Nguyên
chủ biên) Đỗ Bình Trị xếp truyền thuyết bên cạnh thần thoại, và định nghĩa truyền
thuyết là những truyện có dính líu đến lịch sử mà lại có sự kỳ diệu - là lịch sử hoang
đường - hoặc là những truyện tưởng tượng ít nhiều gắn với sự thực lịch sử. Tính chất
thể loại của truyền thuyết bắt đầu được khẳng định rõ.
Năm 1971, trong cuốn sách “Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự

sự dân gian Việt Nam” có tới ba bài viết khẳng định truyền thuyết là một thể loại văn
học dân gian. Tác giả Kiều Thu Hoạch nhận định truyền thuyết là một thể tài truyện kể
truyền miệng nằm trong loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt truyện của nó là kể lại
truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật theo quan
niệm nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương phóng đại, đồng
thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại…
Vào đầu những năm 80, mục từ TRUYỀN THUYẾT do Chu Xuân Diên chấp bút
có mặt trong Từ điển văn học. Truyền thuyết được khẳng định là một trong những thể
loại tự sự dân gian, có quan hệ gần gũi với các thể loại tự sự dân gian khác như thần
thoại và truyện cổ tích.
Các cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam tập II - Hoàng Tiến Tựu viết,
Văn học dân gian Việt Nam - Lê Chí Quế chủ biên, Văn học dân gian (dành cho tại
chức và từ xa) - Phạm Thu Yến chủ biên… đều dành một chương cho việc nghiên cứu
truyền thuyết với tư cách là một thể loại độc lập. Lê Chí Quế định nghĩa “Truyền
thuyết là một thể loại trong loại hình từ sự dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật
lịch sử hay di tích cảnh vật địa phương thông qua sự hư cấu nghệ thuật thần kỳ” [6].

20
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nhận xét về truyền thuyết: “Những truyền
thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thực lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ
đã lí tưởng hóa, gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng.
Chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên những tác phẩm
văn hóa mà đời đời con người ưa thích” [7].
Giữa thần thoại và truyền thuyết thời kì đầu có những nét gần gủi, bởi chỗ dựa
chủ yếu của truyền thuyết thời kì này chính là nguồn thần thoại. Khi ý thức lịch sử của
cộng đồng ngày càng phát triển, người ta mượn lại những hình tượng vang bóng một
thời trong thần thoại vốn là niềm tự hào của cộng đồng, nhào nặn lại, móc nối lại với
những sự kiện và nhân vật lịch sử có thực ở đời sau, làm thành một nguồn kể vừa đậm
yếu tố kì ảo vừa đậm màu sắc lịch sử, vừa li kì và hấp dẫn vô cùng.
Tóm lại, truyền thuyết là truyện kể về những nhân vật và sự kiện hư cấu hay xác

thực, có liên quan - ảnh hưởng tới lịch sử trọng đại của dân tộc hay giai cấp, qua đó
nhân dân thể hiện ý thức và thái độ đối với nhân vật và sự kiện lịch sử.
1.2.2.2. Nguồn gốc ra đời truyền thuyết
Theo Ph. Ăngghen: “Tất cả các dân tộc trong quá trình phát triển lịch sử của nó
đều phải trải qua thời đại anh hùng”. Truyền thuyết Việt Nam ra đời và phát triển
trong thời đại anh hùng Việt Nam, thời đại mà những yếu tố xã hội - lịch sử của nó
mang đặc trưng chung của thời đại anh hùng trong lịch sử nhân loại: Đó là thời kỳ con
người bứt ra khỏi đời sống dã man, bước vào chế độ văn minh đầu tiên. Thời kỳ được
đánh dấu bằng những chiến công lao động và những biến đổi xã hội sâu sắc, nên còn
được gọi là thời kỳ của “thanh kiếm sắt, cái cày và cái rìu bằng sắt”. Ở Việt Nam, nó
được đánh dấu bằng sự kết thúc của thời kì tiền sử, sự khởi đầu của thời kì sơ sử, với
sự hình thành của nhà nước Văn Lang đầu tiên, thuộc thời kì văn hoá kim khí mà đỉnh
cao là văn hoá Đông Sơn.
Việc sử dụng công cụ kim loại được coi như một cuộc cách mạng kỹ thuật. Đồ
đồng cực kỳ phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình, thể hiện trình độ cao về kỹ
thuật chế tác và năng khiếu thẩm mỹ dồi dào của chủ nhân nó như những chiếc rìu,
lưỡi cày đồng, xẻng, cuốc đồng, dao gặt… Công cụ sản xuất vô cùng phong phú và
tiến bộ đã dẫn đến thành quả lao động được nâng cao, đời sống con người được cải
thiện. Bên cạnh nhu cầu ăn, ở, người ta đã có nhu cầu thẩm mĩ, không chỉ là ăn no mặc
ấm mà còn là ăn ngon, mặc đẹp, và sinh hoạt tiện lợi. Con người đã phần nào khám

×