Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết chính tả cho học sinh tiểu học ở quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.57 KB, 97 trang )

1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, với tình cảm chân thành, em xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến TS.Nguyễn Thị Nga – Giảng viên Trường Đại học Quảng Bình
đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn tập thể giảng viên Khoa sư phạm Tiểu học - Mầm
non đã tạo điều kiện để em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp kết thúc khóa
học của mình.
Cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô, học sinh trường Tiểu học Đồng Phú và
các trường Tiểu học trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã tạo điều kiện cho em điều
tra, tìm hiểu và tổ chức thực nghiệm.
Và em cũng xin tỏ lòng biết ơn đối với những người thân trong gia đình
cũng như bạn bè đã động viên, giúp đỡ em rất nhiều về cả tinh thần, vật chất
trong quá trình thực hiện khóa luận.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, do điều kiện, năng lực, thời gian nghiên
cứu còn hạn chế, khóa luận nghiên cứu không tránh khỏi những sai sót. Rất mong
nhận được sự góp ý của thầy cô, các bạn để khóa luận thêm hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!

Quảng Bình, tháng 06 năm 2015.

Tác giả

Nguyễn Thị Oanh




2
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong khóa luận là trung thực, khách quan và chưa
từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Oanh




















3
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 1

LỜI CAM ĐOAN 2
MỤC LỤC 3
NHỮNG KÍ HIỆU DÙNG TRONG KHÓA LUẬN 6
A . PHẦN MỞ ĐẦU 7
1. Lý do chọn đề tài 7
2. Mục đích nghiên cứu 8
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu 9
5. Phương pháp nghiên cứu 9
6. Đóng góp mới của đề tài 10
7. Cấu trúc của khóa luận 10
B. PHẦN NỘI DUNG 11
CHƯƠNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 11
1. Cơ sở lí luận 11
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. 11
1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài 13
1.2.1. Chính tả 13
1.2.2. Chuẩn chính tả 13
1.2.3. Kỹ năng và kỹ năng viết chính tả 14
1.2.4. Rèn luyện và rèn luyện kỹ năng viết chính tả 16
1.3. Vị trí, tính chất của dạy học chính tả ở trường Tiểu học 17
1.4. Đặc điểm ngôn ngữ Tiếng Việt và phương ngữ Quảng Bình liên quan đến
chính tả 18
1.4.1. Đặc điểm ngôn ngữ Tiếng Việt liên quan đến chính tả 18
1.4.2. Đặc điểm phương ngữ Quảng Bình liên quan đến chính tả 20
1.5. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học (liên quan đến rèn luyện kỹ
năng viết chính tả) 23
1.6. Khái quát về chương trình (phân môn) Chính tả ở Tiểu học 25
4
2. Cơ sở thực tiễn 28

2.1. Thực trạng dạy – học chính tả ở các trường Tiểu học trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình 28
2.1.1. Thực trạng dạy chính tả trong nhà trường 28
2.1.2. Thực trạng kỹ năng viết chính tả của học sinh Tiểu học ở Quảng Bình 29
2.2. Nguyên nhân của thực trạng 32
2.2.1. Về phía GV 32
2.2.2. Về phía HS 33
CHƯƠNG II. BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT CHÍNH TẢ CHO
HỌC SINH TIỂU HỌC 36
2.1. Hướng dẫn HS luyện phát âm và giải nghĩa từ 36
2.2. Hướng dẫn HS phân tích, so sánh 38
2.3. Tăng cường kiến thức lí thuyết giúp HS nắm vững mẹo luật, quy tắc chính
tả 40
2.3.1. Các lỗi về dấu thanh. 40
2.3.2. Các lỗi về phụ âm đầu. 46
2.4. Tạo môi trường học Tiếng Việt trong nhà trường 49
2.4.1. Sử dụng trực quan. 49
2.4.2. Tăng cường hoạt động giao tiếp 50
2.5. Cách sử dụng quy tắc viết hoa 52
2.5.1. Quy tắc viết hoa tên người 52
2.5.2. Quy tắc viết hoa địa danh 53
2.5.3. Quy tắc viết hoa tên các cơ quan, tổ chức chính trị, xã hội 54
2.5.4. Quy tắc viết hoa trong phép đặt câu, viết hoa tỏ thái độ kính trọng,
viết hoa tên riêng của các sự vật khác 54
2.5.5. Viết hoa các trường hợp khác 54
2.5.6. Hướng dẫn học sinh thực hiện quy tắc viết hoa trong giờ chính tả 55
2.6. GV chấm, chữa bài cho học sinh 56
2.7. Tạo hứng thú học tập và phát huy tính chủ động tích cực của học sinh
trong dạy học chính tả 57
5

2.8. Hướng dẫn học sinh giải các bài tập chính tả 59
2.9. Tăng cường xây dựng hệ thống bài tập chính tả lựa chọn cho HS Tiểu học
ở Quảng Bình 63
2.9.1. Mục tiêu 63
2.9.2. Nguyên tắc 63
2.9.3. Hệ thống bài tập chính tả lựa chọn cho HS Tiểu học ở Quảng Bình . 65
CHƯƠNG III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 76
3. Những vấn đề chung của thực nghiệm 76
3.1. Mục đích thực nghiệm 76
3.2. Đối tượng, thời gian, địa bàn thực nghiệm 76
3.3. Tiến trình thực nghiệm 76
3.3.1 Nội dung thực nghiệm 76
3.3.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm và phiếu điều tra 77
3.3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm. 89
C. PHẦN KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
















6

NHỮNG KÍ HIỆU DÙNG TRONG KHÓA LUẬN

TT KÍ HIỆU CHÚ THÍCH
1 GV Giáo viên
2 HS Học sinh
3 SGK Sách giáo khoa
4 [5, tr. 24] Trích từ tài liệu tham khảo 5. Trang 24























7

A . PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đảng ta đã nhận định “Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống
giáo dục quốc dân”, nền tảng có vững chắc thì toàn hệ thống mới tạo nên cấu
trúc bền vững và phát triển hài hòa. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học nhằm hình
thành cho học sinh cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về trí tuệ,
thể chất tình cảm và các kỹ năng cơ bản. Giáo dục Tiểu học tạo tiền đề cơ bản
để nâng cao dân trí, là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng để đào tạo thế hệ trẻ trở
thành người có ích trong giai đoạn mới.
Ở Tiểu học, Chính tả là một phân môn đặc biệt quan trọng trong nhà
trường giúp HS hình thành năng lực và thói quen viết đúng tiếng Việt văn hóa,
tiếng Việt chuẩn mực. Cùng với các phân môn khác, Chính tả giúp cho HS
chiếm lĩnh văn hóa Việt - làm công cụ để giao tiếp, tư duy. Việc rèn luyện các
quy tắc chính tả sẽ hình thành kỹ năng viết đúng đơn vị từ của học sinh, khi các
em đã viết đúng, viết chính xác thì mới có điều kiện học tốt các môn học khác
và trên cơ sở đó, các em rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt có hiệu quả.
Trong suy nghĩ và giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp bằng ngôn ngữ viết,
người xưa thường nói “Nét chữ nết người - Văn hay chữ tốt”. Quả thật khi
viết chữ không tốt thì văn không thể hay được. Vì vậy, chính tả được dạy liên
tục từ lớp Một đến lớp Năm với các loại bài như : nhìn - viết, nghe - viết, nhớ -
viết, bài tập trắc nghiệm,…để các em được học môn chính tả một cách khoa học,
cẩn thận và sử dụng công cụ này suốt những năm tháng trong thời kì học tập ở
nhà trường cũng như suốt cuộc đời.
Hiện nay, chất lượng dạy - học môn Tiếng Việt Tiểu học nói chung trong
những năm qua vẫn còn là điều trăn trở. Hiện tượng học sinh nói, viết không
thành câu, thành chữ và đặc biệt là hiện tượng học sinh viết sai lỗi chính tả còn

quá nhiều. Cụ thể là trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, phần lớn cư dân địa phương
là người Kinh và một số dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và Bru-
Vân Kiều, sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hoá và Minh Hoá và một
8
số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thuỷ. Từ đó,việc phát âm có phần đa
dạng, HS thường phát âm chưa chuẩn, phát âm theo tiếng địa phương, viết lẫn
lộn các dấu thanh “sắc - nặng, hỏi – ngã, ngã - nặng” chiếm tỉ lệ khá cao như:
“nói” lại thành “nọi ”, như “gỗ” thành “gộ”, “năng nổ” thành “năng nộ” …và
viết sai một số phụ âm. Có những lỗi chính tả không đáng mắc phải nhưng các
em lại viết sai đa phần là do cách phát âm địa phương, chẳng hạn chưa phát âm
phân biệt rõ các âm đầu tr/ch; s/x nên khó khăn trong việc “nghe - viết” sao
cho đúng là một vấn đề lớn đối với chính tả Việt Nam.
Được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Quảng Bình, được tiếp xúc và giao
tiếp nhiều với các em lứa tuổi Tiểu học, tôi thấy các em HS trong quá trình học
tập và sử dụng ngôn ngữ hằng ngày còn mắc nhiều lỗi chính tả, làm ảnh hưởng
đến kết quả học tập môn Tiếng Việt nói chung cũng như các môn học khác. Để
có một số biện pháp sửa lỗi chính tả cho HS Tiểu học ở Quảng Bình với mục
đích là nâng cao chất lượng viết đúng, viết đẹp cho HS, tôi mạnh dạn chọn nội
dung “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết chính tả cho học sinh Tiểu học
ở Quảng Bình” để làm đề tài nghiên cứu, cũng là nêu lên thực tế và biện pháp
khắc phục các lỗi đó, không ngoài mong muốn là hình thành cho HS năng lực
và thói quen viết đúng chính tả, năng lực và thói quen viết đúng tiếng Việt văn
hóa, tiếng Việt chuẩn mực.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Phân môn Chính tả là phân môn đặc biệt quan trọng trong chương trình
Tiểu học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng. Song chất lượng dạy học chính
tả ở Tiểu học còn ở mức thấp, biểu hiện chung nhất của tình trạng đó là : Tình
trạng mắc lỗi chính tả của HS còn phổ biến, nhất là các em HS ở những vùng
khó khăn, miền núi.
Thực hiện đề tài này, tôi hi vọng đề xuất một số biện pháp rèn kỹ năng viết

chính tả hiệu quả cho HS Tiểu học trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nhằm góp phần
nâng cao chất lượng dạy học chính tả cho HS.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Tiến hành đề tài tác giả thực hiện nhiệm vụ:
9
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học chính tả ở
trường Tiểu học nói chung.
- Khảo sát, thống kê phân loại lỗi, chỉ ra thực trạng mắc lỗi, nguyên nhân
mắc lỗi của HS Tiểu học ở Quảng Bình.
- Đề xuất một số biện pháp rèn kỹ năng viết chính tả cơ bản cho HS Tiểu
học.
- Tiến hành thiết kế giáo án và thực nghiệm dạy học ở trường Tiểu học.
- Tổng hợp, so sánh, đối chiếu kết quả bước đầu thể nghiệm và rút ra tính
khả thi của vấn đề nghiên cứu.
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp rèn luyện kỹ năng viết chính tả cho HS Tiểu học ở Quảng Bình.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Do khả năng và thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ tiến hành điều tra, khảo
sát và thực nghiệm HS Tiểu học trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận:
Đọc tham khảo tài liệu, phân tích, tổng hợp khái quát hóa các vấn đề tài liệu
có liên quan để làm cơ sở lí luận cho đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát: Quan sát các giờ dạy Chính tả ở Trường Tiểu học
Đồng Phú nhằm nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm cho giờ dạy thực nghiệm.
Quan sát một số bài viết chính tả của các em HS Tiểu học. Sau đó phân tích,
đánh giá thực trạng chất lượng học tập của HS.

+ Phương pháp điều tra: Khảo sát nội dung sách giáo khoa, năng lực viết
chính tả của HS.
+ Phương pháp trò chuyện: Trao đổi với GV và HS của một số trường Tiểu
học ở tỉnh Quảng Bình để tìm hiểu thực trạng dạy và học chính tả.
10
+ Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành dạy thực nghiệm để khẳng định
tính khả thi của đề tài.
+ Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm:
Tổng kết, đánh giá kết quả của đề tài và những mặt còn hạn chế, rút kinh
nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu toán học
Sử dụng thống kê để xử lí thông tin, số liệu thu được.
VI. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Đề xuất được một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả cho
HS Tiểu học Quảng Bình.
- Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho GV, cán bộ quản lí ở các trường
Tiểu học Quảng Bình.
VII. CẤU TRÚC CỦA KHÓA LUẬN
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của đề tài gồm có 3
chương:
Chương I: Cơ sở khoa học của đề tài
Chương II: Biện pháp rèn luyện kỹ năng viết chính tả cho học sinh Tiểu học
Chương III: Thực nghiệm sư phạm











11
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Chính tả là một phân môn có vị trí quan trọng trong chương trình môn Tiếng
Việt ở Tiểu học. Giai đoạn Tiểu học là giai đoạn then chốt trong quá trình hình
thành kỹ năng cho HS. Rèn luyện kỹ năng viết chính tả cho HS thế nào cho đạt
hiệu quả, vấn đề này đã được nhiều GV và các nhà sư phạm quan tâm. Các tác giả
với các bài viết đã đề cập đến nhiều khía cạnh, phương diện, cụ thể:
- Trong cuốn “Dạy họ c Chính tả ở Tiểu học”, Hoàng Văn Thung, Đỗ Xuân
Thảo, NXBGD, 2002. Các tác giả đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của dạy
học Chính tả ở Tiểu học, đồng thời đưa ra một số nguyên tắc, phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học Chính tả nhằm nâng cao chất lượng dạy học Chính tả
nói riêng và dạy học môn Tiếng Việt nói chung. Ngoài ra tác giả còn đề ra một
số quy tắc chính tả tiếng Việt giúp người đọc biết viết đúng, thành thạo âm tiết
từ đó hình thành kỹ năng chính tả tiếng Việt.
- Trong cuốn “Ngữ âm học hiện đại”, Cù Đình Tú, Hoàng Văn Thung,
Nguyễn Nguyên Trứ, NXBGD, 1978. Các tác giả đã đề cập đến vấn đề chính tả
chữ Việt và chính tả trong nhà trường hay vấn đề chính âm và chính tả chữ Việt.
Từ đó đề ra các phương pháp dạy học Chính tả. Đặc biệt là các tác giả đã tiến
hành phân loại các lỗi chính tả để tìm ra biện pháp khắc phục cụ thể, thích hợp
với mỗi loại.
- Trong cuốn “Chữ viết và dạy chữ viết ở Tiểu học”, Lê A, NXB ĐHSP,
2002. Tác giả đã phân tích một số cơ sở lý luận và thực tiễn của dạy học Chính
tả ở Tiểu học. Đồng thời đưa ra một số nguyên tắc và một số kiểu bài dạy chính
tả ở Tiểu học cũng như các vấn đề chính tả phương ngữ nhằm nâng cao hiệu quả

dạy học Chính tả.
- Trong cuốn “Tiếng Việ t và phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học”,
tài liệu đào tạo GV – 2007 của Bộ giáo dục và Đào tạo, Dự án phát triển GV
Tiểu học đã tổ chức biên soạn các mô đun đào tạo, bồi dưỡng GV nhằm nâng
12
cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật những đổi mới về nội dung,
phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục Tiểu học theo
chương trình, SGK Tiểu học mới. Điểm mới ở các tài liệu này là đưa ra nhiều
phương pháp dạy học mới như sử dụng băng hình, phương pháp giao tiếp
nhằm tích cực hóa hoạt động học tập.
- Trong cuốn “Tiếng Việt thự c hành”, Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên),
Nguyễn Văn Hiệp- NXBGD 1997. Tác giả đã đưa ra những vấn đề thiết thực
nhất đối với việc tiếp nhận và tạo lập văn bản viết trong nhà trường, việc rèn
luyện kỹ năng dùng từ và kỹ năng về chính tả, các lỗi dùng từ, các mẹo chữa lỗi
về chính tả. Giáo trình giúp sinh viên phát triển các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt.
- Trong cuốn “Từ điển chính tả Tiếng Việt”, Nguyễn Như Ý, Đỗ Việt
Hùng, NXB GD, HN, 1997. Các tác giả đã thống kê bảng các mục từ giúp người
tra cứu có thể tìm thấy cách viết đúng đối với từ có vấn đề chính tả mà không
nhất thiết phải so sánh, lựa chọn, giải thích nghĩa – giả thiết là nghĩa đã được
cảm nhận trong dạng nói trực tiếp mục từ đó ở văn bản.
- Năm 1989, trong cuốn “Luật và mẹo Chính tả” Phan Quang An đã đưa ra
những điểm cốt yếu trong mẹo – luật chính tả Tiếng Việt: đại cương về tiếng,
âm, thanh; Luật hỏi, ngã; Luật chuyển âm, phụ âm đây là nội dung rất hữu ích
khi dạy Chính tả ở Tiểu học.
Ở những tài liệu trên, các tác giả còn đề cập đến vấn đề một cách chung
chung, trường nghiên cứu còn rộng, chưa đi sâu vào khảo sát thực tế tình trạng
dạy học Chính tả một cách cụ thể. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên là
những tiền đề lí luận quý báu để tôi thực hiện đề tài: “Một số biện pháp rèn
luyện kỹ năng viết chính tả cho học sinh Tiểu học ở Quảng Bình”. Trong đề tài
này tôi đi sâu khảo sát một cách cụ thể tại địa bàn tỉnh Quảng Bình nhằm đưa ra

những biện pháp rèn luyện kỹ năng viết chính tả cho HS Tiểu học từ đó nâng
cao hiệu quả dạy học Chính tả.
13
1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1. Chính tả
Chính tả là sự chuẩn hoá hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Đó là một hệ
thống các quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng các dấu câu, lối
viết hoa Nói một cách cụ thể, chính tả là hệ thống các quy định về việc viết
chữ của một thứ tiếng, được xem là chuẩn mực.[7, tr. 121].
Như vậy, đối với tiếng Anh thì có chính tả tiếng Anh; đối với tiếng Pháp
thì có chính tả tiếng Pháp; đối với tiếng Việt thì có chính tả tiếng Việt. Mỗi thứ
tiếng có những quy định riêng về chính tả.
Nội dung chính tả tiếng Việt bao gồm một số vấn đề cơ bản sau:
- Cách viết một số từ có nhiều dạng phát âm khác nhau.
- Cách viết tên riêng Việt Nam.
- Cách viết tên cơ quan, tổ chức kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
- Cách viết tên riêng nước ngoài và thuật ngữ khoa học.
- Cách viết tên tác phẩm, văn bản.
- Cách viết tắt.
- Cách dùng số và chữ biểu thị số.
1.2.2. Chuẩn chính tả
Chuẩn chính tả là việc chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Chuẩn
chính tả phải được quy định rõ ràng, chi tiết tới từng từ của tiếng Việt và phải
được mọi người tuân theo. Vấn đề đặt ra là chuẩn chính tả phải được xây dựng
sao cho hợp lí, có độ tin cậy và sức thuyết phục cao. Chuẩn chính tả có tính chất
bắt buộc gần như tuyệt đối, chẳng hạn không thể viết là “ dáo dục, iêu ghét ”
Mà phải viết là “giáo dục, yêu ghét …”
Chuẩn chính tả có những đặc điểm chính sau đây:
- Đặc điểm đầu tiên của chuẩn chính tả là tính chất bắt buộc gần như tuyệt
đối của nó. Đặc điểm này đòi hỏi người viết bao giờ cũng phải viết đúng chính

tả. Chữ viết có thể chưa hợp lí nhưng khi đã được thừa nhận là chuẩn chính tả
thì người cầm bút không được tự ý viết khác đi. Ai cũng biết rằng viết "ghế",
"ghen" không hợp lí và tiết kiệm bằng "gế", "gen" nhưng chỉ có cách viết thứ
14
nhất mới được coi là đúng chính tả. Vì vậy nói đến chuẩn chính tả là nói đến
tính chất pháp lệnh. Trong chính tả không có sự phân biệt hợp lí – không hợp lí,
hay – dở mà chỉ có sự phân biệt đúng – sai, không lỗi – lỗi. Đối với chính tả,
yêu cầu cao nhất là cách viết thống nhất trong mọi văn bản, mọi người, mọi địa
phương.
- Do chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối cho nên nó ít bị
thay đổi như các chuẩn mực khác của ngôn ngữ (như chuẩn ngữ âm, chuẩn từ
vựng, chuẩn ngữ pháp). Nói cách khác, chuẩn chính tả có tính chất ổn định, tính
chất cố hữu khá rõ. Sự tồn tại nhất nhất hàng thế kỉ của nó đã tạo nên ấn tượng
về một cái gì "bất di bất dịch", một tâm lí rất bảo thủ. Chính vì thế mặc dù biết
rằng cách viết "iên ngỉ" hợp lí hơn nhưng đối với chúng ta nó rất "gai mắt", khó
chịu vì trái với cách viết từ bao đời nay. Mặt khác, do tính chất "trường tồn" này
mà chính tả thường lạc hậu so với sự phát triển của ngữ âm. Sự mâu thuẫn giữa
ngữ âm "hiện đại" và chính tả "cổ hủ" là một trong những nguyên nhân chính
làm cho chính tả trở nên rắc rối.
- Ngữ âm phát triển, chính tả không thể giữ mãi tính chất cố hữu của mình mà
dần dần cũng có một sự biến động nhất định. Do đó, bên cạnh chuẩn mực chính
tả hiện có lại có thể xuất hiện một cách viết mới tồn tại song song với nó, ví dụ:
"phẩm zá", "anh zũng" bên cạnh "phẩm giá", "anh dũng", "trau dồi" bên cạnh
"trau giồi", "dòng nước" bên cạnh "giòng nước", tình trạng có nhiều cách viết
như vậy đòi hỏi phải tiến hành chuẩn hoá chính tả.[7, tr.122].
1.2.3. Kỹ năng và kỹ năng viết chính tả
a) Kỹ năng
Theo quan niệm của tâm lý học hiện đại, trong quá trình dạy học, GV
thường truyền đạt cho HS những tri thức. Nắm được tri thức là hiểu biết và ghi
nhớ được khái niệm khoa học. Tiến thêm một bước nữa là vận dụng tri thức,

khái niệm, định nghĩa, định luật… vào thực tiễn thì sẽ có kỹ năng. Nhưng kỹ
năng vẫn còn là một hành động ý chí đòi hỏi phải “động não”, suy xét, tính toán,
phải có sự nỗ lực ý chí thì mới hoàn thành được. Như vậy, kỹ năng chính là sự
vận dụng kiến thức đã thu nhận được ở một lĩnh vực nào đó vào việc thực hiện
15
có kết quả một thao tác, một hoạt động tương ứng phù hợp với mục tiêu và điều
kiện thực tế đã cho.
Để hình thành kỹ năng ở HS, GV phải giúp HS biết cách tìm tòi để nhận ra
yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm và mối quan hệ của chúng trong các tình huống và
trong các bài tập. GV đồng thời phải giúp HS hình thành một mô hình khái quát
để giải quyết các bài tập, đối tượng cùng loại. GV còn là người giúp HS xác lập
được mối quan hệ giữa các kiến thức và bài tập có tính mô hình tương ứng.
Trong thời gian ở trường Tiểu học, một loạt các kỹ năng cần và sẽ được
hình thành ở trẻ: kỹ năng học tập, lao động, vệ sinh,… Có những kỹ năng chung
(lập kế hoạch công việc, tự kiểm tra, tự đánh giá,…) và những kỹ năng riêng.
Cũng trong quá trình học tập, mỗi bộ môn đòi hỏi có những kỹ năng đặc trưng.
Đối với môn Toán là kỹ năng tính toán. Đối với các môn tìm hiểu tự nhiên đó là
kỹ năng quan sát. Đối với môn Tiếng Việt, mỗi phân môn cũng có một kỹ năng
đặc trưng phù hợp với đặc điểm của từng phân môn đó. Phân môn Chính tả cũng
vậy, nó hình thành cho HS các kiến thức và kỹ năng đặc biệt là kỹ năng viết
chính tả.
b) Kỹ năng viết chính tả
Sự vận dụng những tri thức về chữ viết cùng với sự sáng tạo trong nhận
thức để viết chữ và viết văn bản thực hiện nhiệm vụ của phân môn Chính tả đề
ra gọi là kỹ năng viết chính tả.
Kỹ năng viết chính tả đối với HS Tiểu học ở mức độ thấp là chép lại, ghi
các văn bản đã có theo lời người khác đọc hoặc dựa vào trí nhớ một cách chính
xác, khoa học. Đó là loại bài chính tả. Kỹ năng viết chính tả được rèn luyện suốt
đời.
Các kỹ năng chính tả được hình thành và thuần thục từ văn bản viết. Muốn

có kỹ năng viết chính tả, HS không chỉ biết lý thuyết mà chủ yếu phải thông qua
hoạt động viết, viết nhiều và viết đúng chính tả. Kỹ năng viết chính tả đó là sự
thể hiện chữ viết một cách chính xác, thành thục đúng với âm chuẩn, phân biệt
được các âm vần dễ lẫn lộn, nắm vững cách viết hoa, nắm được các quy tắc
chính tả tiếng Việt. Khi kỹ năng viết chính tả đạt đến mức thành thạo, thuần thục
16
thì gọi là kỹ xảo chính tả. Hình thành cho HS kỹ xảo chính tả nghĩa là giúp HS
viết đúng chính tả một cách tự động hoá, không phải trực tiếp nhớ tới các quy
tắc chính tả, không cần đến sự tham gia của ý chí.
1.2.4. Rèn luyện và rèn luyện kỹ năng viết chính tả
a) Rèn luyện
Để hình thành kỹ năng, con người phải trải qua một quá trình rèn luyện lâu
dài. Vậy rèn luyện là gì?
Có thể hiểu một cách đơn giản: Rèn luyện là quá trình luyện tập nhiều trong
thực tế để đạt tới những phẩm chất hay trình độ vững vàng, thông thạo. Việc rèn
luyện phải gắn với hoạt động của các giác quan và gắn với hoạt động của tư duy,
con người phải luyện tập một cách thường xuyên.
Quá trình rèn luyện phải dựa trên cơ sở vốn tri thức. Qua rèn luyện giúp
con người nhận diện, phát hiện, hoàn thiện các tri thức. Trong dạy học Tiếng
Việt để hình thành kỹ năng thì HS cần được luyện tập trong các hoạt động, các
tình huống giao tiếp. Khi dạy Chính tả, dù nhấn mạnh yêu cầu viết nhưng cần
kết hợp các kỹ năng nghe, đọc để học sinh phát triển hoàn thiện.
b) Rèn luyện kỹ năng viết chính tả
Chúng ta biết rằng, chữ viết là hệ thống kí hiệu ngôn ngữ bằng đồ hình,
được quy định thống nhất ở từng quốc gia. Để biết được chữ người viết phải
nắm được mẫu chữ, nắm được các thao tác viết, các loại nét chữ, nắm được các
quy tắc, các quy luật chính tả… nhằm viết đúng và thành thạo chữ viết Tiếng
Việt.
Với phân môn Chính tả, chỉ có thể hình thành được cho HS các kỹ năng,
kỹ xảo chính tả thông qua quá trình thực hành, luyện tập vì tính chất nổi bật của

phân môn Chính tả là tính chất thực hành. Việc rèn luyện kỹ năng viết chính tả
có hiệu quả thấp hay cao phụ thuộc vào việc GV tổ chức cho HS quá trình rèn
luyện như thế nào để HS nắm được các quy tắc, thủ thuật chính tả. Quá trình đó
sẽ có kết quả tốt nếu GV sử dụng hệ thống bài tập chính tả trong quá trình dạy
học. Qua việc thực hiện các bài tập chính tả kỹ năng viết chính tả sẽ dần dần
hình thành ở HS. Các em sẽ nắm được các quy tắc chính tả, luyện tập nhiều giúp
17
các em nhớ được các từ ngữ, các âm, vần dễ viết sai, dễ lẫn lộn, từ đó giúp các
em viết thông viết thạo hơn.
Ngoài việc rèn luyện kỹ năng viết chính tả cho HS, Chính tả còn góp phần
rèn luyện cho các em các phẩm chất như tính cẩn thận, có thẩm mỹ, bồi dưỡng
các em lòng yêu quý tiếng Việt và chữ viết tiếng Việt.
1.3. Vị trí, tính chất của dạy học chính tả ở trường Tiểu học
Bốn hoạt động vô cùng quan trọng trong hoạt động ngôn ngữ của con người
là nghe, nói, đọc và viết. Xét dưới góc độ chức năng giao tiếp thì nói và viết là
hoạt động tạo lập lời nói, còn nghe và đọc là hoạt động tiếp nhận lời nói. Còn
xét dưới góc độ phương diện giao tiếp thì nghe và nói là hoạt động bằng âm
thanh, đọc và viết là hoạt động bằng chữ viết. Cả bốn hoạt động này luôn có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, thực hiện hoạt động này là tiền đề thực hiện các hoạt
động kia và ngược lại. Tuy nhiên, ở trong mỗi hoạt động lại có những đặc điểm
riêng, giữ vị trí riêng trong hoạt động chung của mỗi con người cũng như trong
dạy học ở nhà trường, trong đó chính tả là một kỹ năng vô cùng quan trọng là
rèn luyện cho HS.
Trong thực tiễn dạy học Chính tả cùng với tập viết, tập đọc, tập nói giúp
cho người đọc chiếm lĩnh được Tiếng Việt văn hóa, công cụ để giao tiếp, tư duy
và học tập. Từ đó hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng tiếng Việt (đặc
biệt là kỹ năng viết) góp phần rèn luyện cho HS thao tác tư duy cơ bản, cung cấp
cho HS những hiểu biết sơ giản về tự nhiên xã hội để góp phần giáo dục và hình
thành nhân cách cho HS.
Ngoài ra, Chính tả còn có vị trí hết sức quan trọng là rèn cho HS biết quy

tắc chính tả và có thói quen viết chữ, ghi tiếng Việt đúng và chuẩn. Đồng thời
khi HS hình thành được kỹ năng đọc thông viết thạo là một tiền đề quan trọng
trong việc lĩnh hội kho tàng tri thức và văn hóa của nhân loại được lưu trữ và ghi
lại trong sách vở. Đối với HS Tiểu học, viết là điều kiện để các em học tập các
môn học khác trong chương trình.
Như vậy, rõ ràng việc viết nói chung và việc sửa lỗi chính tả nói riêng có vị
trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động làm giàu tri thức của các em. Việc viết
18
đúng chính tả không chỉ đơn giản là viết để viết, viết xong để đấy mà sâu hơn
nữa còn phải giúp các em hiểu được nội dung văn bản, biết được mình đang diễn
đạt những gì và cần viết cái gì để thấy được cái hay, cái đẹp trong câu chữ, trong
ngôn ngữ Tiếng Việt và hiểu được ý nghĩa của chúng.
Tính chất nổi bật của phân môn Chính tả là tính thực hành. Chỉ có thể hình
thành các kỹ năng, kĩ xảo chính tả cho HS thông qua việc thực hành, luyện tập. Do
đó, trong phân môn này các quy tắc chính tả, các đơn vị kiến thức mang tính chất lí
thuyết không được bố trí trong tiết dạy riêng mà dạy lồng trong hệ thống bài tập
chính tả.
1.4. Đặc điểm ngôn ngữ tiếng Việt và phương ngữ Quảng Bình liên quan
đến chính tả
1.4.1. Đặc điểm ngôn ngữ tiếng Việt liên quan đến chính tả
Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập - âm tiết
tính trong hệ thống các đơn vị ngữ âm tiếng Việt, các âm tiết được tách bạch rõ
ràng trong khi nói, vì thế khi viết, các chữ biểu thị âm tiết được viết rời, cách
biệt nhau.
Ví dụ : Ai về thăm mẹ quê ta (6 âm tiết)
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm… ( 8 âm tiết)

Mỗi âm tiết tiếng Việt đều mang một thanh điệu nhất định. Khi viết chữ
phải đánh dấu ghi thanh điệu lên âm chính (hoặc bộ phận chính, đối với âm
chính là nguyên âm đôi) của âm tiết.

Âm tiết tiếng Việt có cấu trúc chặt chẽ, cố định. Tính chặt chẽ này thể
hiện ở chỗ âm tiết nào cũng phải có thanh điệu và nguyên âm làm âm chính
trong vần. Mỗi một vị trí chỉ có một yếu tố. Vị trí của các yếu tố trong âm tiết cố
định, không thể tùy tiện thay đổi. Thành phần cấu trúc âm tiết gồm : thành phần
siêu âm đoạn và thành phần âm đoạn. Song thành phần âm đoạn lại có thể chia
cắt tiếp tục ra các yếu tố nhỏ hơn. Không có âm tiết nào chỉ gồm một trong hai
thành phần cấu tạo trên.
19
Chẳng hạn: Từ “khoảng cách” gồm hai âm tiết. Mỗi âm tiết đều có thanh
điệu bao trùm lên toàn bộ (bộ phận siêu âm đoạn) đó là dấu hỏi và dấu sắc. Phần
còn lại có thể tiếp tục chia nhỏ nữa (bộ phận cấu tạo âm đoạn): khoảng, cách.
Âm tiết thường có nghĩa, có thể đứng một mình tạo nên từ hoặc kết hợp với
nhau với tư cách là hình vị để tạo nên từ. Vì vậy, đại đa số các âm tiết tiếng Việt
(tiếng) đều trùng với hình vị. [3, tr. 49]
Chẳng hạn : Khả năng hoạt động như từ đơn của các âm tiết tiếng Việt qua
một số ví dụ, thuộc:
+ Hiện tượng tách từ ghép để mỗi âm tiết tồn tại như một từ đơn có ý nhấn
mạnh: “ Cho con nào áo nào quà/ Cho củi con sưởi cho nhà con ngơi”
+ Hiện tượng tạo cách chơi chữ theo lối chiết tự : Có hội mà không có nghị,
có nghị mà không có quyết.
Tính đơn lập của âm tiết tiếng Việt không những được thể hiện trên lời nói
mà còn thể hiện thông qua chữ viết.
Chẳng hạn: Tiếng Việt: Tôi/ là/ Sinh viên
Tiếng Anh: I’m a student
Về cơ bản, chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm, nghĩa là mỗi âm vị được
ghi bằng một con chữ. Nói cách khác, giữa cách đọc và cách viết chính tả Tiếng
Việt đa số thống nhất với nhau. Đọc như thế nào thì sẽ viết như thế ấy. Song có
những trường hợp đặc biệt, một cách đọc nhưng có nhiều chữ viết khác nhau.
Điều đó gây khó khăn cho việc dạy chính tả, nhất là học sinh Tiểu học. Trong
giờ Chính tả HS sẽ xác định được cách viết đúng (đúng chính tả) bằng việc tiếp

nhận chính xác âm thanh của lời nói (Ví dụ: hình thức chính tả nghe – viết). Cơ
chế của cách viết đúng là xác lập được mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết.
Do có sự tương ứng trong cách sử dụng chữ cái (hoặc nhóm chữ cái) để ghi
lại các thành phần âm vị của cấu trúc âm tiết, nên muốn viết đúng chính tả, cần
viết đúng chữ cái (hoặc nhóm chữ cái) biểu hiện âm vị, và cần đặt đúng vị trí các
chữ cái trong tổ hợp chữ âm tiết. Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm, nghĩa là
mỗi âm vị chỉ được ghi bằng một chữ. Tuy nhiên, chữ viết tiếng Việt hiện nay
20
không đảm bảo sự tương ứng 1 – 1 giữa âm và chữ. Chẳng hạn, âm vị /k/ được
ghi bằng 3 chữ c, k, q; chữ g lại ghi 2 âm vị /z/ và /γ/.
Giữa đọc và viết, giữa Tập đọc và viết chính tả (chính tả nghe – viết) có
mối quan hệ mật thiết, nhưng lại có quy trình hoạt động trái ngược nhau. Nếu
Tập đọc là sự chuyển hoá văn bản viết thành âm thanh thì Chính tả lại là sự
chuyển hoá văn bản dưới dạng âm thanh thành văn bản viết. Tập đọc có cơ sở
chuẩn mực là chính âm còn Tập viết (viết chính tả) có cơ sở chuẩn mực là chính
tự (chính tự là sự biểu hiện của quy tắc chính tả ở một đơn vị (từ, …)). Một từ
xét về mặt chính tả được gọi là một chính tự.
Chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm nhưng trong thực tế, muốn viết
đúng chính tả, việc nắm nghĩa của từ là rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một
trong những cơ sở giúp người học viết đúng chính tả. Ví dụ, nếu GV đọc một từ
có hình thức ngữ âm là “za” thì HS có thể lúng túng trong việc xác định hình
thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu đọc gia đình hoặc da thịt hay ra vào (đọc
trọn vẹn từ, mỗi từ gắn với một nghĩa xác định) thì HS dễ dàng viết đúng chính
tả. Vì vậy có thể hiểu rằng chính tả tiếng Việt còn là loại chính tả ngữ nghĩa.
Đây là một đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả Tiếng
Việt mà khi dạy Chính tả, GV cần chú ý.
1.4.2. Đặc điểm phương ngữ Quảng Bình liên quan đến chính tả
Theo Hoàng Thị Châu “ Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ
sự biểu hiện của ngôn ngữ ở một địa phương cụ thể, với những nét khác biệt của
nó so với ngôn ngữ toàn dân hay một phương ngữ khác.” [6,tr. 24]. Ngôn ngữ

cũng như mọi hiện tượng xã hội khác nó đều không ngừng biến đổi, phương ngữ
là một biểu hiện của sự biến đổi đó.
Sự biến đổi của một ngôn ngữ được thể hiện trên từng phương ngữ về mặt
ngữ âm, từ vựng ngữ pháp. Chính sự biến đổi này đã tạo nên đặc điểm riêng của
từng phương ngữ làm nên sự đa dạng của ngôn ngữ trong thể hiện.
Quảng Bình nằm trên dải đất miền Trung ở vào khoảng từ 16
0
55- 18
0
05 vĩ
độ Bắc. 105
0
37- 106
0
39 kinh độ Đông. Về phía Bắc, dãy Hoành Sơn chạy từ
Tây sang Đông ngăn cách Quảng Bình với Hà Tĩnh. Phía Nam Quảng Bình giáp
21
với Quảng Trị, phía Tây giáp với dãy Trường Sơn hùng vĩ là biên giới giữa Việt
Nam và Lào, phía Đông giáp với biển Đông.
Địa thế Quảng Bình tương đối hẹp, là vùng đất trải qua nhiều biến động dữ
dội của lịch sử, có một quá trình hình thành và phát triển khá phức tạp. Quảng
Bình có các di tích lịch sử của người Chăm, người Việt. Chính vì vậy đã tạo nên
vốn từ khá phong phú và đa dạng. Tỉnh Quảng Bình có 6 huyện : Lệ Thủy,
Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa và một Thành phố:
Thành phố Đồng Hới.
Dân số Quảng Bình phần lớn cư dân địa phương là người Kinh. Dân tộc ít
người thuộc hai nhóm chính là Chứt và Bru-Vân Kiều gồm những tộc người
chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân Kiều, Mày, Arem, sống tập trung ở
hai huyện miền núi Tuyên Hoá và Minh Hoá và một số xã miền Tây Bố Trạch,
Quảng Ninh, Lệ Thuỷ. Từ đó tạo nên bức tranh phương ngữ ở Quảng Bình rất

đa dạng.
Dựa vào ý kiến thống nhất của các nhà nghiên cứu cho rằng Việt Nam có 3
phương ngữ lớn: phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ Nam, dựa
vào những đặc điểm vị trí địa lí của tỉnh Quảng Bình, tiếng nói của người dân
Quảng Bình thuộc phương ngữ Bình Trị Thiên nằm trong vùng phương ngữ
miền Trung.
Theo tác giả Hoàng Thị Châu trong công trình “Tiếng Việt trên các miền
đất nước” (Phương ngữ học) sau khi nêu ý kiến của mình về việc chia tách
Tiếng Việt thành 3 vùng phương ngữ lớn, tác giả đã nêu lên những nhận xét khái
quát về mỗi phương ngữ. Và chia tách phương ngữ lớn thành các phương ngữ
nhỏ căn cứ trên các đặc điểm ngữ âm của từng vùng. Đối với phương ngữ miền
Trung, tác giả đã chia ra 3 phương ngữ nhỏ, dựa trên sự khác biệt về thanh điệu.
+ Phương ngữ Thanh Hóa: lẫn lộn giữa thanh hỏi và thanh ngã (phát âm
không phân biệt) nhưng các thanh khác lại giống với phương ngữ miền Bắc.
+ Phương ngữ Nghệ Tĩnh không phân biệt thanh ngã với thanh nặng. Cả 5
thanh tạo thành một hệ thống thanh điệu khác nhau với phương ngữ miền Bắc ,
có độ trầm lớn hơn.
22
+ Phương ngữ Bình Trị Thiên không phân biệt thanh hỏi với thanh ngã.
Nhưng về mặt điệu tính các thanh lại giống với thanh điệu Nghệ Tĩnh.
Về phụ âm đầu, các thổ ngữ ở Bình Trị Thiên còn giữ 7 phụ âm đó là: [ j,
tl, b’, d’, c’, k’, p ]. Sự tồn tại của 7 phụ âm đầu nói trên cùng với khả năng kết
hợp giữa chúng đã làm rõ hơn sự khác biệt giữa phương ngữ Bình Trị Thiên với
tiếng phổ thông và các phương ngữ khác Sự có mặt của âm [j] kéo theo sự
vắng mặt của phụ âm [η] trong hệ thống phụ âm đầu của các thổ ngữ ở vùng
này đã tạo thành nét đặc trưng của phương ngữ Bình Trị Thiên. Ở tỉnh Quảng
Bình, đặc biệt vùng Cảnh Dương hay lẫn lộn giữa tr/ch
Các thổ ngữ Bình Trị Thiên có 19 phụ âm đầu giống tiếng phổ thông là [ t,
s, z, b, m, v, t, d, n, s, l, t, c, k, x, π, γ, η, h ]. Trong các phụ âm đó chỉ có phụ âm
[η] là hầu như đồng nhất hoàn toàn với phụ âm [η] của tiếng phổ thông còn 18

phụ âm khác đều có những nét khác biệt nhất định.
Về phần vần, thổ ngữ ở Bình Trị Thiên cũng có những nét khác biệt rất lớn so
với vần của tiếng phổ thông. Sự có mặt của 35 vần hoàn toàn không có trong tiếng
phổ thông đã nâng số vần của các thổ ngữ Bình Trị Thiên lên 183 vần.
Về thanh điệu, trừ một vài thổ ngữ có 4 thanh như ở các xã: Hạ Trạch, Bắc
Trạch (Bố Trạch), Hương Hóa (Tuyên Hóa), các thổ ngữ này đều không có
thanh điệu với những nét võng, tức là không có hai thanh hỏi và ngã. Thanh
nặng của thổ ngữ Hạ Trạch và Bắc Trạch tương ứng với cả thanh nặng, thanh
hỏi và thanh ngã của tiếng phổ thông. Ví dụ: Thổ ngữ Hạ Trạch : ba tương ứng
với tiếng phổ thông: bã mía/bả vai/bậy bạ. Do có tình hình tương ứng về thanh
điệu như vậy nên HS Hạ Trạch, Bắc Trạch thường không phân biệt được dấu
hỏi, dấu ngã với dấu nặng.
Còn các thổ ngữ khác đều có 5 thanh là: thanh ngang, thanh huyền, thanh
sắc, thanh nặng và thanh hỏi. Phẩm chất của 5 thanh trong các thổ ngữ ở Quảng
Bình không hoàn toàn đồng nhất với 5 thanh tương ứng trong tiếng phổ thông.
[11, tr. 174]
Trái với phụ âm đầu và vần, sự khác biệt giữa phương ngữ nơi đây và tiếng
phổ thông thể hiện rõ nhất ở số lượng thanh điệu bị giảm, tức là không có thanh
23
ngã trong hệ thống thanh điệu. Đây cũng là nét khác biệt chung của các phương
ngữ miền Trung và miền Nam so với tiếng phổ thông. Về thanh có các lỗi phát
âm địa phương như sau: lẫn thanh hỏi và thanh ngã (Đồng Hới), không phân biệt
thanh ngã và thanh huyền (Quảng Xuân - Quảng Trạch), thanh ngã và thanh hỏi
bị biến thành thanh nặng (Hạ Trạch - Bố Trạch), lẫn lộn thanh sắc và thanh
huyền (Quảng Xuân- Quảng Trạch).
Về ngôn ngữ Quảng Bình thì con người nơi đây luôn “một lòng chung
thủy” với thứ ngôn ngữ sinh ra đã có trên mảnh đất này. Có những người từ nhỏ
lớn lên không bước chân ra khỏi làng nên sự bảo toàn phương ngữ ban đầu là
một điều chắc chắn. Ít có nơi đâu có thể tìm đọc được những câu như : “nồi đất
nấu ếc” , “cá tréc nấu keng”, “cơm đẻo, thịt đai”. Những từ ngữ địa phương

được sử dụng phổ biến như: mô, mần, nhọc, cẳng, tra, và việc phát âm sai các
vần và đặc biệt là dấu thanh của người dân Quảng Bình trong khi nói và viết
cũng rất phổ biến. Như vậy, phương ngữ Quảng Bình có nhiều đặc điểm khác
biệt so với các vùng miền khác. Nó vừa là điểm thuận lợi đồng thời cũng lại gây
không ít khó khăn cho HS ở đây trong quá trình tiếp nhận ngôn ngữ Tiếng Việt
chuẩn. Hiện nay tình hình viết sai chính tả ở Quảng Bình rất đáng báo động. Rõ
ràng, muốn dạy chính tả có hiệu quả cho HS từng vùng trước hết cần phải xây
dựng một chương trình chính tả thích hợp. Có những biện pháp thiết thực nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học chính tả cho HS Tiểu học trên cả nước nói
chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng.
1.5. Đặc điểm tâm sinh lý của HS Tiểu học (liên quan đến rèn luyện kỹ năng
viết chính tả)
Bậc Tiểu học là một giai đoạn học tập mới của trẻ. Từ đây, trẻ phải làm
quen với một hoạt động mang tính kế hoạch có trách nhiệm, đòi hỏi HS phải làm
việc có tổ chức, có mục đích. Đó là một hoạt động có ý thức. Sự chuyển đổi hoạt
động chủ đạo này tác động lớn đến tâm sinh lí của trẻ. Vì thế, nếu không có kiến
thức về lứa tuổi nói chung và ở trẻ Tiểu học nói riêng thì không thể thực hiện tốt
mục tiêu dạy học ở Tiểu học được.
24
Trong nhà trường Tiểu học, HS không chỉ là đối tượng được giáo dục mà
còn là chủ thể nhận thức, chủ động phát huy vai trò tích cực của mình để chiếm
lĩnh kiến thức, rèn luyện kỹ năng và thông qua đó hình thành nhân cách con
người phát triển một cách toàn diện. Nếu như HS là đối tượng của hoạt động học
thì GV là đối tượng của hoạt động dạy. GV đóng vai trò chủ đạo trong việc tổ
chức, định hướng hoạt động học tập của HS. Như vậy, để nâng cao chất lượng
và hiệu quả của dạy học cần phải chú ý đến đặc điểm tâm lí của HS ở lứa tuổi
này.
Các nhà khoa học đã chỉ rõ rằng về mặt sinh lí, ở trẻ Tiểu học, khối lượng
bộ não đã đạt tới 90%. Sự chín muồi về mặt sinh lí cùng với sự phát triển của
những quá trình tâm lí (như tri giác, trí nhớ, tư duy, chú ý…) đã tạo điều kiện để

các em thực hiện được hoạt động học tập. Tuy vậy, ở giai đoạn HS Tiểu học, các
cơ quan của cơ thể chưa phát triển đầy đủ, khả năng mã hóa các đơn vị ngôn
ngữ âm thanh thành chữ viết còn chậm, viết thiếu từ hay mắc một số lỗi như lỗi
không nắm vững chính tự (viết nhầm các phụ âm đầu: tr/ch, s/x…), lỗi không
nắm vững cấu trúc âm tiết của tiếng Việt, không hiểu cấu trúc nội bộ của âm tiết
tiếng Việt… Thêm nữa, do hệ thần kinh phát triển chưa ổn định nên các em dễ
bị phân tán bởi các điều kiện ngoại cảnh.
Học sinh Tiểu học thường hiếu động, chóng nhớ, chóng quên, do đó GV
cần hình thành cho các em các kĩ xảo chính tả. Trong tâm lí học, khái niệm kỹ
xảo được hiểu là “những yếu tố tự động hóa của hoạt động ý thức, được sinh ra
trong quá trình thực hiện hoạt động đó…”. Hình thành cho HS kỹ xảo chính tả
nghĩa là giúp HS viết đúng chính tả một cách tự động hóa, không cần trực tiếp
nhớ tới các quy tắc chính tả, không cần tới sự tham gia của ý chí. Để thực hiện
được, có thể tiến hành bằng hai con đường: có ý thức và không có ý thức. Với
cách không có ý thức thường tốn thời gian, công sức, GV phải luyện cho HS
thường xuyên, qua đó củng cố trí nhớ máy móc ở mức độ nhất định. Với cách có
ý thức, GV cần cho HS bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc các “mẹo” chính
tả. Nội dung kiến thức phải bắt đầu từ dễ đến khó, tránh nhàm chán mà phải học
mà chơi chơi mà học. Thông qua luyện tập dần dần hình thành các kỹ xảo chính
25
tả bằng con đường có ý thức, đó là con đường ngắn nhất, có hiệu quả cao. Cần
vận dụng cả hai con đường để rèn luyện chính tả cho HS Tiểu học. Trong đó,
con đường dạy không có ý thức chủ yếu thực hiện ở các lớp đầu cấp còn con
đường có ý thức nên thực hiện ở các lớp cuối cấp.
Từ những cơ sở tâm lí trên khiến cho việc lựa chọn nội dung, hình thức các
bài Chính tả trong chương trình Tiếng Việt cũng chịu sự chi phối căn bản.
Người GV phải đặc biệt quan tâm đến đặc điểm tâm lí của HS lứa tuổi này để
nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học nói chung và chính tả nói riêng. Đồng
thời, cần có những biện pháp dạy học tích cực, hình thức dạy học phong phú
phát huy trí lực của HS, nhằm đạt kết quả dạy học cao nhất.

1.6. Khái quát về chương trình (phân môn) Chính tả ở Tiểu học
Trước những thay đổi quan trọng về kinh tế – xã hội trên thế giới và trong
nước đòi hỏi ngành giáo dục cũng phải có những đổi mới về chương trình và sách
giáo khoa giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục Tiểu học nói riêng.
Để đáp ứng được yêu cầu trên, từ những năm học 2002 – 2003, chương
trình và sách giáo khoa Tiểu học mới, bắt đầu đưa vào dạy học đại trà trong cả
nước, thay thế cho chương trình dạy học cũ (chương trình 165 tuần).
Cho đến nay bộ sách giáo khoa theo chương trình mới, từ lớp 1 đến lớp 5
đã hoàn tất, cả nước sử dụng duy nhất một nội dung, chương trình sách giáo
khoa là chương trình Tiểu học mới. Môn Tiếng Việt cũng có nội dung chương
trình cụ thể cho mỗi phân môn.
Chương trình phân môn Chính tả ở Tiểu học bao gồm:
- Lớp 1:
Từ tuần 23 đến tuần 35, mỗi tuần có 2 tiết chính tả, chủ yếu là Tập chép,
cuối năm có một số bài Nghe – viết để chuẩn bị cho HS bước vào lớp 2.
+ Bài học chính tả lớp 1 bắt đầu từ trang 46 đến trang 168, SGK Tiếng
Việt 1, tập theo các chủ điểm: Nhà trường - Gia đình – Thiên nhiên – Đất nước.
Yêu cầu: Các bài chính tả có sự tăng dần về độ dài, kết hợp trong bài chính
tả các bài tập để rèn luyện khả năng viết các vần khó, các chữ mở đầu bằng

×