Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Nghệ thuật nhân hóa, so sánh trong các tác phẩm thơ ở chương trình tiếng việt tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.78 KB, 88 trang )


Lêi c¶m ¬n
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng
viên Ths. Trần Thị Mỹ Hồng, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong
quá trình thực hiện khóa luận.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Quảng Bình đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với quý thầy cô giáo khoa Sư phạm
Tiểu học - Mầm non đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tôi trong những năm
học qua. Vốn kiến thức được thầy cô truyền đạt trong quá trình học tập không
chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quý báu
cho tôi trong quá trình lao động nghề nghiệp sau này. Cảm ơn quý thầy cô giáo
đã đóng góp những ý kiến quý báu cho tôi trong quá trình nghiên cứu và thực
hiện đề tài.
Nhân đây, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc tới Trung
tâm học liệu - Trường Đại học Quảng Bình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn những người thân yêu trong gia đình, bạn bè đã luôn giúp
đỡ, động viên tôi trong thời gian thực hiện khóa luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng đề tài không thể tránh khỏi những thiếu
sót, tôi rất mong nhận được sự chỉ dẫn và góp ý của quý thầy cô giáo cùng các
bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, tôi xin kính chúc quý thầy cô giáo luôn dồi dào sức khỏe, hạnh
phúc và thành công trong cuộc sống cũng như trong sự nghiệp trồng người.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Đồng Hới, tháng 6 năm 2015
Tác giả

Võ Thị Liễu








LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu nêu trong khóa luận là trung thực, khách quan và chưa từng
công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Đồng Hới, tháng 6 năm 2015
Tác giả

Võ Thị Liễu




















MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
3.2. Pham vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Đóng góp của đề tài 5
6. Cấu trúc của khóa luận 5
PHẦN NỘI DUNG 6
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC PHẨM THƠ TRONG CHƯƠNG
TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC 6
1.1. Khái quát về tác phẩm thơ trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học. 6
1.2. Những giá trị cơ bản của tác phẩm thơ trong chương trình Tiếng Việt Tiểu
học. 7
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT NHÂN HÓA TRONG CÁC TÁC PHẨM THƠ Ở
CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC 22
2.1. Khái niệm nhân hóa 22
2.2. Một số kiểu nhân hóa thường gặp trong các tác phẩm thơ ở chương trình
Tiếng Việt Tiểu học. 22
2.2.1. Nhân hóa dùng những từ ngữ vốn gọi người để trò chuyện xưng hô với
vật. 22
2.2.2. Nhân hóa dùng những từ ngữ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để
biểu thị vật. 25

2.3. Chức năng của nghệ thuật nhân hóa trong các tác phẩm thơ ở chương trình
Tiếng Việt Tiểu học. 40
2.3.1. Chức năng nhận thức 40
2.3.2. Chức năng biểu cảm 41

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT SO SÁNH TRONG CÁC TÁC PHẨM THƠ Ở
CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC 43
3.1. Khái niệm so sánh 43
3.2. Một số kiểu so sánh thường gặp trong các tác phẩm thơ ở chương trình Tiểu
học. 46
3.2.1. So sánh ngang bằng 46
3.2.1.1. So sánh ngang bằng hoàn chỉnh 46
3.2.1.2. So sánh ngang bằng không hoàn chỉnh 51
3.2.2 So sánh bậc hơn – kém 55
3.3. Chức năng của nghệ thuật so sánh 56
3.3.1. Chức năng nhận thức 57
3.3.2. Chức năng biểu cảm 57
PHẦN KẾT LUẬN 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
PHỤ LỤC 3











1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nói đến ngôn ngữ là nói đến công cụ dùng để giao tiếp trong cuộc sống. Có
ngôn ngữ thì mới có quan hệ xã hội và quan hệ xã hội chính là nơi để phát triển
ngôn ngữ. Xác định được tầm quan trọng của ngôn ngữ đối với cuộc sống con
người môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành cho học
sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) và hình thành ngôn ngữ
giao tiếp.
“Cái làm nên sự kì diệu của ngôn ngữ đó chính là các phương tiện, biện
pháp tu từ” [5, tr. 6]. Các biện pháp nghệ thuật ra đời làm nên tính độc đáo và
cái hay cho ngôn ngữ trong từng tác phẩm, bên cạnh đó biện pháp tu từ cũng
góp phần tạo nên phong cách nhà thơ, nhà văn. Để có những tác phẩm mang lại
dư âm sâu lắng trong lòng người đọc nhà văn nhà thơ phải biết cách sử dụng
linh hoạt các biện pháp tu từ sẵn có. Việc nghiên cứu về biện pháp tu từ có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với văn học nói chung và thơ ca nói riêng.
Trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học các tác phẩm thơ chiếm số lượng
tương đối lớn và được đưa vào giảng dạy như một yêu cầu cần thiết giúp học
sinh hình thành năng lực tư duy, năng lực cảm thụ văn học. Để giúp học sinh
cảm thụ tốt các tác phẩm thơ không có con đường nào hiệu quả bằng việc khai
thác nét đặc sắc nghệ thuật mà tác giả sử dụng. Biện pháp nghệ thuật xuất hiện
trong các tác phẩm thơ ở chương trình Tiếng Việt Tiểu học với một mục tiêu rất
lớn đó là cung cấp cho học sinh những giá trị đạo đức, nhân văn mà tác giả
muốn gửi đến và qua đó biện pháp nghệ thuật tô điểm thêm cho vẻ đẹp của các
tác phẩm thơ cuốn hút học sinh khi tiếp xúc với nội dung của các tác phẩm.
Ngoài ra biện pháp nghệ thuật còn phát huy trí tưởng tưởng cho học sinh, trau
dồi khả năng tư duy và củng cố năng lực diễn đạt khi giao tiếp.
Biện pháp nghệ thuật quan trọng được tác giả sử dụng trong các tác phẩm

thơ là nhân hóa và so sánh. Trong cuộc sống hằng ngày khi trò chuyện giao tiếp
với những người xung quanh không ai không một lần sử dụng phép tu từ nhân
hóa, so sánh. Khi tiếp nhận văn chương, học sinh không chỉ phải hiểu nội dung
2
sự việc của các tác phẩm thơ mà còn phải nắm nội dung liên cá nhân, giá trị biểu
hiện, chất trữ tình,…cái làm nên sắc vẻ riêng của từng bài thơ. Vì vậy cái đích
cuối cùng của dạy một tác phẩm thơ là phải giúp học sinh thấy được đó là kết
quả của một hành động tự nhận thức, nơi bộc lộ những tình cảm, thái độ của nhà
thơ trước hiện thực. Một trong những cái làm nên giá trị của các tác phẩm thơ
chính là nghệ thuật tu từ. Thông qua cách sử dụng những biện pháp tu từ của tác
giả trong các tác phẩm thơ, học sinh không chỉ biết được giá trị đích thực của
nội dung bài học, biết được tâm tư. Tình cảm của tác giả và hơn hết qua đó các
em sẽ cảm thụ sâu sắc bài học và ý nghĩa, nội dung tác giả muốn gửi gắm viết
lên được những suy nghĩ của các em về tư tưởng, giá trị của các tác phẩm thơ.
Cảm nhận được ý nghĩa của thơ văn dựa trên những phép hiểu biết về nghệ thuật
tu từ và sự phong phú của ngôn từ, học sinh sẽ thấy được Tiếng Việt thật đa
dạng và lý thú.
Trên cơ sở khai thác, phân tích các biện pháp nghệ thuật trong các tác
phẩm thơ sẽ giúp học sinh tích lũy vốn văn học, mở rộng vốn sống cho trẻ em và
rèn luyện phát huy kĩ năng nói và hiểu một cách có nghệ thuật, góp phần khơi
gợi tư duy hình tượng ở trẻ. Ngoài ra còn giúp người giáo viên Tiểu học hiểu
thấu đáo và cảm thụ sâu sắc các biện pháp nghệ thuật, vận dụng tốt trong dạy
học Tiếng Việt đồng thời tạo cơ sở để tiếp nhận văn chương, khơi gợi sự sáng
tạo nghệ thuật, nâng cao kỹ năng sống.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghệ thuật nhân hóa, so sánh
trong các tác phẩm thơ ở chương trình Tiếng Việt Tiểu học”.
2. Lịch sử vấn đề
Để giúp học sinh có những kiến thức cơ bản cần thiết về các biện pháp tu
từ Tiếng Việt để vận dụng tốt trong học tập và giao tiếp hằng ngày, sách giáo
khoa Tiếng Việt Tiểu học đã đưa vào những tiết học về các biện pháp tu từ từ

vựng đặc biệt là biện pháp nhân hóa, so sánh. Ngoài ra sách giáo khoa còn sử
dụng khá nhiều hình ảnh nhân hóa, so sánh trong các tác phẩm thơ và văn xuôi.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề biện pháp tu từ Tiếng Việt và
có những công trình nghiên cứu bàn về vấn đề này có thể kể đến như:
3
Tác giả Bùi Tất Tươm trong “Giáo trình Tiếng Việt”, Nhà xuất bản Giáo
dục, 1995 đã trình bày về các biện pháp tu từ theo quan hệ liên tưởng như so
sánh, ẩn dụ, hoán dụ…Ở mỗi biện pháp tu từ đều nêu lên đặc điểm, các mối
quan hệ, giá trị của từng biện pháp tu từ.
Tác giả Đinh Trọng Lạc trong “99 Phương tiện và Biện pháp tu từ Tiếng
Việt” (Nhà xuất bản Giáo dục, 1998), đã hệ thống gần như đầy đủ các phương
tiện tu từ từ vựng (từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp, văn bản, và phương tiện ngữ âm
của phong cách học), các biện pháp tu từ Tiếng Việt (từ vựng, ngữ nghĩa, cú
pháp, văn bản, ngữ âm – văn tự).
Ở “Phong cách học Tiếng Việt” (Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1999) Hữu
Đạt đã giới thiệu khá cụ thể về đặc điểm và chức năng của phong cách báo chí.
Bên cạnh đó tác giả cũng trình bày một số biện pháp tu từ như so sánh, nhân
hóa, ẩn dụ, hoán dụ…
Tác giả Cù Đình Tú với “Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt”
(Nhà xuất bản Giáo dục, 2001) đã trình bày hệ thống lý thuyết phong cách học
cũng như các vấn đề cụ thể về phong cách học Tiếng Việt. Công trình còn đi vào
tìm hiểu đặc điểm tu từ của các loại đơn vị trong Tiếng Việt.
Bài giảng “Từ vựng học Tiếng Việt” của Nguyễn Thị Thu Thủy (2005), đề
cập đến nghĩa của từ, thành ngữ và cách phân biệt thành ngữ, tục ngữ, sự chuyển
nghĩa tu từ theo kiểu ẩn dụ và hoán dụ…
Ngoài ra có một số luận văn sau đại học đã nghiên cứu về biện pháp tu từ
như:
- Biện pháp tu từ so sánh trong thơ Chế Lan Viên (Nguyễn Thị Yến Nhung
– Đại học Tây Nguyên).
- Phương pháp dạy học phép tu từ so sánh ở lớp 3(Lê Thị Hạnh – Luận văn

Thạc sĩ Giáo dục).
- So sánh tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa (Luận văn ngành Văn học).
- Rèn học sinh kỹ năng cảm thụ văn học qua một số biện pháp tu từ (Phạm
Thị Thúy – Trung học cơ sở Tam Hưng, Hà Nội).
- Phương thức so sánh nghệ thuật trong thơ Tố Hữu (Nguyễn Công Lư).
4
Qua tìm hiểu, có thể nhận thấy các đề tài này chủ yếu chú trọng đến việc
hình thành khái niệm, tìm ra giá trị của các phương thức tu từ nói chung và so
sánh nói riêng trong các thể loại văn học. Còn việc tìm hiểu và ứng dụng lý
thuyết về biện pháp tu từ vào quá trình phân tích giá trị nghệ thuật của các tác
phẩm thơ ở chương trình Tiếng Việt Tiểu học thì chưa được đề cập đến. Những
công trình nghiên cứu trên là cơ sở lý thuyết vô cùng quý báu để chúng tôi có
thể tham khảo và đi vào nghiên cứu về “Nghệ thuật nhân hóa, so sánh trong các
tác phẩm thơ ở chương trình Tiếng Việt Tiểu học”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghệ thuật nhân hóa, so sánh trong các
tác phẩm thơ ở chương trình Tiếng Việt Tiểu học.
3.2. Pham vi nghiên cứu
- Tìm hiểu việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh trong các tác phẩm
thơ ở sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học.
- Nghiên cứu nét đắc sắc của các tác phẩm thơ thông qua việc phân tích
cách sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh trong các tác phẩm thơ đó.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong qua trình thực hiện đề tài chúng tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp phân tích dùng để làm
rõ chức năng của biện pháp nhân hóa, so sánh và những nét đặc sắc của nhân
hóa, so sánh trong các tác phẩm thơ ở chương trình Tiếng Việt Tiểu học.
Phương pháp tổng hợp giúp người viết có cái nhìn khát quát về nghệ thuật nhân

hóa, so sánh trong các tác phẩm thơ.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Trên cơ sở khảo sát tìm hiểu các biện
pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa trong các tác phẩm thơ ở chương trình Tiếng
Việt Tiểu học, tiến hành phân loại các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa thành
các kiểu nhỏ nhằm giúp học sinh dễ tiếp nhận.

5
5. Đóng góp của đề tài
- Về lý luận, đề tài góp phần hệ thống những kiến thức cơ bản về biện pháp
nghệ thuật nhân hóa, so sánh; qua quá trình khảo sát thống kê các biện pháp
nghệ thuật được sử dụng trong các tác phẩm thơ ở chương trình Tiếng Việt Tiểu
học giúp giáo viên và học sinh Tiểu học dễ nhận diện các biện pháp nhân hóa, so
sánh khi học các tác phẩm thơ này. Đồng thời, trên cơ sở tìm hiểu phân tích tác
dụng của các biện pháp nghệ thuật trong từng ví dụ cụ thể góp phần làm tăng
khả năng cảm thụ văn học cho học sinh Tiểu học, giúp các em phát huy việc sử
dụng biện pháp nghệ thuật trong khi làm văn.
- Về thực tiễn, đề tài góp phần nâng cao kiến thức cho người nghiên cứu, là
tài liệu tham khảo hữu ích cho giáo viên, học sinh trong dạy học các tác phẩm
thơ trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung
gồm có 3 chương:
Chương 1: Giới thiệu chung về tác phẩm thơ trong chương trình Tiếng Việt
Tiểu học.
Chương 2: Nghệ thuật nhân hóa trong các tác phẩm thơ ở chương trình
Tiếng Việt Tiểu học.
Chương 3: Nghệ thuật so sánh trong các tác phẩm thơ ở chương trình Tiếng
Việt Tiểu học.







6
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC PHẨM THƠ TRONG
CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC
1.1. Khái quát về tác phẩm thơ trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học
Trong chương trình sách giáo khoa của bậc Tiểu học hiện nay, số lượng các
bài thơ khá nhiều, được phân bố từ lớp 1 đến lớp 5. Qua khảo sát có thể nhận
thấy những bài thơ này viết bằng thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, bên cạnh đó một
số bài được viết theo thể thơ lục bát, thất ngôn tứ tuyệt và thể tự do. Có những
bài thơ do người lớn viết cho thiếu nhi, người lớn viết về thiếu nhi, người lớn
viết về người lớn nhưng để cho thiếu nhi. Bên cạnh đó còn có những bài thơ của
thiếu nhi viết về thiếu nhi. Cụ thể:
Lớp 1: Ở học kỳ I do đặc điểm là các em học sinh mới học cách đánh vần
ghép chữ và làm quen với đọc trơn văn bản, nên trong sách giáo khoa chưa có
các bài thơ hoàn chỉnh mà chỉ có các đoạn thơ ngắn khi các em đọc phần ứng
dụng cho bài mới. Đến giữa học kì II bắt đầu xuất hiện những bài thơ ngắn.
Trong tổng số 20 bài thơ được đưa vào sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 có 9 bài
thơ của người lớn viết cho thiếu nhi chiếm tỷ lệ 45%, có 6 bài thơ của người lớn
viết về các em thiếu nhi chiếm tỷ lệ 30%, 5 bài thơ của thiếu nhi viết cho thiếu
nhi chiếm tỷ lệ 25%.
Lớp 2: Trong tổng số 23 bài thơ trong nội dung chương trình có 16 bài thơ
người lớn viết cho các em thiếu nhi chiếm tỷ lệ 69,5%, có 4 bài thơ người lớn
viết về các em thiếu nhi chiếm tỷ lệ 17,4%, có 1 bài thơ người lớn viết về người
lớn nhưng để dành cho thiếu nhi chiếm tỷ lệ 4,4%, có 2 bài thơ thiếu nhi viết về
thiếu nhi chiếm tỷ lệ 8,7%.
Lớp 3: Trong tổng số 45 bài thơ trong nội dung chương trình có 31 bài thơ

người lớn viết cho thiếu nhi chiếm tỷ lệ 68,9%, có 9 bài thơ người lớn viết về
thiếu nhi chiếm tỷ lệ 20%, có 3 bài thơ người lớn viết về người lớn nhưng dành
cho thiếu nhi chiếm tỷ lệ 6,7%, có 2 bài thơ thiếu nhi viết về thiếu nhi chiếm tỷ
lệ 4,4%.
Lớp 4: Trong tổng số 25 bài thơ trong nội dung chương trình có 7 bài thơ
7
của người lớn viết cho thiếu nhi chiếm tỷ lệ 28%, có 1 bài thơ người lớn viết về
thiếu nhi chiếm tỷ lệ 4%, còn lại là các bài thơ thiếu nhi viết về thiếu nhi.
Lớp 5: Trong tổng số 28 bài thơ trong nội dung chương trình, có 12 bài thơ
người lớn viết cho thiếu nhi chiếm tỷ lệ 42,9%, có 2 bài thơ người lớn viết về
thiếu nhi chiếm tỷ lệ 8%, còn lại là các bài thơ người lớn viết về người lớn
nhưng dành cho các em thiếu nhi, các em thiếu nhi viết cho các em thiếu nhi.
Qua thống kê trên ta nhận thấy các bài thơ của người lớn viết cho thiếu nhi
chiếm tỷ lệ tương đối cao, gồm 73 bài. Các bài thơ được viết theo thể thơ 3 chữ,
4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, thất ngôn bát cú, tự do, nhưng số lượng các
bài thơ 4 chữ, 5 chữ chiếm tỷ lệ cao nhất.
Thể thơ 4 chữ có 29 bài /141 bài chiếm 20,6%
Thể thơ 5 chữ có 43 bài/141 bài chiếm 30,5%
Thơ đưa vào chương trình sách giáo khoa Tiểu học hiện nay đã xác định
được nội dung và mục đích giáo dục. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, lời thơ
giàu vần điệu, nhạc điệu giúp các em dễ thuộc, dễ nhớ. Nội dung các bài thơ cơ
bản là phù hợp với tâm lý lứa tuổi các em. Tâm hồn các em ngây thơ, trong
sáng, các em dễ xúc cảm, hay bắt chước và muốn làm theo gương sáng, các em
tin tưởng tuyệt đối vào người trên và nhất là thầy cô giáo.
Thơ viết về các em, viết cho các em có trong nội dung chương trình không
những chỉ có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu trước mắt là giáo dục đi đôi với giải trí
mà còn có tính thời đại lâu dài. Thiếu nhi đã được xã hội chăm sóc, nâng niu,
dạy dỗ như thế nào? Thơ dành cho thiếu nhi đã phản ánh được điều đó bằng bút
pháp riêng, nghệ thuật riêng.Vì vậy thơ trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học
hiện nay đã đạt được tới những giá trị của văn học.

1.2. Những giá trị cơ bản của tác phẩm thơ trong chương trình Tiếng Việt
Tiểu học
1.2.1. Tác phẩm thơ trong chương trình Tiểu học chan chứa tình yêu đời,
khát vọng khám phá thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên của con người
Loài người luôn có khát vọng phám phá và chinh phục thiên nhiên, thể hiện
trí tuệ sắc sảo, thông minh của mình. Trẻ giàu mơ ước, sống vui nhộn, hiếu
8
động, hồn nhiên, vô tư gắn bó với nhiều kỷ niệm quê hương. Tâm hồn tìm tòi
khám phá của trẻ thơ thể hiện qua lời thắc mắc trăng ơi từ đâu đến? mà kỳ lạ
khi thì như quả bóng, tròn như mắt cá khổng lồ, có khi lại như chiếc lưỡi
liềm…Với tâm hồn ngây thơ, trong trắng của các em, tất cả đều đáng yêu, đều
đẹp.
Trăng ơi … từ đâu đến?
Hay biển xanh diệu kỳ
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi.
[14, tr. 107]
Văn chương đã khắc họa những hình tượng muôn màu muôn vẻ của thiên
nhiên cao rộng thoáng đãng và tươi đẹp. Tác phẩm thơ trong chương trình Tiểu
học đã thể hiện được cách nhìn đời bằng cặp mắt xanh non của trẻ, tạo những
cảm xúc bất ngờ, thể hiện rõ sự ngây thơ hồn nhiên, trong trẻo trong tâm hồn các
em. Nếu chúng mình có phép lạ, Bài ca về trái đất, Vẽ quê hương là những tác
phẩm ngợi ca lòng ham muốn tìm hiểu khám phá thế giới, khát khao có cuộc
sống hòa bình tươi đẹp của các em. Trong bài thơ Một mái nhà chung tác giả
Định Hải đã bộc lộ niềm vui, khát vọng đẹp đẽ của con người ao ước có mái nhà
chung bầu trời tự do để sống đoàn kết yêu thương gắn bó, để đóng góp phần
mình xây dựng xã hội. Có ham muốn và khát vọng chân chính nhưng phải có
quyết tâm và lòng kiên trì thực hiện những ham muốn đó. Thiên nhiên trong mắt
các em có thể là bốn mùa mưa nắng, xuân hạ thu đông. Mùa thu với các em có
biết bao điều đáng nhớ, một mùa thu với món quà tết trung thu thiêng liêng và

ấm áp. Mùa thu với bao tâm trạng háo hức chờ mong của “Ngày khai trường”
được gặp lại thầy cô, bạn bè, cùng nhau bước vào năm học mới. Mùa xuân đến
bầu trời thêm xanh, mây trắng, nắng vàng là hình ảnh trong phiên “Chợ Tết”
đón chào một mùa xuân mới với không khí nhộn nhịp, tươi vui, phấn khởi
(Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon).
Thơ trong chương trình Tiểu học đã mở ra trước mắt các em cả một chân
trời mới trong mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Con người sống
9
trong sự giao hòa với thiên nhiên chính vì vậy con người cần phải trân trọng,
yêu quý và bảo vệ thiên nhiên. Mỗi cành cây, ngọn cỏ đều phải được con người
chăm sóc, giữ gìn.
Văn chương cứ đến với tâm hồn các em một cách giản dị, trong sáng, nồng
nàn. Thơ là tiếng nói của tâm hồn. Thế giới thiên nhiên luôn gần gũi thân thiết
với các em. Bài thơ Cây dừa của Trần Đăng Khoa chứa đựng nhiều hình ảnh
mộc mạc, giản dị mà gần gũi với tuổi thơ các em.
Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao
[12, tr. 88]
Cây tre của thiên nhiên cũng mang dáng hình đất nước, tính cách phẩm giá
của dân tộc Việt Nam. Đọc “Lũy tre” của Nguyễn Công Dương ta bắt gặp cách
lựa chọn hướng khai thác khá đặc biệt. Nhà thơ đặt tre trong khung cảnh nông
thôn thoáng rộng, đặc thù. Không gian thanh bình có màu sắc, âm thanh nghìn
đời của thôn quê Việt Nam. Sông, biển, những cánh buồm, nước, trời, chim
chóc, muông thú trong mắt các em trở thành một thế giới đầy diệu kỳ:
Tưởng rằng biển nhỏ
Mà to bằng trời…
Bãi giằng với sóng
Chơi trò kéo co

Phì phò như bễ
Biển mệt thở rung
Còng giơ gọng vó
Định khiêng sóng lừng
[12, tr. 65]
Trong lòng của sông, của biển nuôi sống vô số loài cá tôm, cua, sò, ốc và
vô số các loại cá : cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song, cá thu… mà các em thả sức
ngắm nhìn qua tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. Tác phẩm cũng thể
10
hiện rất rõ nét khát vọng chinh phục thiên nhiên của con người. Huy Cận với
hồn thơ dồi dào cảm hứng lãng mạn, bay bổng, say sưa đã thổi vào thơ một niềm
vui sướng và sự nhiệt tình lao động. Bài thơ là một bức tranh lung linh với
những màu sắc lộng lẫy, vừa có vẻ đẹp của cuộc sống con người, vừa có vẻ đẹp
của thiên nhiên kì vĩ lớn lao. Bài thơ là một hành trình lao động khép kín của
đoàn thuyền, điểm tô cho cuộc đời thêm hương sắc. Bài thơ như một khúc tráng
ca trên biển của người lao động mới làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Thiên nhiên trong chương trình Tiểu học còn cả “Bầu trời và mặt đất” với
mưa, gió, sấm chớp, cỏ cây, chim muông… Đọc “Vè chim” cả thế giới chim
chóc như ùa vào trang sách vừa sống động vừa tinh nghịch đáng yêu như đời
sống tâm hồn các em: Hay chạy lon ton/Là gà mới nở/ Vừa đi vừa nhảy/ Là em
sáo xinh/ Hay nói linh tinh/ Là con liếu điếu/ Hay nghịch hay tếu/ là cậu chìa
vôi/ Hay chao đớp mồi/ Là chim chèo bẻo/ Tính hay mách lẻo/ Thím khách trước
nhà/ Hay nhặt lân la/ Là bà chim sẻ/ Có tình có nghĩa/ Là mẹ chim sâu/ Giục hè
đến mau/ Là con tu hú/ Nhấp nhem buồn ngủ/ Là bác cú mèo… Câu chuyện “Sư
tử xuất quân” tái hiện lên cuộc sống phong phú đa dạng nhiều màu sắc của thế
giới loài vật khỉ, cáo, voi, ngựa, sư tử, gấu, thỏ, lừa… có khi đó là chú công rực
rỡ trong bộ xiêm áo óng ánh nhiều màu sắc, là chú mèo mướp nằm phơi mình
dưới sân và lười học, là chú gà trống sớm sớm gáy ò…ó o thức giấc cho mọi
người.
Việt Nam là đất nước của thơ ca nhạc họa với nền văn hóa đậm đà bản sắc

dân tộc qua các chủ điểm: Lễ hội, Vẻ đẹp muôn màu, Nghệ thuật, có biết bao
nhiêu đền đài miếu mạo hội hè đình đám cũng đã được đưa vào chương trình
Tiểu học: Đi hội Chùa Hương, Ngày hội rừng xanh…Ta cũng gặp trong chương
trình Tiểu học nhiều nét đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam với vô số các danh
lam thắng cảnh nổi tiếng như Biển Cửa Tùng, Vàm Cỏ Đông, chùa Hương, Việt
Bắc… Qua những tác phẩm này học sinh có dịp ngắm nhìn non sông gấm vóc,
khám phá thế giới muôn màu muôn vẻ. Đi hội chùa Hương chúng ta có dịp
ngắm:
Động chùa Tiên, chùa Hương
11
Đá còn vang tiếng nhạc
Động chùa núi Hinh Bồng
Gió còn ngân khúc hát
Ôi phải đâu lễ Phật
Người mới đi chùa Hương
Người về thăm đất nước
Người về trong yêu thương
[13, tr. 68]
Từ “Góc sân và khoảng trời”, các em nhìn ra thế giới xung quanh. Tất cả
đều nồng nàn sự sống, đều diệu kỳ, hấp dẫn trẻ thơ. Một góc sân nho nhỏ, đám
mây, cơn mưa mùa hạ, ông sấm, vườn cây, luống cày… tất cả đều đi vào các tác
phẩm thơ trong chương trình Tiểu học hồn nhiên như cuộc sống. Văn chương
trong chương trình Tiểu học, chim biết nói, hoa biết cười, biết chia bùi sẻ ngọt,
cây biết buồn vui, nắng cũng biết nũng nịu như con người.
Tình yêu là nét nổi bật nhất trong nội dung những tác phẩm viết cho thiếu
nhi. Chúng ta đã biết lòng yêu ghét của trẻ thơ thể hiện rất đậm nét và hồn nhiên
trong cuộc sống hằng ngày. Các em yêu cha mẹ, quý trọng người thân. Các em
sống rất giàu tình cảm: quê hương, đất nước, đồng bào. Nói đến trẻ em là nói
đến lòng tốt và vẻ đẹp của tâm hồn. Trẻ là cội nguồn của con người, cái cội
nguồn ấy vô cùng trong sạch. Những bài học đạo đức về lòng nhân ái được thể

hiện qua những tác phẩm thơ trong chương trình Tiểu học dễ đi vào trái tim các
em bởi văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng rõ ràng, dễ hiểu. Tình cảm
của các em thiếu nhi rất phong phú, nhiều vẻ. Những tình cảm hồn nhiên, ngây
thơ đó thường là động lực giúp các em đi đến hành động anh hùng. Hành động
anh hùng thể hiện lòng yêu nước, căm thù giặc của thiếu nhi Việt Nam. Điển
hình là tấm gương chú bé liên lạc mưu trí dũng cảm trong bài thơ Lượm của Tố
Hữu. Trong hạt gạo làng ta thơm ngon: Có công các bạn/ Trưa nào chống hạn/
Vực mẻ miệng gàu/ Chiều nào bắt sâu/ Lúa cào rát mặt… (Trần Đăng Khoa).
1.2.2. Tác phẩm được chọn trong chương trình Tiểu học thể hiện những
chuẩn mực đạo đức
12
Không chỉ sống giữa thiên nhiên, con người sống với nhau trong cùng một
bộ tộc, một dân tộc, một xã hội. Mối quan hệ xã hội giữa con người với con
người hết sức phức tạp, phong phú, đa dạng và mở rộng. Để tồn tại và phát triển,
con người trong xã hội đã buộc phải nghĩ tới những chuẩn mực đạo đức. Những
chuẩn mực ấy có khi được phản ánh trong pháp luật, trong phong tục tập quán,
có khi chỉ được phản ánh trong giấc mơ. Những chuẩn mực ấy không phải nhất
thành bất biến nhưng vẫn có khả năng ràng buộc mọi người vào một khuôn khổ
chung: ai thực hiện những chuẩn mực ấy, được ca ngợi, ai không tuân theo sẽ bị
lên án. Văn học nước nào cũng vậy, từ kho tàng văn học dân gian đến văn học
hiện đại đã phản ánh con người trong những chuẩn mực đạo đức và phản ứng
của xã hội đối với những con người ấy. Văn học trong chương trình Tiểu học đã
phản ánh những chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ xã hội, mối quan hệ gia
đình, mối quan hệ trường học và mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và sự
phát triển của xã hội.
1.2.2.1. Những chuẩn mực đạo đức trong quan hệ gia đình
Con người khác con vật nhờ có lòng nhân ái. Cũng chính lòng nhân ái tạo
cho con ngươi một sức mạnh vô tận. Gia đình là tế bào của xã hội. Sống trong
xã hội, con người đã phải tuân theo những chuẩn mực đạo đức xã hội thì trong
gia đình con người lại càng ràng buộc với nhau bằng những sợi dây tình cảm và

nghĩa vụ vừa cụ thể vừa sâu sắc. Tình cảm gia đình là một trong những thứ tình
cảm thiêng liêng quý giá của mỗi con người. Mỗi nhà thơ bằng sự khám phá và
thể hiện riêng của mình đã đem đến cho văn học những tác phẩm giàu giá trị
nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và lay thức tình cảm tốt đẹp của con
người. Dưới ngòi bút của những người nghệ sĩ chuẩn mực đạo đức gia đình luôn
được thể hiện rõ nét và đem lại những giá trị giáo dục to lớn. Trong chương
trình Tiếng Việt Tiểu học có nhiều tác phẩm thơ lấy tình cảm gia đình làm
phương tiện để chuyển tải thông điệp tới người đọc người nghe, giáo dục cho
học sinh tình yêu gia đình, yêu thương, kính trọng ông bà cha mẹ và anh chị em
trong gia đình. Từ thuở lọt lòng các em được sống trong tình yêu thương, nâng
niu của ông bà, bố mẹ, anh chị em và mọi người xung quanh. Tình cảm đó đã
13
thấm vào máu thịt các em, nó cứ lớn dần lên theo năm tháng. Tình cảm đó đi
vào văn chương không cầu kỳ, kiểu cách mà vô cùng chân thật đáng yêu. Trước
hết đó là tình cảm ruột thịt trong gia đình ông bà, cha mẹ, tình cảm anh em vừa
thân thương vừa cảm động. Đó là thái độ trân trọng, kính yêu, biết ơn ông bà,
cha mẹ. Nói đến tình cảm gia đình không thể không nhắc đến tình mẫu tử thiêng
liêng cao đẹp, tình cảm ấy là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca. Mỗi người
Việt Nam sinh ra và lớn lên trong vòng tay của mẹ ít nhiều cũng từng được nghe
tiếng à ơi ru hời êm dịu như suối hát, những lời ca ngọt ngào như dòng sữa mẹ
vẫn không có gì thay thế được một hồi ức đẹp về tình yêu mẹ dành cho con.
Hình ảnh người mẹ ngồi ru con giữa trưa hè nắng nóng trong bài thơ Mẹ của nhà
thơ Trần Quốc Minh gợi cho ta biết bao suy ngẫm về tình yêu thương vô bờ bến
của mẹ. Bài thơ không chỉ lột tả vẻ đẹp của tình mẫu tử mà còn chất chứa trong
đó nỗi vất vả của mẹ khi sinh ra và nuôi dạy con. Lời hát ru của mẹ cứ nhẹ
nhàng và âu yếm thấm dần vào tâm hồn của mỗi đứa con.
Đáp lại tình thương yêu bao la của những người mẹ đó là tình cảm giản dị,
chân thành của những đứa con hiếu thảo. Tình cảm đó thể hiện rõ trong bài thơ
Mẹ ốm của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Mẹ là hiện thân của tình yêu thương và
lòng nhân hậu. Đi cùng đời mẹ là nỗi gian truân vất vả. Khi mẹ ốm các em xót

xa và thương mẹ. Em sẵn sàng làm mọi việc giúp mẹ. Lòng hiếu thảo bộc lộ qua
từng chi tiết nhỏ:
Mẹ vui con có quản gì
Ngâm thơ kể chuyện rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo
[14, tr. 9]
Tình cảm của con cháu giành cho ông bà cũng được thể hiện rõ nét trong
các tác phẩm thơ. Đến với bài thơ Thương ông của nhà thơ Tú Mỡ ta sẽ thấy sự
quan tâm giản dị thường tình của cháu giành cho ông. Khi thấy chân ông “nó
sưng nó tấy” ông vất vả “đi phải chống gậy”, người cháu nhỏ chơi ngoài sân đã
“lon ton” chạy đến hỏi thăm ông. Hành động tuy nhỏ bé nhưng đó lại là liều
14
thuốc chữa lành cái chân đau của ông bằng sự hiếu thảo, quan tâm của đứa cháu
nhỏ giành cho ông. Bài thơ là lời nhắn nhủ tới các em nhỏ phải luôn biết gần
gũi, yêu thương ông bà, hành động của em nhỏ trong bài thơ là tấm gương sáng
để các em học sinh noi theo.
Tình cảm của cháu nhỏ trong bài thơ Quạt cho bà ngủ dành cho người bà
thật cảm động thật đáng trân trọng. Bài thơ mang tính chân thực trước hết vì nó
là thứ tình cảm thiêng liêng vô bờ của đứa cháu với người bà yêu quý của mình.
Thạch Quỳ đưa giấc ngủ của người bà vào một hoàn cảnh đặc biệt vì bà của bé
thiu thiu chợp mắt trong một buổi nắng hè oi bức. Không một lời nhưng giường
như bé đã ngồi quạt cho bà lâu lắm rồi. Quạt thật khẽ, thật đều đến nỗi hơi mát
nhè nhẹ ấy khiến cho mọi vật xung quanh cũng buồn ngủ lây.
Bàn tay bé nhỏ
Vẫy quạt thật đều
Ngấn nắng thiu thiu
Đậu trên tường trắng
[13, tr. 23]
Cốc chén trên bàn cũng thôi không còn va chạm vào nhau, căn nhà trở nên

im ắng lạ thường. Dường như mọi vật cũng như hiểu ra tình cảm của bé dành
cho bà mà chúng trở nên đồng cảm với bé.
Căn nhà đã vắng
Cốc chén nằm im
[13, tr. 23]
Mùi hương bình dị của hoa trong vườn cũng “lặng” đi vì cảm động, cũng la
đà bên hai bà cháu, để theo làn gió nhẹ của chiếc quạt từ tay cháu mùi hoa lan
tỏa vào giấc ngủ của bà, tặng bà giấc mơ đầy hương thơm. Bài thơ nhẹ nhàng
giản dị nhưng sâu lắng, gợi lên cảnh sắc nông thôn gần gũi, chan hòa. Đọc xong
bài thơ ta như có cảm giác lâng lâng đến lạ, mong sao cuộc đời này có thật nhiều
niềm thương mến, thật nhiều đứa cháu hiếu thảo như thế.
Tình cảm anh em ruột thịt trong gia đình cũng thật đáng quý, đáng trân
trọng thể hiện chuẩn mực đạo đức trong cách cư xử của mỗi con người. Tình
15
cảm yêu thương của người anh dành cho cô em gái nhỏ trong bài thơ Tiếng võng
kêu của nhà thơ Trần Đăng Khoa thật đáng ngưỡng mộ. Tình cảm ấy thể hiện
thật sâu sắc qua hình ảnh thật đáng yêu với lời thơ như lời người anh nhắn thầm
với em gái mình:
Em ơi cứ ngủ
Tay anh đưa đều
Ba gian nhà nhỏ
Đầy tiếng võng kêu
[12, tr. 117]
Câu thơ “Em ơi cứ ngủ” cũng làm cho ta thấy tình yêu thương của người
anh dành cho em gái thật lớn lao. Bên cạnh tình thương yêu cũng thể hiện được
người anh đã làm tròn trách nhiệm đối với em gái đó là ru em ngủ. Bằng tiếng
võng quen thuộc, bằng tình yêu thương chăm sóc của người anh đã đưa em vào
giấc ngủ ngon với giấc mơ đẹp. Đọc bài thơ ta thấy hiện lên tình cảm anh em
thật thân thiết, một tình cảm gia đình đáng quý. Qua bài thơ giáo dục các em học
sinh phải biết yêu thương em nhỏ, dành tình cảm chân thành quan tâm em, giúp

đỡ cha mẹ trong việc giáo dục và nuôi dạy em nhỏ.
Trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học có nhiều tác phẩm thơ viết về tình
cảm gia đình, tình cảm giữa ông bà và cháu, tình cảm giữa cha mẹ và con cái
hay tình cảm giữa anh chị em trong gia đình với nhau. Mỗi bài thơ đều mang lại
giá trị to lớn, đề cao chuẩn mực đạo đức trong gia đình. Qua các tác phẩm thơ
học sinh sẽ tiếp nhận được những giá trị nhân văn sâu sắc, giáo dục các em biết
trân trọng tình cảm thiêng liêng trong gia đình. Biết kính trên nhường dưới, đoàn
kết yêu thương giúp đỡ đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Đó
chính là phẩm chất đạo đức đáng quý của con người Việt Nam.
1.2.2.2. Những chuẩn mực đạo đức trong quan hệ xã hội
Đây là một nội dung mà văn học trong chương trình Tiểu học đặt ra một
cách khá rõ rệt. Mối quan hệ giữa cá nhân và sự phát triển của xã hội thể hiện ở
sự tác động và thích ứng của mỗi con người đối với xã hội. Thế hệ trẻ cần được
giáo dục tinh thần trách nhiệm, tình yêu tổ quốc, yêu chế độ, xây dựng xã hội
16
ngày càng tốt đẹp. Muốn được như vậy, các em trước hết cần có ý thức tu dưỡng
tự hoàn thiện vượt lên chính mình để trở thành một tế bào có ích thực sự của
một cơ thể sống và phát triển. Có khát vọng chân chính. Có quyết tâm bền vững,
con người phải tiến tới trang bị cho mình những phẩm chất, những năng lực đích
thực. Sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh Tiểu học chỉ được diễn ra
trong quá trình trẻ tích cực tham gia vào các loại hình hoạt động và các mối
quan hệ muôn hình muôn vẻ trong xã hội, nhằm chiếm lĩnh các kinh nghiệm xã
hội, các giá trị văn hóa của loài người. Trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học
đã có nhiều tác phẩm thơ mang ý nghĩa giáo dục đạo đức cho học sinh trong mối
quan hệ với xã hội. Khi được học bài thơ Tiếng ru của nhà thơ Tố Hữu các em
sẽ được tiếp nhận những giá trị đạo đức quý báu, giáo dục các em hành vi ứng
xử trong cộng đồng xã hội.
Mở đầu bài thơ tác giả đã nêu lên mối quan hệ tự nhiên giữa sinh vật và
môi trường sống, các loài vật tách khỏi môi trường sống của nó thì sẽ chết, đó là
quy luật tất yếu của tự nhiên. Và con người cũng vậy phải biết sống gắn bó hòa

hợp trong xã hội trong môi trường sống của mình. Tác giả cũng khẳng định rằng
con người không thể sống cô đơn mà phải có tình yêu thương đồng chí và anh
em của mình, biết giúp đỡ nhau, yêu thương che chở nhau như anh em ruột thịt.
Đề cao tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, trong cuộc sống một cá nhân rất khó
để đi đến được thành công mà phải nhờ vào sức mạnh của tập thể, của sự gắn
kết trong cộng đồng. Tác giả đã gửi gắm vào những vần thơ lời ca ngợi lời
khuyên nhủ con người muốn tồn tại trong xã hội cần có sự đoàn kết, đùm bọc,
yêu thương giúp đỡ nhau. Bởi tình yêu thương làm cho con người sống ngày
càng có ý nghĩa hơn, sự gắn kết với cộng đồng chính là con đường dẫn ta tới
thành công.
Một phẩm hạnh cao quý nhất của con người trong xã hội là tình yêu quê
hương, đất nước. Tình yêu ấy có lúc là tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí
chống giặc ngoại xâm, có khi là lòng căm thù quyết không đội trời chung với kẻ
thù.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, thiếu nhi Việt Nam hăng hái làm
17
theo lời dạy của Bác Hồ: Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình. Nhiều
bạn nhỏ đã hi sinh tuổi thơ trong sáng cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chủ quyền
độc lập tự do của dân tộc. Hình ảnh chú bé liên lạc hồn nhiên, dũng cảm trong
bài thơ Lượm của Tố Hữu đã để lại cho thế hệ trẻ niềm cảm phục sâu sắc. Hình
ảnh chú bé Lượm được tác giả khắc họa rõ nét thật gần gũi với các em thiếu nhi.
Sự hi sinh anh dũng của chú bé liên lạc là tấm gương sáng về tình yêu quê
hương đất nước cho các em thiếu nhi noi theo.
Không ai có thể phủ nhận vai trò của quê hương, quê hương lưu giữ những
kỉ niệm ngày thơ bé cho tới khi nhắm mắt xuôi tay. Quê hương vỗ về những thất
bại, mỉm cười với thành công. Có rất nhiều tác phẩm viết về quê hương nhưng
“Quê hương” của Đỗ Trung Quân mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với các em
học sinh. Tác giả dùng những hình ảnh gần gũi như chùm khế ngọt, đường đi
học, con diều, cầu tre…để gợi nhớ về quê hương. Những vần thơ mộc mạc giản
dị sâu lắng in đậm trong trí nhớ trẻ thơ về hình ảnh quê hương. Bài thơ không

chỉ thể hiện tình yêu của tác giả đối với quê hương mà còn giáo dục cho các em
tình yêu quê hương sâu sắc, nhờ tình yêu quê hương sẽ thôi thúc các em không
ngừng cố gắng học tập để làm giàu cho quê hương, cống hiến sức mình cho đất
nước.
Bác Hồ là nguồn cảm hứng lớn trong thơ ca. Từ một con người anh hùng
dân tộc trong lịch sử, văn chương đã khắc họa hình tượng Bác là con người anh
hùng trong nghệ thuật. Bác trở thành hình tượng trung tâm của văn học và là
một chủ điểm trong chương trình Tiểu học. Hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp văn
học trong chương trình Tiểu học có nhiều tác phẩm nhắc đến Bác với tình cảm
yêu mến trân trọng và dành cả tâm huyết để ngợi ca.
Đêm nay trên bến Ô lâu
Cháu ngồi cháu nhớ chòm râu Bác Hồ
Nhớ hình Bác giữa bóng cờ
Hồng hào đôi má bạc phơ mái đầu.
Mắt hiền sáng tựa vì sao
Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời.
18
[12, tr. 105]
Trong cảm nhận của nhà thơ, Bác Hồ hiện lên như một bậc hiền triết, minh
quân. Bác độ lượng nhân từ, mang ánh sáng đến xua tan bóng đêm nô lệ cho dân
tộc. Bác Hồ người sáng lập ra Đảng ta, cũng là hiện thân cao đẹp của Đảng,
người thay đổi đời cho cả dân tộc. Hình tượng Bác Hồ trong văn chương ở
chương trình Tiểu học thật sinh động trong nhiều dáng vẻ khác nhau. Có khi Bác
Hồ kính yêu được thể hiện qua vẻ đẹp ở ngoại hình mà ẩn dấu trong đó cái đẹp
của trí tuệ, của trái tim: Nhìn mắt sáng nhìn chòm râu/ Nhìn vầng trán rộng nhìn
đầu bạc phơ. Lời thơ ngọt ngào, ý vị như tâm tình trò chuyện thật gần gũi yêu
thương đã giúp các em càng yêu quý lãnh tụ hơn.
Sống trong xã hội, mỗi con người phải có một nghề, người nào cũng phải
lao động. Lao động có một ý nghĩa cao quý, lao động là nguồn sống, nguồn
hạnh phúc của con người. Một trong những phẩm chất đạo đức đáng quý của

con người Việt Nam đó là yêu lao động, kính trọng những người lao động chân
chính. Hình ảnh chị lao công trong bài thơ Tiếng chổi tre là hình ảnh đặc sắc về
công việc thầm lặng mà chứa đựng nhiều ý nghĩa. Bài thơ là lời nhắn nhủ của
tác giả đến với mỗi chúng ta, được sống trong môi trường trong lành là nhờ công
sức của những người lao động như chị lao công. Bài thơ chứa đựng ý nghĩa giáo
dục sâu sắc đối với các em học sinh, phải biết yêu quý kính trọng những người
lao động, tuy công việc đơn sơ thầm lặng nhưng họ đã đóng góp rất lớn cho
cuộc sống văn minh tốt đẹp hơn. Qua đó nâng cao ý thức tự giác lao động cho
các em học sinh, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn trường lớp sạch
đẹp.
Nhà thơ Võ Quảng thật tinh tế sâu sắc khi mượn hình ảnh anh đóm đóm để
tái hiện những công việc hi sinh thầm lặng cống hiến cho đất nước mà giáo dục
học sinh qua bài thơ Anh đom đóm. Bằng đôi mắt tinh tế, bút pháp tỉ mỉ tác giả
đã dựng nên một thế giới động vật vô cùng sinh động, những con vật trong thế
giới của trẻ thơ đặc biệt là những đứa trẻ ở nông thôn. Thế giới động vật được
tác giả liên tưởng như thế giới con người với những công việc riêng của mình để
duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bài thơ ca ngợi sự chăm chỉ chuyên
19
cần của anh đom đóm trong việc đi gác vào ban đêm, một công việc âm thầm và
lặng lẽ không một chút phô trương. Qua hình ảnh anh đom đóm tác giả muốn
giáo dục con người Việt Nam nói chung và thế hệ thiếu nhi nói riêng cần phải
biết yêu thương, quý trọng những công việc thầm lặng mà đầy ý nghĩa như anh
đom đóm, sẵn sàng hi sinh bản thân để mang lại cuộc sống tốt đẹp cho người
khác.
Trong xã hội, khi con người đã đề cao lòng yêu nước, giá trị lao động, tinh
thần giúp đỡ lẫn nhau và đức tính trung thực, thật thà, lễ độ… bao nhiêu thì
cũng lên án một cách quyết liệt những gì trái với những chuẩn mực đạo đức ấy
bấy nhiêu. Hai tính cách được coi như ngọn nguồn mọi tính xấu của con người
là độc ác và tham lam cũng trở thành đối tượng phê phán, chế diễu và trừng phạt
trong văn học từ xưa tới nay. Tác phẩm Gà Trống và Cáo là một minh chứng

cho vấn đề này. Đó là những bài học quý báu có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với
các em học sinh. Là cơ sở, nền tảng để các em rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo
đức, không ngừng phấn đấu học tập để hoàn thiện bản thân mình.
1.2.2.3. Những chuẩn mực đạo đức trong quan hệ trường học
Trường học là ngôi nhà thứ hai của các em học sinh, khi đến trường các em
được học tập vui chơi được giáo dục toàn diện về mọi mặt. Trường học giữ vai
trò quan trọng trong việc hình thành các chuẩn mực đạo đức cho học sinh. Trong
chương trình Tiếng Việt Tiểu học đã đưa vào các tác phẩm thơ mang ý nghĩa
giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử trong trường học. Văn học trong chương trình
Tiểu học chủ yếu dành cho thiếu nhi, lứa tuổi đang cắp sách tới trường nên cũng
nói nhiều đến quan hệ thầy trò, quan hệ bạn bè và bổn phận của người học sinh
trong trường học. Chủ điểm Nhà trường là một chủ điểm lớn nêu lên những
chuẩn mực đạo đức trong quan hệ thầy trò. Trước hết là tình cảm dạt dào, niềm
xúc động thiêng liêng của các em trong “Ngày khai trường” với biết bao niềm
vui niềm phấn khởi khi được gặp lại thầy cô, gặp lại bạn bè. Học trò phải biết
vâng lời thầy cô giáo, phải có thái độ trung thực thật thà chăm chỉ trong học tập
thể hiện qua các tác phẩm: Ngày hôm qua đâu rồi, Làm việc thật là vui. Đó là cô
giáo như mẹ hiền nâng niu chăm sóc cho em từng li từng tí: Hai chân trời của
20
con/ Là mẹ và cô giáo (Trần Quốc Toàn). Dù đi đâu, bay về chân trời nào những
lời cô giáo giảng từ khi còn học ở Tiểu học luôn gợi lên trong em những tình
cảm nồng ấm: Những lời cô giáo giảng/ Ấm trang vở thơm tho/ Yêu thương em
ngắm mãi/ Những điểm mười cô cho (Nguyễn Xuân Sanh). Hình ảnh cô giáo
hiện lên trong bài thơ qua cái nhìn của bạn học sinh nhỏ thật đẹp, thật lung linh,
từ hình dáng đến phẩm chất, từ nụ cười đến sự tận tụy, dịu dàng nhân hậu. Bài
thơ là tình cảm gần gũi, thắm thiết giữa cô giáo và các bạn học sinh. Chính nhờ
sự dạy bảo của cô đã khiến các em yêu mến, ngưỡng mộ cô bằng những tình
cảm chân thành của trẻ thơ. Bài thơ là lời nhắc nhở các em học sinh ghi nhớ
công ơn dạy dỗ của cô giáo đồng thời giáo dục các em chăm ngoan học giỏi để
làm thầy cô vui lòng. Luôn yêu thương, kính trọng thầy cô giáo, phát huy truyền

thống “Tôn sư trọng đạo” vốn có của con người Việt Nam.
Trong nhà trường tình bè bạn là điều rất đáng quý. Bè bạn phải biết thương
yêu nhau và giúp đỡ lẫn nhau (Mèo con đi học, Gọi bạn). Tình bạn cũng là một
nét đẹp đạo đức được con người luôn trân trọng, giữ gìn. Ở lứa tuổi Tiểu học
tình bạn vừa chân thật vừa hồn nhiên, ngây thơ hết lòng vì nhau, chia bùi sẻ ngọt
với nhau cũng là một trong những nội dung quan trọng của tác phẩm thơ trong
chương trình Tiểu học. Có thể nói tuổi thiếu nhi là tuổi vui chơi, tuổi học hành
với những bài học quý báu răn dạy các em phải bền chí tu thân học hành mới
nên người. Thực tế trong những năm đất nước có chiến tranh, thiếu nhi ta rất
xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Các em sớm biết yêu đất nước,
yêu đồng bào, yêu tất cả những gì gắn bó với quê hương làng mạc… Tinh thần
yêu nước đó luôn luôn đi liền với những kỷ niệm tuổi thơ của các em và được
các tác phẩm thơ trong chương trình Tiểu học phản ánh một cách chân thực sâu
sắc. Văn học viết cho trẻ có nội dung phong phú, đề cập đến nhiều khía cạnh
trong đời sống, tâm hồn tính cách của trẻ.
Nó được các nhà thơ thể hiện ở nhiều góc độ, phương diện trong tác phẩm
viết cho thiếu nhi. Đặc biệt thông qua chủ điểm nhà trường giáo dục cho các em
tình yêu ngôi trường, thầy cô, bạn bè và cả những trang sách, quyển vở, ngòi
bút, con chữ, cái nhãn vở… Trí tuệ làm nên vũ khí vô địch của con người. Nhờ
21
có trí tuệ mà loài người đã tiến hóa, đã có đủ sức mạnh để có thể chế ngự cả
thiên nhiên và muôn loài, làm chủ cuộc sống.
Những tác phẩm thơ trong chương trình Tiểu học có vai trò quan trọng
trong việc giáo dục đạo đức cho các em học sinh. Ngoài việc biểu đạt suy nghĩ
tình cảm, sự đánh giá nhận xét của tác giả về sự vật hiện tượng, thơ còn để lại
những ý nghĩa giáo dục hết sức sâu sắc. Giáo dục các em mối quan hệ tốt đẹp
trong gia đình, yêu thương kính trọng, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, đoàn kết,
đùm bọc giúp đỡ anh chị em trong gia đình. Giáo dục các em giữ gìn mối quan
hệ tốt đẹp ngoài xã hội, yêu thương kính trọng những người lao động chân
chính, làm việc tốt để giúp đỡ mọi người xung quanh, sống hòa nhập với cộng

đồng để tạo sức mạnh đoàn kết giúp con người thành công trong cuộc sống.
Trong trường học nhờ những tác phẩm thơ về mái trường, về thầy cô, bạn bè đã
giúp các em biết yêu thương kính trọng thầy cô giáo, yêu thương giúp đỡ bạn bè.
Đó chính là động lực để giúp các em chăm chỉ học tập rèn luyện, luôn học hỏi
trau dồi đạo đức để phát triển toàn diện hơn. Các tác phẩm thơ ở chương trình
Tiểu học có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của các em, các em học hỏi được
nhiều điều từ những vần thơ trong sáng giản dị mà mang ý nghĩa giáo dục sâu
sắc. Chính nhờ giá trị giáo dục của các tác phẩm thơ là nền tảng vững chắc để
các em trở thành con ngoan trò giỏi, phát huy tốt phẩm chất đạo đức của con
người trong thời đại mới.




×