Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng viết chính tả cho học sinh dân tộc Tày trường tiểu học xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 59 trang )

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

GV: Giáo viên
HS: Học sinh
SGK: Sách giáo khoa
GD – ĐT: Giáo dục và đào tạo
DTTS: Dân tộc thiểu số
HSDT: Học sinh dân tộc
TMĐ: Tiếng mẹ đẻ
TV: Tiếng Việt
VD: Ví dụ
NXB: Nhà xuất bản


MỤC LỤC

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
3.1. Mục đích nghiên cứu 3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu 4
4.2. Khách thể nghiên cứu 4
5. Giả thiết khoa học 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
7. Cấu trúc đề tài 5
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG 6
CHƢƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 6
1.1. Cơ sở lí luận 6


1.1.1. Vị trí tính chất của việc dạy học chính tả ở nhà trường tiểu học 6
1.1.2. Nhiệm vụ của dạy chính tả ở trường tiểu học 8
1.1.3. Cơ sở khoa học của việc dạy học chính tả 10
1.2. Cơ sở thực tế 13
1.2.1. Điều kiện thực tiễn của trường 13
1.2.2. Khó khăn 14
1.2.3 Thực trạng dạy - học chính tả trong nhà trường 15
1.2.4. Khảo sát thực trạng mắc lỗi chính tả của học sinh dân tộc Tày trường Tiểu
học xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang 19
TIỂU KẾT 27
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT
CHÍNH TẢ CHO HSDT TÀY TRƢỜNG TIỂU HỌC XÃ THƢỢNG LÂM,
HUYỆN LÂM BÌNH, TỈNH TUYÊN QUANG 28
2.1. Giáo dục cho HS về tầm quan trọng của chính tả 28
2.2. Rèn luyện kĩ năng phát âm đúng 28
2.2.1. Khắc phục về lỗi phụ âm đầu 29
2.2.2. Khắc phục về lỗi phần vần 30
2.2.3. Khắc phục lỗi về thanh điệu 31
2.3. Tạo môi trường học Tiếng Việt trong nhà trường 33
2.3.1. Tạo cảnh quan Tiếng Việt trong và ngoài lớp học 33
2.3.2. Tăng cường hoạt động giao tiếp 34
2.4. Cách sử dụng quy tắc viết hoa 36
2.4.1. Quy tắc viết hoa tên người 36
2.4.2. Quy tắc viết hoa địa danh 37
2.4.3. Quy tắc viết hoa tên các cơ quan, tổ chức chính trị, xã hội 37
2.4.4. Quy tắc viết hoa trong phép đặt câu, viết hoa tỏ thái độ kính trọng, viết
hoa tên riêng của các sự vật khác 37
2.4.5. Viết hoa các trường hợp khác 38
2.4.6. Hướng dẫn HS thực hiện quy tắc viết hoa trong giờ chính tả 38
2.5. Tạo hứng thú học tập và phát huy tính chủ động tích cực của HS trong dạy

học chính tả 39
2.6. Sử dụng các mẹo luật, quy tắc chính tả 41
TIỂU KẾT 45
CHƢƠNG 3: THỂ NGHIỆM SƢ PHẠM 46
3.1. Mục đích thể nghiệm sư phạm 46
3.2. Đối tượng, thời gian, địa bàn thể nghiệm 46
3.2.1. Đối tượng thể nghiệm 46
3.2.2. Địa bàn thể nghiệm 46
3.2.3. Nội dung, phương pháp thể nghiệm 46
3.2.4. Kết quả thể nghiệm 51
TIỂU KẾT 53
PHẦN KẾT LUẬN 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56


1
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Đảng ta đã nhận định " Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống
giáo dục quốc dân", nền tảng có vững chắc thì toàn hệ thống mới tạo nên cấu
trúc bền vững và phát triển hài hòa.
Mục tiêu của giáo dục tiểu học nhằm hình thành cho học sinh cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về trí tuệ, thể chất, tình cảm và các kĩ
năng cơ bản. Giáo dục tiểu học tạo tiền đề cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở
ban đầu hết sức quan trọng để tạo thế hệ trẻ trở thành người có ích trong giai
đoạn mới.
Ở tiểu học, Chính tả là một phân môn đặc biệt quan trọng nhằm thực
hiện mục tiêu của môn học Tiếng Việt là rèn luyện kĩ năng viết chính tả và kĩ
năng nghe cho học sinh. Kết hợp rèn luyện một số kĩ năng sử dụng tiếng Việt

và phát triển tư duy cho học sinh.
1.2. HSDT khi tới trường mới bắt đầu tiếp xúc, làm quen và học tập bằng
một ngôn ngữ hoàn toàn mới là tiếng Việt. Các em không có thời gian để học
nói TV trước, cũng không có điều kiện để tiếp xúc để được mọi người xung
quanh dạy nói một cách tự nhiên như HS người Kinh. Ngay từ khi tới trường,
các em phải học đồng thời cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Các em phải làm
quen với một hệ thống âm không hoàn toàn giống với tiếng mẹ đẻ.
Thực tế áp dụng những yêu cầu trên vào giảng dạy tiếng Việt nói chung và
phân môn Chính tả nói riêng ở các trường tiểu học tỉnh Tuyên Quang còn gặp
nhiều khó khăn. Điều đó cũng ảnh hưởng nhiều đến việc học tập các môn học
khác. Nếu không có những biện pháp khắc phục kịp thời thì sẽ làm mất đi sự
thống nhất của tiếng Việt.
Lâm Bình là một huyện xa nhất của tỉnh Tuyên Quang. Lâm Bình có 5
dân tộc anh em cùng sinh sống, nhưng chủ yếu là người dân tộc thiểu số nên HS
và người dân chịu ảnh hưởng của phương ngữ. Tâm lí HSDT rụt rè hay xấu hổ,
các em chưa có thói quen nói TV nên thường ngại nói, khi có cơ hội các em
thường quay về với tiếng mẹ đẻ quen thuộc của mình, kể cả trong lớp học.


2
HSDT vì chưa làm chủ được TV nên thiếu chủ động, thường thụ động trả lời
câu hỏi, không mấy khi dám đặt câu hỏi.
1.3. Được sinh ra và lớn lên tại Lâm Bình tôi thấy các em HS người dân
tộc trong quá trình học tập và sử dụng ngôn ngữ hàng ngày còn mắc nhiều lỗi
chính tả mà nguyên nhân chủ yếu là do trước khi vào bậc tiểu học, HS thường sử
dụng tiếng địa phương quá nhiều. Để có một số biện pháp sửa lỗi chính tả cho
HS dân tộc Tày trường Tiểu học Thượng Lâm với mục đích là để nâng cao chất
lượng viết đúng, viết đẹp cho HS chúng tôi mạnh dạn chọn nội dung “ Một số
biện pháp rèn luyện kĩ năng viết chính tả cho học sinh dân tộc Tày trường
tiểu học xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang”. Để làm đề tài

nghiên cứu, cũng là nêu lên thực tế và biện pháp khắc phục các lỗi đó, không
ngoài mong muốn là đưa các em HS người dân tộc thu hẹp khoảng cách về nhận
thức đối với HS là người dân tộc Kinh.
2. Lịch sử vấn đề
Thực tiễn đề tài này, các tác giả đã quan tâm nghiên cứu các công trình sau:
Cuốn “Chữ viết và dạy Chữ viết ở tiểu học” Lê A (1982), NXB ĐHSP, tác
giả đã đề cập tới vị trí, tính chất, nhiệm vụ của phân môn Chính tả ở tiểu học, cơ
sở khoa học của việc dạy học chính tả, chương trình SGK dạy chính tả.
“Dạy học chính tả ở tiểu học” Hoàng Văn Thung, Đỗ Xuân Thảo (1995),
NXB GD, tác giả đã đề cập đến khái niệm chính tả, vị trí của phân môn Chính
tả, những nhiệm vụ và mục tiêu của phân môn Chính tả ở Tiểu học.
Cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học tiểu học” Bộ GD-ĐT, dự án phát
triển GV tiểu học, NXB GD, Hà Nội, (2005), tác giả đã chỉ ra những đổi mới
trong nội dung và phương pháp bài dạy phân môn chính tả theo chương trình
sách giáo khoa mới. Nắm được bản chất và phương pháp dạy học chính tả
theo hướng tích cực hóa hoạt động của HS.
Cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt cho HS dân tộc cấp Tiểu học’’ Bộ
GD -ĐT, dự án phát triển GV tiểu học, NXB GD, Hà Nội (2006), tác giả đã đề
cập tới những mục tiêu cơ bản của dạy môn Chính tả cho HS dân tộc thiểu số,
chỉ ra một hạn chế trong việc thực hiện các yêu cầu phân môn Chính tả ở vùng


3
dân tộc. Tài liệu còn đề cập đến những nguyên nhân cơ bản nhất của việc mắc
lỗi chính tả của HS dân tộc thiểu số.
Cuốn “Vui học tiếng Việt”-Trần Mạnh Hưởng, tập 1(2002), NXB-GD, tác
giả nhấn mạnh những kiến thức tiếng Việt cơ bản giúp HS luyện tập thành thạo
các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, các em sẽ suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt trong
sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của dân tộc.
Vận dụng sáng tạo, linh hoạt những hiểu biết đã có vào xây dựng kế hoạch

bài dạy của phân môn Chính tả theo hướng phát huy tính tích cực của HS. Thực
hành kế hoạch bài dạy đạt hiệu quả, thể hiện sự nắm vững kiến thức đã thu nhận
được nhằm chủ động sáng tạo, có ý thức vận dụng phương pháp dạy học tích cực
vào thực tế giảng dạy.
Các công trình nghiên cứu trên là những tiền đề lí luận quý báu để tác
giả thực hiện đề tài : “ Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng viết chính tả cho
học sinh dân tộc Tày trường tiểu học xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình,
tỉnh Tuyên Quang".
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân môn Chính tả là phân môn đặc biệt quan trọng trong chương trình tiểu
học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng. Song chất lượng dạy học chính tả ở
tiểu học còn ở mức thấp, biểu hiện chung nhất của tình trạng đó là: Tình trạng
mắc lỗi chính tả của HS còn phổ biến, nhất là các em HS dân tộc thiểu số ở các
trường học vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, miền núi.
Thực hiện đề tài này, tác giả hy vọng đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng
viết chính tả hiệu quả cho HS dân tộc Tày trường Tiểu học xã Thượng Lâm,
huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy
học chính tả cho HS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tiến hành đề tài tác giả thực hiện nhiệm vụ:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học chính tả ở
trường Tiểu học nói chung.


4
- Khảo sát, thống kê phân loại lỗi, chỉ ra thực trạng mắc lỗi, nguyên nhân mắc
lỗi của HS trường Tiểu học xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang.
- Đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng viết chính tả cơ bản cho HSDTTS.
- Tiến hành thiết kế giáo án và dạy thể nghiệm.

- Tổng hợp, so sánh, đối chiếu kết quả bước đầu thể nghiệm và rút ra tính
khả thi của vấn đề nghiên cứu.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng viết chính tả cho học sinh dân tộc Tày
trường Tiểu học xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Do khả năng và thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ tiến hành điều tra, khảo
sát và thực nghiệm trên HS dân tộc Tày của trường Tiểu học xã Thượng Lâm,
huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang.
5. Giả thiết khoa học
Sửa lỗi cho HS nói chung và nhất là cho học sinh dân tộc Tày nói riêng còn
gặp nhiều khó khăn. Đây là vấn đề được nhiều GV tiểu học miền núi Tuyên
Quang quan tâm. Nên chúng tôi giả định rằng nếu xây dựng được một số biện
pháp sửa lỗi chính tả một cách khoa học sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy
học chính tả cho HS dân tộc Tày nói riêng và trong nhà trường tiểu học nói
chung. Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên khoa Tiểu học –
Mầm non trường Đại học Tây Bắc.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc tham khảo tài liệu, phân tích, tổng hợp khái quát hóa các vấn đề tài
liệu có liên quan để làm cơ sở lí luận cho đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu.
- Phương pháp trắc nghiệm.


5
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để thống kê và phân loại lỗi chính tả
cơ bản HS dân tộc Tày thường mắc phải, nắm được thực trạng, nguyên nhân

mắc lỗi để từ đó đề xuất biện pháp khắc phục.
6.3. Phương pháp toán học
Sử dụng thống kê để xử lí thông tin, số liệu.
6.4. Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm
Tổng kết, đánh giá kết quả của đề tài và những mặt còn hạn chế, rút kinh
nghiệm.
6.5. Phương pháp thể nghiệm
Trên cơ sở đưa ra những biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho HS dân tộc
Tày trường Tiểu học xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang
chúng tôi đã tiến hành thiết kế và dạy thể nghiệm.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận nội dung chính của đề tài được chia
làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Phần đầu giới thiệu một cách khái quát nhất hệ thống khái niệm cơ bản, vị
trí, tính chất, nhiệm vụ của phân môn Chính tả trong trường Tiểu học.
Phần cơ sở thực tiễn chúng tôi tiến hành tìm hiểu thực trạng dạy và học trong
nhà trường chỉ ra thực trạng mắc lỗi của HSDT Tày. Trên cơ sở đó làm nền tảng và
tiền đề cho vấn đề nghiên cứu cũng như làm cơ sở xây dựng biện pháp sửa lỗi
chính tả cho HS.
Chương 2: Biện pháp sữa lỗi chính tả cho HS
Trong chương 2 nghiên cứu tầm quan trọng của chính tả đối với học sinh
và đề xuất một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả giúp các em HSDT Tày có
cách học hiệu quả nhất và hạn chế được các lỗi chính tả.
Chương 3: Thể nghiệm sư phạm
Xác định mục đích, đối tượng, thời gian, địa điểm, nội dung và các phương
pháp thể nghiệm. Sau đó thiết kế và tiến hành dạy thể nghiệm, từ đó đánh giá
tính khả thi của đề tài nghiên cứu.



6
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Vị trí tính chất của việc dạy học chính tả ở nhà trường tiểu học
1.1.1.1. Chính tả là gì?
Chính tả là hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một
ngôn ngữ. Nói cách khác chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết được
thừa nhận trong ngôn ngữ toàn dân. Nó là phương tiện thuận lợi cho việc lưu
truyền thông tin, đảm bảo cho người viết, người đọc thống nhất những điều đã viết.
Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội bắt buộc gần như tuyệt
đối, nó không cho phép con người vận dụng quy tắc một cách linh hoạt có tính chất
sáng tạo.
Một ngôn ngữ văn hóa không thể không có chính tả thống nhất, chính tả
thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ không bị trở ngại giữa các địa
phương trong cả nước, cũng như giữa các thế hệ đời trước với đời sau.
Chính tả thống nhất là một trong những biểu hiện của trình độ văn hóa phát
triển của một dân tộc.
1.1.1.2. Thế nào là chuẩn chính tả?
Thật vậy muốn thống nhất được chính tả thì phải có chuẩn chính tả. Chuẩn
chính tả là việc chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Chuẩn chính tả phải
được quy định rõ ràng, chi tiết tới từng từ của tiếng Việt và phải được mọi người
tuân theo. Vấn đề đặt ra là chuẩn chính tả phải được xây dựng sao cho hợp lí, có
độ tin cậy và sức thuyết phục cao. Chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như
tuyệt đối, chẳng hạn không thể viết là “dáo dục, iêu ghét ” Mà phải viết là
“giáo dục, yêu ghét …”
Chuẩn chính tả có tính chất ổn định cao, rất ít thay đổi, thường giữ nguyên
trong thời gian dài nên thường tạo thành thói quen, tạo nên tâm lí trong lối viết
của người bản ngữ.

Mặc dù vậy, chuẩn chính tả không phải là bất biến, khi chuẩn chính tả đã
lỗi thời sẽ dần dần được thay thế bằng chuẩn chính tả mới.


7
VD: Chuẩn chính tả cũ: Đày tớ, trằm trồ
Chuẩn chính tả mới: Đầy tớ, trầm trồ …
Cũng như chuẩn ngôn ngữ khác chuẩn ngôn ngữ chính tả là kết quả của sự
lựa chọn giữa nhiều hình thức chính tả đang cùng tồn tại.
1.1.1.3. Vị trí, tính chất của dạy học chính tả ở trường tiểu học
Bốn hoạt động vô cùng quan trọng trong hoạt động ngôn ngữ của con
người là nghe, nói, đọc và viết. Xét dưới góc độ chức năng giao tiếp thì nói và
viết là hoạt động tạo lập lời nói, còn nghe và đọc là hoạt động tiếp nhận lời nói.
Còn xét dưới góc độ phương diện giao tiếp thì nghe và nói là hoạt động bằng âm
thanh, đọc và viết là hoạt động bằng chữ viết. Cả bốn hoạt động này luôn có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, thực hiện hoạt động này là tiền đề thực hiện các hoạt
động kia và ngược lại. Tuy nhiên, ở trong mỗi hoạt động lại có những đặc điểm
riêng, giữ vị trí riêng trong hoạt động chung của mỗi con người cũng như trong
dạy học ở nhà trường, trong đó chính tả là một kĩ năng vô cùng quan trọng là rèn
luyện cho HS.
Trong thực tiễn dạy học Chính tả cùng với Tập viết, Tập đọc, tập nói giúp
cho người đọc chiếm lĩnh được tiếng Việt văn hóa, công cụ để giao tiếp, tư duy
và học tập. Từ đó hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng tiếng Việt (đặc
biệt là kĩ năng viết) góp phần rèn luyện cho HS thao tác tư duy cơ bản, cung cấp
cho HS những hiểu biết sơ giản về tự nhiên xã hội để góp phần giáo dục và hình
thành nhân cách cho HS.
Ngoài ra, Chính tả còn có vị trí hết sức quan trọng là rèn cho HS biết quy
tắc chính tả và có thói quen viết chữ, ghi tiếng Việt đúng và chuẩn. Đồng thời
khi HS hình thành được kỹ năng đọc thông viết thạo là một tiền đề quan trọng
trong việc lĩnh hội kho tàng tri thức và văn hóa của nhân loại được lưu trữ và

ghi lại trong sách vở. Đối với HS Tiểu học, viết là điều kiện để các em học tập
các môn học khác trong chương trình.
Như vậy, rõ ràng việc viết nói chung và việc sửa lỗi chính tả nói riêng có vị
trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động làm giàu tri thức của các em. Việc viết
đúng chính tả không chỉ đơn giản là viết để viết, viết xong để đấy mà sâu hơn


8
nữa còn phải giúp các em hiểu được nội dung văn bản, biết được mình đang diễn
đạt những gì và cần viết cái gì để thấy được cái hay, cái đẹp trong câu chữ, trong
ngôn ngữ tiếng Việt và hiểu được ý nghĩa của chúng.
Chính tả mang tính chất thực hành. Thông qua luyện tập liên tục kết hợp với
việc ôn tập các quy tắc chính tả, HS sẽ có kĩ năng viết đúng các chữ ghi tiếng Việt.
Do đó không có tiết học quy tắc chính tả riêng, các quy tắc đều được học thông qua
các hoạt động thực tiễn để hình thành kỹ năng, kĩ xảo chính tả cho HS.
1.1.2. Nhiệm vụ của dạy chính tả ở trường tiểu học
1.1.2.1. Hình thành quy tắc và rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả
Chính tả có nhiệm vụ cơ bản là giúp HS nắm vững được quy tắc chính tả,
hình thành kĩ năng chính tả, kết hợp dạy học chính tả với rèn luyện kĩ năng
nghe, kĩ năng phát âm, củng cố vốn từ, trau dồi kiến thức và kĩ năng suy đoán
rèn luyện một số thao tác tư duy thay thế so sánh liên tưởng. Hay nói cách khác,
phân môn Chính tả có nhiệm vụ giúp HS hình thành năng lực và thói quen viết
đúng chính tả: Viết đúng chữ ghi âm đầu, âm chính, âm cuối, viết dấu thanh
đúng vị trí, tiến tới viết đẹp, viết nhanh, cụ thể là:
- Nét viết: Đều đứng (vuông góc với dòng kẻ). Mặc dù vậy các em vẫn có thể
viết chữ nghiêng và viết nét thanh nét đậm để chữ được thêm phong phú, đa dạng,
đẹp mắt.
- Kích thước chữ: Người ta lấy khoảng cách giữa hai dòng kẻ liền nhau làm
một đơn vị cự li để viết chữ. Căn cứ vào đơn vị cự li dòng kẻ người ta xây dựng
được cự li các chữ.

Độ cao chữ tiếng Việt (bao gồm chữ viết thường, viết hoa và chữ số)
Thứ nhất, mẫu các chữ viết thường:
+ Nhóm có độ cao 1 đơn vị: a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, i, u, ư, m, n, x, v.
+ Nhóm độ cao 1,25 đơn vị: r, s
+ Nhóm có độ cao 2 đơn vi: d, đ, p, q.
+ Nhóm có độ cao 2,5 đơn vị: b, g, h, k, l, y.
Thứ hai, mẫu chữ viết hoa:


9
+ Chiều cao của các chữ viết hoa là 2,5 đơn vị, riêng chữ Y và G được viết
cao 4 đơn vị.
Thứ ba, mẫu chữ số: Chiều cao của chữ số là 2 đơn vị.
- Vị trí dấu thanh:
Trong mỗi chữ, dấu thanh luôn đặt ở chữ ghi âm chính của vần. Trong
tiếng Việt có 6 dấu thanh: Thanh nặng, thanh huyền, thanh sắc, thanh ngã,
thanh hỏi, thanh ngang, trong đó một dấu thanh không là thanh ngang. Các
thanh đều được đặt trên các âm chính, riêng thanh nặng đặt dưới âm chính.
Trong các chữ ghi tiếng có bán âm đầu (âm đệm), thì dấu thanh cũng được
ghi ở âm chính (dù sau âm chính không có âm cuối vần).
VD: Túy, nhảy, ….
Trong các tiếng có nguyên âm đôi thì dấu thanh được ghi như sau: Nếu sau
nguyên âm đôi có âm cuối thì dấu thanh được ghi ở chữ thứ hai nguyên âm đôi.
VD: Chiếu, trước,……
Nếu nguyên âm đôi không có âm cuối thì dấu thanh được nghi ở chữ thứ
nhất nguyên âm đôi.
VD: Tía, mía, lửa, …
- Cách nhận biết tốt nhất về g và gh, ng và ngh.
Sự nhận biết tốt nhất là dựa vào khả năng kết hợp của chúng với nguyên
âm đứng trước các nguyên âm hàng trước (iê, i, e, ê ). Âm “gờ” viết là “gh”,

âm “ngờ” viết là “ngh”.
Khi đứng trước các nguyên âm hàng sau (o, ô, u, uô, a, ă , ).Âm “gờ”
viết là “g”, âm “ngờ” viết là “ng”.
1.1.2.2. Rèn cho HS một số phẩm chất tốt
- Tính kỉ luật, tính cẩn thận.
Bởi khi viết một bài chính tả, được thể hiện xong và hoàn chỉnh một bài
chính tả các em phải vận dụng năng lực của mình: Tai nghe, tay viết, đầu óc suy
nghĩ. Nghĩ làm sao để viết cho đúng quy tắc, nghe làm sao cho chuẩn từng câu,
từng chữ, viết là sao cho thật nắn nót, thật đẹp. Cho nên dạy chính tả cho HS là
rèn luyện tính kỉ luật, tính cẩn thận.


10
-Tính thẩm mĩ.
Ngoài ra, ta có thể thấy một bài chính tả hoàn chỉnh trước tiên phải được
viết hoàn thành và đúng quy tắc chính tả. Thứ hai, là phải đẹp vì viết chính tả là
phải viết ngay ngắn, thẳng hàng, đẹp đẽ. Chính vì vậy, chính tả còn giúp các em
nâng cao đầu óc thẩm mĩ.
-Tình yêu tiếng Việt
Bên cạnh đó, chính tả còn bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý tiếng Việt
và ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam.
1.1.3. Cơ sở khoa học của việc dạy học chính tả
1.1.3.1. Cơ sở tâm lí học
Mục đích của việc nghiên cứu cơ sở tâm lý học là hình thành năng lực viết
thành thạo, thành thục chữ viết tiếng Việt theo các chuẩn chính tả đến giúp hình
thành các kĩ xảo chính tả "kĩ xảo là những yếu tố tự động hóa của hoạt động có
ý thức được tạo ra trong quá trình thực hiện hoạt động đó " (định nghĩa của B.M
Chép.Lốp), việc hình thành kĩ xảo chính tả là giúp viết đúng chính tả một cách
tự động hóa không cần trực tiếp nhờ tới các quy tắc chính tả, không cần đến sự

tham gia của ý chí. Được chia thành hai con đường có ý thức và không có ý
thức trong dạy chính tả.
Cách không có ý thức (máy móc, cơ giới) dạy chính tả không cần đến sự
tồn tại quy tắc chính tả. Không cần hiểu mối quan hệ giữa các ngữ âm và chữ
viết, những cơ sở từ và ngữ pháp của chính tả, mà chỉ đơn thuần là việc viết
đúng từng trường hợp, từng từ cụ thể. Nhưng cách này thông thường chỉ áp
dụng cho những lớp đầu cấp. Chính vì vậy việc giảng dạy chính tả không có ý
thức có tồn tại một số hạn chế như: Tốn nhiều thời gian, công sức, không phát
triển được tư duy, chỉ củng cố trí nhớ máy móc ở một mức độ nhất định.
Bên cạnh đó, việc dạy chính tả còn bằng con đường có ý thức hay còn gọi
là ý thức tự giác. Bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc, các mẹo chính tả từ đó
tiến hành luyện tập và từng bước đạt kĩ xảo chính tả. Chính vì vậy con đường có
ý thức này được áp dụng ở những lớp cuối cấp và việc dạy chính tả một cách có


11
ý thức vừa tiết kiệm được thời gian, công sức, và là con đường ngắn nhất, có
hiệu quả nhất.
Để viết được chữ và viết đúng chính tả con người phải vận dụng hai yếu tố
chính đó là vận dụng cơ bắp và thao tác trí óc của người viết. Kĩ năng chính tả là
phối hợp thuần thục: Ngón tay, bàn tay, cổ tay, cánh tay để sử dụng bút thể hiện
đúng các chữ đảm bảo sự khu biệt và tốc độ chữ viết nhanh.
Hình thành kĩ năng chính tả là khẳng định vai trò của ý thức, sự thuần thục
của chính tả không phải là sự suy tính cần phải đặt những chữ cái phù hợp
những vị trí nào. Đành rằng đó cũng là kết quả dạy học cuối cùng đạt được tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là con đường hình thành kĩ xảo là con đường vô
thức theo A.I.Tôm.Xơn.
Kĩ năng chính tả là hoạt động có ý thức đạt tới mức tự động hóa một cách
tự giác mức độ thông thạo viết đúng các chữ cái ở mọi vị trí cần thiết của chúng,
nó phụ thuộc vào hoạt động cơ bắp và thần kinh của các bộ phận cơ thể trực tiếp

tham gia vào các hoạt động.
Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm, viết chính tả tiếng Việt chủ yếu là
ghi âm tiết thể hiện các thành phần âm vị đoạn tính hay siêu đoạn tính trong cấu
trúc âm tiết thành chữ các biểu tượng về âm tiết và cách viết các âm tiết.
Viết chính tả là sự tái tạo mẫu chữ, là kĩ năng hoạt động ghi nhớ các biểu
tượng về âm tiết và cách viết âm tiết.
HS Tiểu học thường hiếu động, chóng nhớ, chóng quên, do đó GV cần hình
thành cho các em kĩ xảo chính tả một cách tự động hóa, không cần phải nhờ đến
những quy tắc chính tả, không cần sự tham gia của ý chí. Để đạt điều này có thể
tiến hành theo hai cách: Có ý thức và không có ý thức, với cách không có ý thức
thường tốn thời gian, công sức, GV phải luyện cho HS thường xuyên qua đó
củng cố trí nhớ máy móc ở mức độ nhất định.
Với cách có ý thức, GV cần cho HS bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc,
các “mẹo” luật chính tả. Nội dung kiến thức phải bắt đầu từ dễ đến khó, tránh
nhàm chán mà phải học mà chơi chơi mà học. Thông qua luyện tập dần dần hình
thành những kỹ xảo chính tả bằng con đường có ý thức, đó là con đường ngắn


12
nhất, có hiệu quả cao. Cần vận dụng cả hai phương pháp để rèn luyện chính tả
cho HS tiểu học. Trong đó cách không có ý thức thường được sử dụng đối với
các lớp đầu cấp, cách có ý thức thường sử dụng ở các lớp cuối cấp.
1.1.3.2. Cơ sở ngôn ngữ học
Từ cơ sở tâm lí học đã nêu trên, để hạn chế được lỗi chính tả cho HS, người
GV cần nắm chắc, hiểu, vận dụng và giảng dạy cho HS một số nguyên tắc chính
tả tiếng Việt sau đây:
Một là: Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm.
Theo nguyên tắc này chính tả phải biểu hiện đúng âm hưởng của từ, phát
âm thế nào thì viết thế ấy.
Giữa cách đọc và cách viết phải thống nhất với nhau, được nghe đọc đúng

thì HS sẽ viết đúng. Bởi vậy tiếng Việt là chữ ghi âm vị nên nguyên tắc này là
nguyên tắc cơ bản nhất. Nó thể hiện ở chỗ: Cách viết của mỗi từ thể hiện đúng
âm cần đọc của từ. Quan hệ giữa âm và chữ là quan hệ 1-1 nguyên tắc này đòi
hỏi GV phải phát âm chuẩn thì HS mới viết đúng.Nếu với nguyên tắc này ở một
số địa phương phát âm lệch chuẩn, HS không thể dựa hoàn toàn vào cách phát
âm thực tế của địa phương nhất định nào đó vì phát âm sai lệch so với chính âm.
GV phải sửa chữa, vạch rõ cách phát âm sai lệch phương ngữ để các em hiểu rõ
và tự sửa chữa.
- Bắc bộ: Sai phụ âm đầu: Ch/tr, d/gi/r, c/k/q, l/n.
- Trung bộ: Sai thanh điệu: ( ?/ ~) ,( suy nghĩ, sạch sẽ)
Sai vần: Ie/yê, ươ/ưu, ( con hươu/con hiêu, uống rượu/uống riệu)
- Nam bộ: Sai vần: V/d (vô nam/dô nam), i/y. Hay đồng hóa hai âm cuối
n/ng (luôn luôn/ luôn luông), t/k (tuốt tuột/ tuốc tuộc), (bay nhảy/bay nhải).
Hai là: Nguyên tắc chính tả ngữ nghĩa: Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ
âm học nhưng trong thực tế muốn viết đúng chính tả việc nắm nghĩa của từ là cơ
sở giúp người học viết đúng chính tả.
VD: Nếu GV đọc một từ có hình thức ngữ âm là “za” thì HS có thể lúng
túng, khó xác định chữ viết nhưng nếu đọc trọn vẹn là “gia đình”, “da thịt” hay
“ra vào”… thì các em sẽ hiểu nghĩa các từ đó và viết đúng.


13
Ba là: Nguyên tắc chính tả có ý thức: Là loại chính tả nhằm phát hiện ra
quy tắc chính tả từ cơ sở đó mà viết đúng chính tả. HS cần nắm chắc một số quy
tắc làm căn cứ để viết đúng các từ, các chữ nằm trong phạm vi quy tắc mà
không cần gắng sức ghi nhớ cách viết của từng từ một. Dạy chính tả theo đường
này có những thuận lợi sau:
+ Khi nắm được các quy tắc chính tả các em sẽ nắm được cách viết đúng
mà không phải ghi nhớ máy móc.
+ Rút ngắn được thời gian rèn luyện, nhanh chóng hình thành các kĩ năng

kĩ xảo chính tả.
+ Qua so sánh, phân tích đối chiếu, khái quát hóa, trừu tượng hóa…. Từ đó
rút ra quy tắc chính tả, HS được rèn luyện khả năng tư duy.
VD 1: Chữ viết thể hiện của âm vị “k” khi nó đứng trước các nguyên âm hàng
trước (i, e, ê, yê ) thì được viết tắt là “k”. Khi nó đứng trước các nguyên âm hàng sau
(o, a, u, ô) thì được viết là “c”.Khi nó đứng trước âm đệm “u” thì được viết là “q”.
VD 2: Đứng trước các nguyên âm hàng trước (i, e, ê, yê) được viết là “gh”,
âm vị “y” được viết là “ngh”. Đứng trước các nguyên âm hàng sau (a, ă, â …)
viết là “g”, âm vị “y” viết là “ng”.
Từ cơ sở lí luận trên, để hạn chế lỗi chính tả cho HS GV cần nắm chắc các
quy tắc chính tả và phải có trình độ lí luận khoa học để áp dụng tốt vào thực tiễn.
1.2. Cơ sở thực tế
1.2.1. Điều kiện thực tiễn của trường
Lâm bình là một huyện xa nhất tỉnh Tuyên Quang, Lâm Bình có 5 dân tộc
anh em cùng sinh sống chủ yếu là người dân tộc thiểu số (Tày, Dao, H’mông, Pà
Thẻn) và người Kinh từ miền xuôi lên làm ăn và sinh sống tại địa bàn. Trong đó
đa số là người Tày chiếm đến 65%, các dân tộc còn lại chiếm 35%.
Trường Tiểu học xã Thượng Lâm nằm ở trung tâm xã với vị trí và giao thông
đi lại khá thuận lợi so với các trường trong huyện, công tác giáo dục cũng có nhiều
thuận lợi.


14
Trường có tổng diện tích mặt bằng 4000m2, năm học 2012-2013 nhà
trường có tổng số 11 lớp với tổng số 233 HS trong đó dân tộc 145 HS, dân tộc
H’Mông 30 HS, dân tộc Dao 20 HS, còn lại là số HS dân tộc khác .
Tổng số cán bộ giáo viên: 22 (nam 1), đảng viên 10, trong đó:
Ban giám hiệu: 2
Tổng phụ trách đội:1
GV chuyên: 3

GV đứng lớp: 16
Trình độ đào tạo 100% GVđạt trình độ trên chuẩn:
+ Giáo viên đạt trình độ Đại học: 5
+ Giáo viên đạt trình độ Cao đẳng: 9
+ Giáo viên đạt trình độ trung cấp: 5
Cùng với sự phát triển chung của xã hội, đời sống đồng bào dân tộc từng
bước được cải thiện. Các phương tiện nghe nhìn như tivi, ra đi ô, sách báo…đã
có trong nhiều gia đình. Giao thông ở vùng dân tộc từng bước được cải thiện,
nhiều vùng dân tộc đã có người Kinh sống xen kẽ, nhu cầu giao lưu văn hóa trao
đổi mua bán ngày càng phát triển. Hơn nữa, số phụ huynh trẻ biết TV ngày càng
tăng. Đây là những tín hiệu tốt làm cơ sở cho việc xây dựng môi trường TV ở
gia đình HS.
Địa bàn nơi HS sinh sống, an ninh quốc phòng được đảm bảo. Nền kinh tế
cũng khá ổn định và phát triển tương đối đồng đều, đời sống người dân tương
đối ổn định.
Dân trí của người dân ngày càng được nâng cao, tỉ lệ đến trường của trẻ em
ngày càng tăng. HS luôn nhận được sự quan tâm sát sao của nhà trường và của
các bậc phụ huynh là những thuận lợi cơ bản để HS học tập và sử dụng tốt tiếng
Việt và các môn học khác.
1.2.2. Khó khăn
Do đặc thù riêng với nhiều dân tộc khác nhau nên dẫn đến nhiều phong tục
tập quán, nhiều nét văn hóa khác nhau, và vẫn còn lưu lại nhiều phong tục lạc
hậu do đó đời sống nảy sinh nhiều biểu hiện xã hội phức tạp.


15
Đại đa số nhân dân trong vùng sống chủ yếu bằng nghề nông thu nhập
thấp, không ổn định có nhiều hộ còn thuộc diện khó khăn.
HSDT trước khi đi học các em mới chỉ nắm vững tiếng mẹ đẻ và phát triển
nhận thức bằng TMĐ chứ không phải bằng TV. Vốn TV của các em rất ít hoặc

không có gì, nếu có một chút vốn TV lại chưa chuẩn xác trong cách phát âm và sử
dụng. Khi đến trường các em mới bắt đầu học TV và các em phải học TV trên cơ
sở kinh nghiệm của TMĐ.
Khi học TV, HS người Kinh có nhiều cơ hội giao tiếp với người lớn ở mọi
lúc mọi nơi, trong và ngoài nhà trường. Những lĩnh vực được tiếp cận khi đối
thoại rất đa dạng và phong phú. HSDT hầu như không thể có được số lượng và
mật độ các cuộc giao tiếp bằng tiếng Việt nhiều như HS người Kinh. Ở trường
học, HSDT chỉ tiếp xúc duy nhất với thầy, cô giáo- những người nắm vững TV.
Do số HS trong lớp thì đông mà lại chỉ có một GV nên cơ hội giao tiếp bằng
tiếng Việt giữa GV và HS rất có hạn chế. Nội dung các vấn đề được đề cập
trong các cuộc giao tiếp chủ yếu chỉ liên quan tới bài học, trong khi các vấn đề
của đời sống ngôn ngữ lại luôn sôi động và đa dạng.
Một số HS chưa chịu khó học tập, chữ viết không đúng cỡ chữ kiểu chữ.
Một số em chưa nắm được, chưa nhớ được quy tắc chính tả cơ bản.
Theo một xu hướng tự nhiên, những thói quen sử dụng TMĐ được HSDT
đưa vào trong quá trình học TV. Hệ quả là, những yếu tố giống nhau giữa TV và
TMĐ tạo điều kiện thuận lợi, còn những yếu tố khác nhau lại cản trở, gây khó
khăn cho HSDT khi học TV, đó cũng là nguyên nhân khiến HSDT mắc các lỗi
sử dụng TV như lỗi phát âm, lỗi dùng từ, lỗi sử dụng câu…
1.2.3 Thực trạng dạy - học chính tả trong nhà trường
1.2.3.1 Thực trạng dạy chính tả trong nhà trường
a) Trình độ và kinh nghiệm của GV
Chất lượng dạy chính tả của GV Tiểu học trước hết phải nói đến trình độ đã
được đào tạo của đội ngũ GV. Trình độ được đào tạo của GV ảnh hưởng không
nhỏ và là yếu tố trực tiếp tác động đến chất lượng học của HS. Đều là GV Tiểu
học và cùng giảng dạy một chương trình như nhau nhưng thời gian được đào tạo


16
của mỗi GV ở mỗi trình độ khác nhau, cụ thể : Thời gian đào tạo đối với mỗi

GV đối với trình độ ĐH là 4 năm, còn thời gian đào tạo đối với trình độ trung
cấp và cao đẳng là 2-3 năm. Trình độ GV không đồng đều tại các trường tiểu
học trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang nói chung và trường tiểu học xã Thượng
Lâm, huyện Lâm Bình nói riêng là một trong những nguyên nhân không nhỏ dẫn
đến kết quả dạy và học chưa cao ở tất cả các môn học cũng như phân môn Chính
tả trong nhà trường Tiểu học.
b) Thực tiễn phương pháp dạy học chính tả
Hòa cùng với sự phát triển, đổi mới đất nước về mọi mặt, ngành GD - ĐT
cũng có những đổi mới nhất định. Phương pháp dạy học là một trong những nội
dung quan trọng nằm trong chương trình đổi mới của ngành GD - ĐT.
Thực tế cho thấy một bộ phận GV vẫn duy trì và rập khuôn theo cách dạy
học truyền thống. Đó là sử dụng hình thức dạy học lấy GV làm trung tâm, GV là
người tổ chức toàn bộ các hoạt động trên lớp của HS, toàn bộ mạch kiến thức
hầu như được GV giới thiệu, xem xét, đánh giá và kết luận.
Với hình thức dạy học này GV giữ vai trò chủ đạo và trung tâm, còn HS thì
thụ động tiếp thu kiến thức của bài học, không tự mình tìm tòi, khám phá ra cái
mới. Do đó, việc truyền thụ kiến thức còn chưa được thực sự quan tâm đến đối
tượng HS, và việc lĩnh hội kiến thức của HS bị phụ thuộc nặng nề vào bài giảng
của GV, HS không chịu khó suy nghĩ, ỷ lại, thụ động. Với cách dạy này HS phải
tuân theo khuôn mẫu đã vạch ra trong bài giảng của GV, ít có cơ hội bộc lộ năng
lực của bản thân. Đặc biệt đối với các em HS DTTS khi mà trình độ nhận thức
của các em còn chưa cao, khả năng tư duy kém, việc tiếp thu kiến thức một cách
thụ động như vậy sẽ làm cho các em khó nhớ kiến thức hoặc quên nhanh. Do
vậy, hiệu quả mà giờ học mang lại của môn học nói chung và phân môn Chính
tả nói riêng là rất thấp.
1.2.3.2 Thực trạng học chính tả trong nhà trường
Thứ nhất: Học sinh chưa yêu thích môn chính tả
Như chúng ta đều biết rằng, môn Tiếng Việt hình thành cho HS bốn kỹ
năng: Nghe, nói, đọc, viết. Mà bốn kỹ năng này lại có quan hệ mật thiết với



17
nhau. Nói có chuẩn thì người nghe mới hiểu đúng và mới viết đúng được, viết
đúng mới đọc được chuẩn, đọc được hay. Cho nên hình thành kỹ năng viết đúng
có vai trò rất quan trọng.
Viết sai chính tả ngay ở các lớp đầu cấp sẽ hình thành thói quen và ảnh
hưởng không nhỏ đến sau này. Chính tả không chỉ là công cụ giúp HS chiếm
lĩnh văn hóa, trau dồi kiến thức, tư duy học tập mà nó còn tạo điều kiện ban đầu
trong hành trang ngôn ngữ của các em. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, phân
môn Chính tả phải là môn học được coi trọng trong nhà trường. Thế nhưng trên
thực tế lại không như vậy, không riêng gì với HS dân tộc thiểu số các trường
Tiểu học xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang mà hầu hết các
em HS vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn Chính tả và chỉ nhìn
nhận môn học này là một môn học “phụ”, hỗ trợ cho kỹ năng sử dụng tiếng
Việt. Điều đó được thể hiện cụ thể: Theo thống kê phiếu điều tra khảo sát HS
của trường Tiểu học xã Thượng Lâm, mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu cho
thấy: Có tới 65% HS là không thích học phân môn Chính tả, 35% HS thích và
rất thích học môn này, khi chúng tôi hỏi: “Em có thích học chính tả không?”.
Hay với câu hỏi : “Theo em, phân môn Chính tả có quan trọng không?” thì có
tới 61% HS trả lời không quan trọng, chỉ 39% HS cho là quan trọng và rất quan
trọng. Còn với câu hỏi: “ Em dành thời gian như nào để học chính tả ?” đa số
các em trả lời dành thời gian ít (chiếm 58%) hoặc không dành thời gian (chiếm
25%), rất ít HS trả lời dành nhiều thời gian cho môn học (chỉ 17%) .
Như vậy, chúng ta nhận thấy một thực tế của HS ở trường Tiểu học xã
Thượng Lâm, huyện Lâm Bình các em chỉ quan tâm đến chính tả ở góc độ cho
biết chữ và là một môn học bắt buộc phải học trong nhà trường, chứ chưa nhận
thức được tầm quan trọng của việc học chính tả, chưa thực sự quan tâm đến các
lỗi mà mình mắc phải lúc viết, sử dụng chính tả sao cho đúng chuẩn.
Thứ hai: Học quy tắc chính tả tiếng Việt là một khó khăn đối với các em
HS dân tộc Tày



18
Đối với các em HS là dân tộc kinh ở các lớp đầu cấp việc học quy tắc chính
tả đã là một khó khăn. Do vậy việc hiểu và nhận biết các quy tắc chính tả chữ
viết càng trở nên khó khăn hơn đối với các em học sinh dân tộc thiểu số.
Các em thường mắc lỗi: L, đ, r, d, gi, x, s….VD “long lanh” các em viết
thành “đong đanh” hoặc “ da dẻ ” các em viết thành “ ra dẻ ”. Với những trường
hợp khó hơn, những trường hợp có quy tắc hay không có quy tắc các em càng dễ
bị nhầm hơn. Chẳng hạn, phân biệt: x-s, r-d-gi, ch-tr.
Cách kết hợp có quy tắc giữa “g”, “gh”, “ng”, “ngh” với các nguyên âm ở
sau nó. Cụ thể là: “g” được gọi là gờ đơn, “ng” gọi là ngờ đơn cho phép kết hợp
với các âm o, ô, ơ, u, ư, a, ă, â, sau nó. “gh” gọi là gờ kép, “ngh” gọi là nghờ
kép cho phép kết hợp với âm i, e, ê ở sau nó. Hay một số trường hợp mang tính
quy ước như: “qu” kết hợp với uôc được phép bỏ đi một chữ “u”, “gi” kết hợp
với iêng thì được phép bỏ đi một chữ i. Quy tắc phải viết hoa chữ cái đầu dòng,
đằng sau dấu chấm hay các danh từ riêng (tên người, tên địa danh).
Quy tắc chính tả tiếng Việt trong từng trường hợp thì ở những mức độ khó,
dễ khác nhau. Cũng có nhiều trường hợp chính tả không thể sử dụng quy tắc hay
quy ước nào để có thể phân biệt chúng với những từ khác. Do đó, gây ra nhiều
khó khăn trong việc sử dụng chính tả, nhất là đối với các em HS dân tộc thiểu
số, trình độ nhận thức của các em còn hạn chế, lại thêm sự phức tạp của quy tắc
chính tả tiếng Việt, nên việc tiếp nhận và lĩnh hội các quy tắc chính tả tiếng Việt.
Nếu không hiểu, không nắm được bản chất của những kết hợp có quy tắc thì những
trường hợp chính tả mang tính quy ước hay không mang tính quy ước thì các em
cũng không thể nắm được. Bởi vậy, việc viết sai từ, sử dụng từ không đúng với
chuẩn chính tả tiếng Việt xảy ra ở các em là một điều không thể tránh khỏi.
Thứ ba: Chữ viết của HS chưa đẹp, viết còn chậm
Do ngay từ mẫu giáo và lớp 1 các em đều được học viết chữ với cỡ chữ cỡ
lớn, chữ ở cỡ nhỏ nếu được tiếp xúc thì rất ít và cho ở mức độ làm quen nên việc

chuyển sang viết cỡ chữ nhỏ hơn ở lớp 2 là một khó khăn trong quá trình viết
các em, đặc biệt với học sinh DTTS.


19
Chữ viết của học sinh DTTS còn chưa đẹp, nguệch ngoạc, chữ thường thừa
nét hoặc thiếu nét, nét vẫn còn run, không rứt khoát, chỗ đậm chỗ mờ nên hay tô
lại nét chữ và làm dây bẩn chữ. Khi trình bày bài viết mặc dù đã có sự chú ý hơn
song việc nhận thức của các em làm thế nào để có được một bài viết sạch, đẹp
thì rất khó.
So với trước kia, vở viết của HS đã được cải thiện khá nhiều, các em viết
trên vở có dòng kẻ ô li đều nhau. Vở như vậy sẽ giúp các em viết chữ được
thẳng hàng, không bị trèo dòng. Nhưng trên thực tế vẫn còn những bài viết trình
bày chữ không thẳng hàng. Nguyên nhân chủ yếu là do ý thức của các em trong
giờ học chưa thật chú ý và kĩ năng trình bày còn yếu.
Bên cạnh đó, HS còn viết chữ với tốc độ chưa đảm bảo mức độ quy định. Ở lớp
5, tốc độ theo một bài chính tả là: 50 chữ/ 15 phút. Song các em còn viết chậm
hơn so với quy định rất nhiều và chỉ viết được 20 -25 chữ/15 phút.
1.2.4. Khảo sát thực trạng mắc lỗi chính tả của học sinh dân tộc Tày trường
Tiểu học xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang
1.2.4.1. Mục đích khảo sát
Chúng tôi tiến hành kháo sát nhằm:
Thống kê các lỗi chính tả mà học sinh dân tộc Tày thường hay mắc phải
và tiến hành phân loại lỗi, để nắm được thực trạng mắc lỗi của HS.Từ đó tìm ra
nguyên nhân mắc lỗi và đề ra được biện pháp khắc phục.
1.2.4.2. Nội dung khảo sát
Chúng tôi dựa trên chương trình SGK Tiếng Việt ở Tiêu học để thiết kế
phiếu điều tra cách sử dụng âm, vần, dấu thanh và cáh viết hoa của các em trong
trường hợp thích hợp.
1. Điền vào chỗ trống: - c/k/qu, g/gh, ng/ngh, s/x.

- ơp/âp, ăm/am.
2. Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống.
3. Điền vào chỗ trống và các dấu thanh.
4. Tìm lỗi sai và viết lại cho đúng các từ đã cho.



20
1.2.4.3. Địa điểm khảo sát
Vì điều kiện còn hạn chế nên chúng tôi tiến hành khảo sát các lớp 3,4 trên
địa bàn trường Tiểu học xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang.
1.2.4.4. Thời gian khảo sát
Tiến hành khảo sát trong hai tháng: tháng 11 và tháng 12 năm 2013 chúng
tôi sẽ tiến hành phát phiếu điều tra cho 50 em HSDT Tày trường tiểu học xã
Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang và chấm vở viết của học sinh.
1.2.4.5. Cách khảo sát
Để đánh giá thực trạng chữ viết của các em HSDT Tày chúng tôi dùng
phương pháp kiểm tra chính tả bằng phiếu.
1.2.4.6. Kết quả khảo sát
a) Những lỗi chính tả học sinh hay mắc phải
Qua thực trạng điều tra lỗi chính tả của 50 em HSDT Tày trường tiểu học
xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang. Chúng tôi thu được kết
quả như sau:
Nội dung thứ nhất: điền vào chỗ trống c/k/qu
Âm sai
Số học sinh mắc lỗi
Tỉ lệ HS mắc lỗi (%)
c/k/qu
43
86%

g/gh
40
80%
Ng/ngh
35
70%
S/x
42
84%

Nội dung thứ hai: điền vào chỗ trống ơp/âp, ăm/am
Vần sai
Số học sinh mắc lỗi
Tỉ lệ HS mắc lỗi (%)
Ơp/âp
45
90%
Ăm/am
32
64%


Nội dung thứ ba: điền ào chỗ trống dấu săc (/) hay dấu ngã (~)
Thanh sai
Số học sinh mắc lỗi
Tỉ lệ HS mắc lỗi (%)
Thanh săc (/)
28
56%



21
Thanh ngã (~)

Nội dung thứ tư: tìm lỗi sai và viết lại cho đúng các từ đã cho
Lỗi viết hoa
Số học sinh mắc lỗi
Tỉ lệ HS mắc lỗi (%)

30
60%

Qua bảng số liệu thống kê trên cho thấy HSDT Tày tại trường tiểu học xã
Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang các em đều mắc lỗi sai chính
tả tương đối nhiều. Đặc biệt khi phân biệt các phụ âm c/k/qu, g/gh, ng/ngh, s/x
và các vần ơp/âp, ăm/am.Ngoài ra trường hợp viết sai dấu thanh và lỗi viết hoa
còn tồn tại ở nhiều học sinh.
Về phụ âm
Số lượng học sinh mắc lỗi về phụ âm chiếm tỉ lệ lớn. Tập trung nhiều ở
các trường hợp phân biệt c/k/qu, g/gh, ng/ngh hay s/x . Trong đó số HS mắc lỗi
khi phân biệt lỗi phụ âm c/k/qu chiếm tỉ lệ cao nhất 43/50 em, đối với s/x là
42/50 em chẳng hạn “kéo co” các em viết thành “céo co” hay “quả cau” viết
thành “cả cau”. Tỉ lệ HS mắc lỗi khi phân biệt phụ âm g/gh, ng/ngh cũng chiếm
tỉ lệ tương đối cao đối với phụ âm g/gh số HS mắc lỗi là 40/50 em (chiếm 80%),
phụ âm ng/ngh số học sinh mắc lỗi là 35/50 em (chiếm 70%).
Về phần vần
Số lượng HS mắc lỗi về phần vần chiếm tỉ lệ tương đối cao. Do các em là
HSDT nên chưa được tiếp xúc nhiều với vốn từ đặc biệt là đối với những từ HS
ít được biết đến và thường hay bị nhầm lẫn với các vần khác, như vần ơp/âp,
ăm/am học sinh hay bị nhầm lẫn ở vần này. Cụ thể số HS mắc lỗi ở vần ơp và âp

là 45/50 em chẳng hạn ở phiếu điều tra “cá mập” thì có tới 45 em HS viết thành
“cá mợp”, “hợp tác” các em lại viết thành “hập tác”. Đối với vần ăm/am là
32/50 em chẳng hạn “chăm học” các em lại viết thành “cham học”, “tham lam”
các em lại viết thành “thăm lam”.
Về thanh điệu
Trong phiếu điều tra cho thấy HSDT không chỉ sai chính tả về phụ âm đầu,
phần vần mà còn mắc lỗi sai về dấu thanh. Tiếng Việt có 6 thanh nhưng chỉ hiên


22
trên chữ viết 5 thanh. Kí hiệu ghi dấu thanh đó là: thanh ngang (thanh không dấu),
thanh hỏi (?), thanh huyền (\), thanh ngã (~), thanhsắc (/), thanh nặng (.).
Trong 6 thanh trên các em HSDT thường nhầm lẫn dấu thanh sắc và thanh
ngã cả khi đọc và khi viết. Ví dụ như trong phiếu điều tra chúng tôi có cụm từ
“Ánh nắng chiếu xuống kẽ lá bàng”thì học sinh thường viết là “Ánhnắng chiếu
xuống ké lá bàng”, hay “ngã sõng soài” thành “ngã sóng soài”, “Ngỗng đẻ trứng
vàng” thành “Ngống đẻ trững vàng”.
Số học sinh mắc lỗi khi phân biệt 2 thanh này là 28/50 em (chiếm 56%)
so với tỉ lệ mắc lỗi về phụ âm và về phần vần thì lỗi về thanh điệu chiếm tỉ lệ
nhỏ hơn cả.
Về lỗi viết hoa
Tỉ lệ HS mắc lỗi về cách viết hoa chiếm tỉ lệ khá cao. Có đến 30/50 em
(chiếm 60%) mắc lỗi. Đa số các em không phân biệt được trong danh từ riêng
thì chữ nào phải viết hoa, chữ nào không có nhiều em chỉ viết theo quy tắc
chữ cái đầu dòng và sau dấu chấm. Chẳng hạn ở câu 4 trong phiếu điều tra
tìm lỗi sai và sửa lại cho đúng nhiều em chưa phát hiện được lỗi sai là “vinh
quang”, ”chiêm hóa”, “tuyên quang”, “trường sinh”.
Như vậy chúng tôi nhận thấy một thực trạng chung. HSDT Tày ở trường
Tiểu học Thượng Lâm viết sai lỗi chính tả với số lượng rất lớn. Các lỗi HS hay
mắc phải nhiều nhất là sai phụ âm đầu (c/k/qu, s/x, g/gh, ng/ngh) và lỗi chính tả

về phần vần (ơp/âp, ăm/am).
b) Những vấn đề đặt ra từ khảo sát
Từ thực trạng trên đã đặt ra một việc hết sức cấp bách và cần thiết đó là
việc rèn luyện chính tả và sửa lỗi chính tả cho HSDT Tày nói riêng và học sinh
trường tiểu học Thượng Lâm nói riêng. Bởi đây là một trong những trường
thuộc địa bàn miền núi, trình độ dân trí còn thấp, số lượng học sinh DTTS chiếm
khá đông. Chính vì thế mà việc rèn cho các em viết đúng, đọc đúng là rất quan
trọng để các em học tập tốt hơn, nâng cao việc tiếp thu tri thức khoa học để trở
thành con người có ích cho xã hội góp phần xây dựng đất nước và quê hương
miền núi ngày càng tươi đẹp hơn.

×