ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
THAM GIA XÉT GIẢI THƯỞNG "TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM"
NĂM 2014 DÀNH CHO SINH VIÊN
ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC LÀM VIỆC
CỦA LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI -
NGỤ Ý CHO ĐÀO TẠO NGHỀ
Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh doanh và quản lý (KD2)
Nhóm sinh viên thực hiện: Trần Minh Trang /Nữ
Đỗ Mỹ Linh /Nữ
Nguyễn Nguyệt Minh/Nữ
Nguyễn Ngọc Anh /Nữ
Dân tộc: Kinh
Lớp, khoa: E-BBA 3A, E-BBA 3B, Viện Quản Trị Kinh Doanh
Năm thứ: 3 / 4 năm đào tạo
Ngành học: Quản trị kinh doanh bằng tiếng Anh
Người hướng dẫn: TS. Trần Thị Hồng Việt
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC VIẾT TẮT
EFA: Exploratory Factor Analysis
ILO: International Labour Organization
KMO: Kaiser-Meyer-Olkin
NCKH SV: Nghiên Cứu Khoa Học Sinh Viên
NĐ-CP: Nghị Định Chính Phủ
PGS.TS: Phó Giáo Sư – Tiến Sỹ
P-value: Probability value
SPSS: Statistical Package for the Social Sciences
TNHH: Trách Nhiệm Hữu Hạn
WTO: World Trade Organization
5
GIỚI THIỆU CHUNG
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) với
quyết tâm từng bước xây dựng một nền kinh tế ngày càng ổn định và phát triển bền
vững.Mặc dù những năm vừa qua kinh tế nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức
lớn của lạm phát và khủng hoảng kinh tế thế giới, đời sống của người dân vẫn được cải
thiện rõ rệt về mọi mặt.Mức sống dần đi lên của người dân cũng tỉ lệ thuận với nhịp
điệu hối hả của cuộc sống và sự cần thiết của các dịch vụ xã hội dành cho các gia
đình.Trong số các dịch vụ đó, giúp việc gia đình là một trong những dịch vụ được
quan tâm hơn cả bởi nó giúp ích rất nhiều cho các gia đình bận rộn ở các thành phố
lớn như Hà Nội.
Có thể nói, giúp việc gia đình ở các đô thị lớn như Hà Nội đã trở thành một
việc làm hấp dẫn đối với nhiều phụ nữ nông thôn. Đây là một trong những hệ quả của
việc phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa nhanh chóng ở Hà Nội, đặc biệt là việc
sát nhập tỉnh Hà Tây vào Hà Nội, khiến cho nhiều vùng đất được sửa đổi mục đích sử
dụng từ đất canh tác nông nghiệp thành công nghiệp hoặc xây dựng các khu dân cư
mới. Điều này khiến cho một bộ phận không nhỏ người nông dân phải chuyển đổi
nghề hoặc học thêm nghề khác.
Như vậy, quan hệ cung – cầu trong xã hội đã được thiết lập. Các hộ gia đình
thành thị ngày nay coi lao động giúp việc gia đình như một nhu cầu thiết yếu, giúp cho
người vợ, người mẹ trong gia đình giảm bớt gánh nặng, có nhiều thời gian hơn cho
công việc xã hội. Đồng thời, dịch vụ giúp việc gia đình cũng giúp giải quyết tình trạng
thiếu việc làm của một bộ phận lao động, đặc biệt là lao động nữ ở nông thôn.
Tuy nhiên, nguồn cung cấp nhân lực cho dịch vụ giúp việc gia đình hầu hết là
phụ nữ và trẻ em nghèo nông thôn với trình độ học vấn và kỹ năng chưa cao. Theo các
chủ sử dụng lao động, hầu hết họ tìm lao động giúp việc gia đình qua quan hệ cá nhân,
như bà con ở quê hoặc bạn bè giới thiệu. Chỉ có một số rất ít tìm qua các Trung tâm
giới thiệu việc làm. Việc tìm kiếm nguồn lao động tự phát này cũng nói lên rằng hầu
6
hết các lao động không được đào tạo kỹ năng giúp việc. Điều này đã gây nhiều khó
khăn và làm mất thời gian cho cả người sử dụng lao động và người lao động. Bên cạnh
đó, tinh thần, thái độ làm việc và ý thức trách nhiệm của không ít người giúp việc cũng
chưa đáp ứng yêu cầu của các chủ sử dụng lao động. Các tiêu chí về tính trung thực,
thật thà, những hành vi ứng xử và nếp sống văn minh đô thị chưa đáp ứng yêu cầu của
các chủ thuê lao động ở thành phố.
Ở Việt Nam, giúp việc gia đình đang dần trở thành một nghề chính thức. Ngày
25 tháng 5 năm 2014, Nghị định số 27-NĐCP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Bộ Luật Lao động về lao động là người giúp việc gia đình đã có hiệu
lực. Theo bà Nelien Haspels - chuyên gia về giới của ILO châu Á - Thái Bình Dương,
tác động tích cực của Nghị định này là nó sẽ “gửi đi một thông điệp mạnh mẽ rằng
nghề giúp việc gia đình, khi bảo đảm các yêu cầu quy định, là một nghề chuyên
nghiệp, mang lại những lợi ích đáng kể về kinh tế và xã hội cho các gia đình thuê
người giúp việc, cho bản thân người giúp việc và cả xã hội Việt Nam”. Điều đó thể
hiện sự ghi nhận của Chính phủ rằng nghề giúp việc gia đình mang ý nghĩa quan trọng,
để các thị trường lao động có thể vận hành hiệu quả bằng cách tạo điều kiện để phụ nữ
làm việc và duy trì năng suất lao động ngoài gia đình.
Như vậy, ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đang có một nhu cầu cấp
thiết về đào tạo một cách bài bản để nâng cao năng lực làm việc cho lực lượng lao
động giúp việc gia đình. Trong khi tại Thành phố Hồ Chí Minh, tính đến nay đã có
khoảng hơn 10 trung tâm Giới thiệu việc làm của nhà nước và công ty TNHH có chức
năng đào tạo, cung ứng người giúp việc gia đình; trong khi ở Hà Nội, chưa có nhiều
quan tâm nghiên cứu thích đáng về lĩnh vực này, đặc biệt là những nghiên cứu đánh
giá cụ thể về trình độ năng lực hiện tại của lao động giúp việc gia đình nhằm cung cấp
các dữ liệu về nhu cầu đào tạo cho các trường dạy nghề hoặc trung tâm giới thiệu việc
làm trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Như vậy, một số câu hỏi cấp thiết được đặt ra có liên quan đến lĩnh vực này là:
Những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết của lao động giúp việc gia đình hiện
nay ở Hà Nội là gì? Thực trạng năng lực làm việc của đội ngũ lao động này đang ở
mức độ nào? Có những gợi ý gì có thể đề xuất trong việc xây dựng chương trình đào
7
tạo nghề nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp cho lao động giúp việc gia đình? Để trả
lời các câu hỏi trên, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn đề tài “Đánh giá năng lực làm việc
của lao động giúp việc gia đình trên địa bàn Thành phố Hà Nội - Ngụ ý cho đào
tạo nghề” trong công tình NCKH SV năm 2014. Nghiên cứu này sẽ đóng góp một
phần hữu ích trong việc đào tạo nâng cao năng lực làm việc cho lao động giúp việc gia
đình, thúc đẩy hình thành và phát triển nghề giúp việc, phát triển thị trường lao động
giúp việc gia đình, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn và phát triển kinh tế xã
hội của Thủ đô Hà Nội.
2. Tổng quan nghiên cứu
Lao động giúp việc gia đình là một loại hình lao động đã xuất hiện trên từ rất
lâu trên thế giới và cả ở Việt Nam. Lực lượng lao động này đã và đang đóng góp đáng
kể vào sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ kinh tế đổi
mới. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu của
các gia đình ở thành phố về lao động giúp việc là rất lớn bởi phụ nữ dần bận rộn hơn
với các công việc xã hội và cần có người giúp đỡ công việc gia đình. Tuy nhiên, trong
quan niệm của đại bộ phận người dân Việt Nam hiện nay, lao động giúp việc gia đình
vẫn chưa được coi là một nghề và những người làm công việc này không được tôn
trọng như những ngành nghề khác. Ở Việt Nam, hoạt động giúp việc gia đình vẫn còn
nhiều tồn tại và chưa đáp ứng được nhu cầu của cả những gia đình sử dụng lao động
lẫn những người lao động về nhiều mặt.
Năm 2001, tác giả Đặng Bích Thủy đã thực hiện nghiên cứu “Điều kiện sống và
làm việc của trẻ em gái nông thôn ra Hà Nội làm nghề giúp việc gia đinh” thông qua
phỏng vấn trực tiếp 17 nữ thiếu niên nông thôn dưới 17 tuổi đang làm giúp việc gia
đình tại Hà Nội. Qua đó, lý do chủ yếu dẫn các em gái nông thôn ra Hà Nội làm nghề
giúp việc gia đình là do điều kiện gia đình khó khăn về kinh tế, một số em do chán
học, học kém hay tò mò muốn xem cuộc sống ở Hà Nội như thế nào. Điều kiện làm
việc của trẻ em gái giúp việc gia đình là rất khó khăn, hầu như phải làm việc trong tình
trạng căng thẳng cả về thể xác lẫn tinh thần với khoảng 12 – 14 tiếng lao đông/ngày.
Tiền công nhận được tùy theo công việc của mỗi em và mọi điều kiên lao động chủ
yếu chỉ được thỏa thuận bằng miệng giữa chủ sử dụng lao động với người lao động.
Các em luôn cảm thấy thiếu thốn tình cảm của người thân, cha mẹ và không có bạn bè
8
cùng lứa để chia sẻ hoặc vui chơi do phải sống trong môi trường khép kín. Đây là một
thiệt thòi rất lớn đối với các em và nó cũng là một điểm bất lợi đối với sự hình thành
và phát triển tâm lý của các em sau này. Dựa vào thực trạng đó, tác giả đã đưa ra
những kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức về quyền trẻ em và tuyên truyền sâu rộng
các điều luật có liên quan để đảm bảo quyền trẻ em, đồng thời Nhà nước cũng cần hỗ
trợ việc làm cho các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, nghiên cứu
mới chỉ dừng lại ở lực lượng lao động giúp việc là trẻ em mà chưa đề cập đến những
đối tượng và độ tuổi lao động khác như phụ nữ và trung niên. Những người lao động ở
độ tuổi này cũng cần phải nhận được sự quan tam đúng đắn, kịp thời.
Một nghiên cứu khác là của tác giả Lê Việt Nga về “Tác động của dịch vụ giúp
việc tới gia đình” được thực hiện năm 2006 với phạm vi nghiên cứu là phường Kim
Liên, quận Đống Đa, Hà Nội. Tác giả đã thu thập thông tin từ cả ba đối tượng có liên
quan trực tiếp đến hoạt động giúp việc gia đình là: Người lao động, người sử dụng lao
động và người làm nghề môi giới hoạt động giúp việc gia đinh. Nghiên cứu trên bước
đầu đã chỉ ra rằng như cầu thuê người giúp việc hiện nay ở Hà Nội là rất lớn, đồng
nghĩa với những tác động không nhỏ của việc thuê người giúp việc tới cuộc sống của
gia đình sử dụng dịch vụ. Đồng thời, nghiên cứu cũng nêu lên một số khó khăn, trở
ngại của các bên như chất lượng làm việc của người lao động chưa cao, chưa đáp ứng
được yêu cầu của người sử dụng lao động. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Lê Việt Nga
chỉ dựa trên một quy mô mẫu nghiên cứu khá nhỏ bao gồm 20 người làm thuê, 20 người
sử dụng lao động và 5 cán bộ giới thiệu việc làm trong phạm vi phường Kim Liên. Bài
nghiên cứu cũng chỉ khai thác được một số khía cạnh của hoạt động giúp việc gia đình do
phạm vi nghiên cứu chưa rộng và cũng chưa đề ra được nhiều giải pháp thiết thực khắc
phục tình trạng này.
Nghiên cứu “Hiện trạng công việc và đời sống của nữ nhập cư làm giúp việc
nhà tại thành phố Hồ Chí Minh” (2009) của tác giả Đào Bích Hà có đối tượng nghiên
cứu là những người lao động trên 18 tuổi di cư từ nông thôn ra thành phố Hồ Chí
Minh làm công việc giúp việc gia đình. Tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu
định tính với 15 cuộc phỏng vấn sâu để thu thập thông tin nhằm phản ánh thực trạng
lao động giúp việc gia đình hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh. Theo nghiên cứu này,
đa số người giúp việc đều không hài lòng về thời gian làm việc nặng nhọc, cảm giác bị
9
gò bó, thiếu tự do và chịu sự kiểm soát của gia chủ. Ngoài ra người nữ di cư còn phải
chấp nhận sự xa cách gia đình, không thể chăm sóc con cái và liên hệ xã hội với bạn
bè, người thân. Tuy phạm vi nghiên cứu đã được mở rộng hơn so với nghiên cứu của
tác giả Lê Việt Nga đã đươc đề cập ở trên, nghiên cứu này vẫn chưa đưa ra được
những giải pháp thiết thực, cụ thể nhằm giải quyết những tồn đọng trên.
Trong nghiên cứu “Làn sóng phụ nữ nông thôn ra thành thị làm giúp việc gia
đinh” (2007), tác giả Dương Kim Hồng đã phần nào phản ánh được một số khía cạnh
của hoạt động giúp việc gia đình ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh. Theo đó, người lao động ở ngay trong nhà của gia chủ và người lao động thuê
nhà trọ ở ngoài là hai hình thức cơ bản của loại hình lao động giúp việc. Tuy nhiên,
hạn chế của nghiên cứu này là chỉ lấy ý kiến của những người là chủ hộ gia đình có
thuê người giúp việc mà không thực hiện phỏng vấn sâu người lao động giúp việc để
phản ánh trực tiếp tâm trạng, hoàn cảnh cũng như tâm tư nguyện vọng của họ.
Mới đây nhất, bài nghiên cứu “Nghiên cứu thực trạng một số loại hình giúp việc
gia đình ở Hà Nội hiện nay và đề xuất giải pháp quản lý” do tác giả Ngô Thị Ngọc Anh
thực hiện năm 2009 đã cho chúng ta thấy thực trạng của lao động giúp việc gia đình ở
Hà Nội hiện nay và đề xuất các giải pháp quản lý phù hợp và cần thiết để nâng cao chất
lượng lao động giúp việc gia đình, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao
động và người sử dụng lao động. Đối tượng nghiên cứu là người lao động giúp việc và
những hộ gia đình đang sử dụng dịch vụ này trên địa bàn các quận của thành phố Hà
Nội như Ba Đình, Cầu Giấy, Đống Đa… Tất cả những đối tượng này đều được phỏng
vấn sâu để có cái nhìn sâu hơn về thực trạng lao động giúp việc. Tuy nhiên, tác giả mới
chỉ đề xuất giải pháp về vấn đề quản lý lực lượng lao động giúp việc chứ chưa thực sự đi
sâu vào các giải pháp đào tạo nhằm nâng cao tay nghề làm việc của họ.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, nhu cầu về lao động giúp việc
đang ngày một tăng lên như một xu thế tất yếu của quá trình phát triển. Dịch vụ giúp
việc gia đình phát triển đã mang lại nhiều lợi ích to lớn cho xã hội nhưng cũng còn khá
nhiều tồn tại, vướng mắc cần phải giải quyết xung quanh kiến thức, kỹ năng của
người lao động, mối quan hệ chủ nhà- người giúp việc cũng như các chính sách bảo vệ
quyền lợi cho người lao động,vv . Đây đang là một vấn đề nóng hổi, đòi hỏi sự quan
tâm thích đáng của các cơ quan chức năng.Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây mới
10
chỉ tập trung vào một số khía cạnh cụ thể như tìm giải pháp tái hòa nhập cộng đồng
cho lực lượng giúp việc là trẻ em hoặc các khía cạnh pháp luật và quản lý. Các nghiên
cứu này hầu như chưa đánh giá đầy đủ và hệ thống về thực trạng lao động giúp việc
gia đình trên toàn thành phố Hà Nội, chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể, thiết
thực về đào tạo nhằm nâng cao năng lực làm việc của lao động giúp việc gia đình
Trước thực tiễn đó, đề tài nghiên cứu “Đánh giá năng lực làm việc của lao động giúp
việc gia đình trên địa bàn thành phố Hà Nội - Ngụ ý cho đào tạo nghề” sẽ tập trung
vào phân tích các yêu tố cấu thành nên năng lực làm việc, tìm ra khoảng cách giữa
năng lực làm việc mong đợi từ phía người sử dụng lao động và năng lực làm việc thực
tế của người lao động. Nghiên cứu này sẽ cung cấp những căn cứ về mặt khoa học và
thực tiễn cho việc đề xuất các kiến nghị đào tạo nâng cao tay nghề của lao động giúp
việc gia đình, từ đó đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy sự phát triển nghề giúp việc
và thị trường lao động giúp việc gia đình ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm vào các mục tiêu cơ bản sau đây:
• Xác định các yêu cầu về năng lực làm việc (năng lực làm việc cần thiết) của lao động
giúp việc gia đình trên địa bàn thành phố Hà Nội
• Phân tích năng lực làm việc thực tế hiện nay của lao động giúp việc gia đình trên địa
bàn thành phố Hà Nội, từ đó tìm ra khoảng cách giữa năng lực hiện tại và năng lực cần
thiết đối với lao động giúp việc gia đình.
• Đưa ra các đề xuất có liên quan đến đào tạo nghề cho lao động giúp việc gia đình trên
địa bànThành phố Hà Nội.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu trên đây, các câu hỏi nghiên cứu
cần phải trả lời bao gồm:
• Năng lực làm việc cần thiết của lao động giúp việc gia đình trên địa bàn Thành phố Hà
Nội gồm những nội dung gì?
• Năng lực làm việc thực tế của lao động giúp việc gia đình trên địa bàn thành phố Hà
Nội hiện nay như thế nào so với những năng lực làm việc cần thiết?
• Có những kiến nghị gì về đào tạo nghề giúp việc gia đình nhằm nâng cao năng lực và
sự chuyên nghiệp trong công việc cho lao động giúp việc gia đình tại thành phố Hà
Nội.
11
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Quy trình nghiên cứu
Khảo sát chủ sử dụng lao động
Phỏng vấn sâu chủ sử dụng lao động
Khảo sát chủ sử dụng lao động
Phỏng vấn sâu chủ sử dụng lao đông và người lao động
Năng lực làm việc cần thiết
Năng lực làm việc thực tế
Sự khác biệt
Đề xuất
Khung lý thuyết về năng lực làm việc
Biểu đồ 1: Quy trình nghiên cứu
(Nguồn: Phân tích nhóm nghiên cứu)
12
13
Quá trình nghiên cứu bao gồm các bước sau:
• Bước 1: Nghiên cứu các tài liệu thứ cấp về nghề giúp việc gia đình và năng lực làm
việc của lao động giúp việc gia đình (trong đó có khung lý thuyết về năng lực làm viêc
của người lao động).
• Bước 2: Phỏng vấn các hộ gia đình sử dụng lao động
• Bước 3: Thiết kế bảng hỏi dựa trên tài liệu thứ cấp và phỏng vấn
• Bước 4: Khảo sát thử và kiểm tra lại tính chính xác của bảng hỏi
• Bước 5: Thực hiện khảo sát và phỏng vấn sâu chính thức chủ sử dụng lao động và lao
động giúp việc gia đình
• Bước 6: Phân tích số liệu đã thu thập được, rút ra vấn đề và nguyên nhân
• Bước 7: Đề xuất các kiến nghị
5.2 Thu thập số liệu
• Số liệu thứ cấp: Nguồn thông tin thức cấp được thu thập từ các tài liệu sách, báo cáo,
dữ liệu về lao động giúp việc gia đình đã được nghiên cứu để xác đinh yêu cầu về
năng lực làm việc và đánh giá năng lực làm việc thực tế của lao động giúp việc ở Hà
Nội. Đặc biệt, các mô hình lý thuyết về năng lực làm việc của người lao động được
xem xét và lựa chọn làm căn cứ cho việc xây dựng mô hình khung năng lực của lao
động giúp việc gia đình.
• Số liệu sơ cấp: Được thu thập theo 2 cách sau đây:
- Điều tra khảo sát:
+ Đối tượng khảo sát: Các hộ gia đình sử dụng lao động giúp việc ở Hà Nội
+ Mẫu khảo sát: Bảng 1 cho thấy tổng số phiếu phát ra là 170 phiếu, tổng số phiếu
thu về là 143 phiếu được phân bổ trên 8 quận nội thành của Thành phố Hà Nội, trong đó
Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng có số phiếu thu về nhiều nhất (25 phiếu), Tây Hồ và Cầu
Giấy có số lượng ít nhất (10 phiếu). Căn cứ chọn mẫu dựa vào đặc điểm và điều kiện sống
của dân cư cũng như trình độ phát triển kinh tế xã hội của các quận nội thành của Thành
phố Hà Nội.
Bảng 1: Quy mô và cấu trúc mẫu điều tra
Quận Số phiếu phát ra Sốphiếu thu về
14
Hoàn Kiếm 30 26
Hai Bà Trưng 25 25
Tây Hồ 15 10
Đống Đa 20 20
Ba Đình 15 10
Thanh Xuân 20 20
Cầu Giấy 15 10
Hoàng Mai 30 22
Tổng 170 143
(Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu)
+ Bảng hỏi đã được thiết kế dựa trên tài liệu tham khảo, khảo sát và phỏng vấn
mẫu nhỏ người sử dụng lao động giúp việc. Bảng hỏi được xây dựng trên thang đo
likert 5 điểm. Nội dung bảng hỏi bao gồm 2 phần: Phần thông tin chung về người được
khảo sát và phần câu hỏi liên quan đến đánh giá năng lực làm việc của người lao động
dựa trên 3 tiêu chí: Kiến thức, kỹ năng và thái độ. Người được khảo sát được yêu cầu
trả lời bằng cách lựa chọn mức độ từ 1 đến 5. Quá trình xây dựng bảng hỏi được tiến
hành qua 3 bước: Bước 1, nghiên cứu khung năng lực làm việc của người lao động để
xây dựng khung bảng hỏi; Bước 2, nghiên cứu tài liệu thứ cấp để dự thảo các tiêu chí
trong bảng hỏi; Bước 3, phỏng vấn số lượng nhỏ các chủ sử dụng lao động để hoàn
thiện các tiêu chí trong bảng hỏi.
+ Quá trình khảo sát được tiến hành qua 2 bước: Bước 1, khảo thử để kiểm tra
độ chính xác của bảng hỏi; Bước 2, khảo sát chính thức để thu thập thông tin về năng
lực làm việc cần thiết và thực tế của người lao động cũng như các mong muốn đề xuất
của các bên liên quan.
- Phỏng vấn sâu:
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu 10 chủ sử dụng lao động và 15
lao động giúp việc gia đình. Mục đích phỏng vấn sâu chủ sử dụng lao động để nắm
được các yếu tố phản ánh nội dung năng lực làm việc cần thiết của lao động giúp việc
gia đình, thực trạng năng lực làm việc thực tế của người lao động hiện nay và đặc biệt
là giúp làm rõ hơn nội hàm của các vấn đề được phát hiện trong thực trang.Phỏng vấn
sâu lao động giúp việc nhằm nhận biết năng lực làm việc thực tế của lao động giúp
việc hiện nay, mức độ đạt được cụ thể về kiến thức, kỹ năng và thái độ, và các nhân tố
15
ảnh hưởng đến mỗi loại. Nhóm nghiên cứu rất chú trọng đến đối tượng này bởi vì khảo
sát mới chỉ cung cấp thông tin từ góc nhìn của chủ sử dụng lao động, vì thế cần phải
có thêm phỏng vấn sâu người lao động đề cung cấp cái nhìn toàn diện và đầy đủ từ
quan điểm của đối tượng này.
5.3 Phân tích và xử lý số liệu
Các dữ liệu nghiên cứu sau khi thu thập xong được phân tích và xử lý bằng
phương pháp phân tích định lượng kết hợp định tính. Phân tích định lượng sử dụng
công cụ phân tích thống kê đa biến với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS, với các bước cụ
thể như là thống kê mô tả mẫu, kiểm định độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố,
phân tích means. Phân tích định tính được sử dụng kết hợp để phân tích thông tin thu
được từ phỏng vấn sâu,cùng với các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh… để
rút ra các nhận xét và kết luận cho vấn đề nghiên cứu.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6.1 Đối tượng nghiên cứu
Năng lực làm việc của lao động giúp việc gia đình bao gồm 3 yếu tố cấu thành
trong khung năng lực làm việc là: kiến thức, kỹ năng, và thái độ.
6.2 Phạm vi nghiên cứu
• Về mặt không gian:
Các gia đình sử dụng lao động giúp việc gia đình trên địa bàn thành phố Hà
Nội, tập trung tại các quận trung tâm (bao gồm quận Hoàn Kiếm, quận Hai Bà Trưng,
quận Tây Hồ, quận Đống Đa, quận Ba Đình, quận Thanh Xuân, quận Cầu Giấy, quận
Hoàng Mai)
• Về mặt thời gian: Số liệu được thu thập từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2014
7. Cấu trúc báo cáo
Giới thiệu chung
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về năng lực làm việc và khung năng lực làm việc
của người lao động
16
Chương 2: Nghề giúp việc gia đình và năng lực làm việc của lao động giúp
việc gia đình ở Hà Nội
Chương 3: Phân tích năng lực làm việc của lao động giúp việc gia đình tại Hà Nội
Chương 4: Một số đề xuất về đào tạo nhằm nâng cao năng lực làm việc của lao
động giúp việc gia đình tại Hà Nội
17
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC LÀM VIỆC VÀ
KHUNG NĂNG LỰC LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1 Định nghĩa về năng lực làm việc
Mặc dù nội dung về năng lực làm việc có thể tìm thấy ở nhiều tài liệu sách, báo
áo, luận văn trên thế giới nhưng hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa chung nào về vấn
đề này. Dựa trên các cách tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên
cứu sẽ định nghĩa năng lực làm việc theo các cách khác nhau. Dưới đây là một số định
nghĩa tiêu biểu về năng lực làm việc:
Spencer, L.M., McClelland, D.C., & Spencer, S.M (1990) định nghĩa “… năng
lực là những động lực, đặc điểm, sự tự nhận thức, kiến thức, quan điểm và các giá trị,
các kỹ năng nhận biết và hành vi - bất kỳ một đặc điểm cá nhân nào mà có thể đo
lường một cách đáng tin cậy mà những đặc điểm này có thể cho thấy sự khác biệt đáng
kể giữa những người thực hiện tốt và những người thực hiện trung bình, những người
thực hiện hiệu quả và những người thực hiện không hiệu quả. Năng lực có thể bao
gồm cả ý định, hành động và kết quả”.
Theo Bernard Wynne và David Stringer trong tác phẩm “Tiếp cận Đào tạo và
Phát triển dưới góc độ Năng lực” năm 1997 thì “Năng lực bao gồm kỹ năng, kiến
thức, hành vi và thái độ tích luỹ được của một cá nhân sử dụng để đạt được các kết
quả mà công việc của họ đòi hỏi”.
Nói cách khác thì năng lực được thể hiện qua kỹ năng, kiến thức, hành vi và thái
độ mà con người tích luỹ được và áp dụng để đạt được kết quả trong công việc của
mình. Như vậy, năng lực được gắn với kết quả đầu ra của công việc, chứ không phải
yếu tố đầu vào.
Căn cứ vào phạm vi của bài nghiên cứu, năng lực làm việc có thể được định
nghĩa như sau: “Năng lực làm việc là tổng hợp các kiến thức, kỹ năng, thái độ và
hành vi của một cá nhân nhằm đảm bảo cho cá nhân đó có thể thực hiện được công
việc và đạt kết quả tốt”.
Kiến thức
Thái độ
Kỹ năng
18
1.2 Mô hình khung năng lực làm việc
Dựa vào các định nghĩa trên, mô hình khung năng lực bao gồm 3 yếu tố chính:
Kiến thức, kỹ năng và thái độ.
Biểu đồ 1.1: Mô hình khung năng lực làm việc
(Nguồn:Tổng hợp của nhóm nghiên cứu)
Cụ thể:
Kiến thức được định nghĩa là (i) chuyên môn và kỹ năng đã được cá nhân tiếp
thu được thông qua kinh nghiệm hoặc đào tạo, hiểu biết về lý thuyết và thực hành của
một lĩnh vực cụ thể, (ii) là vốn hiểu biết trong một lĩnh vực nhất định hoặc hiểu biết
chung, bao gồm thực tiễn và thông tin, (iii) sự quan tâm hoặc am hiểu có được từ kinh
nghiệm về một tình huống hoặc sự kiến nhất định. Tóm lại, kiến thức quy về hiểu biết
liên quan đến kết quả thực hiện công việc. Hiểu biết là cái mà con người cần phải biết
để có thể thực hiện được một công việc một cách hợp lý.
Kỹ năng là khả năng tiếp thu để có thể thực hiện được một kết quả nhất định
trong khoảng thời gian và công sức bỏ ra ít nhất. Kỹ năng có thể phân loại thành kỹ
năng chung và kỹ năng cụ thể trong một lĩnh vực nhất định. Kỹ năng thường đòi hỏi
những bối cảnh hoặc kích thích nhất định từ môi trường để đánh giá mức độ kỹ năng
được bộ lộ và áp dụng.
Thái độ là khuynh hướng phản ứng lại các đối tượng, tình huống theo hướng tích
cực hoặc tiêu cực. Thái độ có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn về hành động, phản ứng lại
các thách thức, động cơ và khen thưởng của mỗi cá nhân.
Năng lực làm việc
19
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực làm việc của người lao động
Mức thu nhập: Người lao động coi mức lương là một yếu tố để tạo động lực
cho công việc của họ. Quyết định này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó một yếu
tố quan trọng là mức thu nhập mà một người muốn đi làm, hay là một mức thu nhập tối
thiểu để người đó chấp nhận hy sinh thời gian của mình cho công việc. Phụ thuộc vào
việc mức lương của họ ở mức độ nào (ít hay nhiều) mà họ cố gắng làm tốt hay không tốt
bằng công việc của họ.
Các đặc tính của hộ gia đình: Tùy thuộc vào quy mô của hộ gia đình, giới tính
của người lao động, tình trạng hôn nhân và khả năng kinh tế của gia đình mà mỗi
người lao động có những năng lực làm việc khác nhau. Ví dụ như một người lao động
có quy mô gia đình lớn, và còn gia đình để chăm sóc thì họ không thể dành nhiều thời
gian hy sinh được cho công việc, vì vậy năng lực làm việc của họ thường không được
bằng những người có ít mối quan tâm cho gia đình.
Các yếu tố về khả năng: Năng lực của người lao động quyết định phần lớn cơ
hội có việc làm của họ. Tuy nhiên, việc đo lường những yếu tố này rất khó, nếu có thì
cũng không chính xác vì có rất nhiều nghuyên nhân như: trình độ học vấn phản ánh
không chính xác khả năng có thể đảm nhận được công việc tốt hay không của người
lao động, nó chỉ phản ánh hình thức đào tạo mà chưa đề cập tới những loại hình khác
như đạo tạo trong công việc, đào tạo ngắn hạn; về chất lượng giáo dục đào tạo, ở các
vùng miền và các trường khác nhau là khác nhau; những kiến thức học được ở trường
cũng chưa chắc đã phù hợp đối với công việc trong thực tế.
Động lực làm việc : Những động lực sẽ khuyến khích một người đi làm cũng
sẽ làm tăng khả năng tham gia thị trường lao động của họ và do vậy ảnh hưởng tới khả
năng làm việc của người lao động. Những nhân tố như: thái độ của gia đình đối với
việc đi làm của một cá nhân, môi trường làm việc, hỗ trợ của các cơ quan chức năng
và sự đào tảo bài bản cho công việc. Tuy nhiên, người nghèo sẽ ít có cơ hội được học
tập, đào tạo nghề, họ thiếu thông tin.
Vùng kinh tế: Người lao động ở các vùng miền kinh tế khác nhau sẽ có những
khả năng và đặc điểm khác nhau. Ví dụ như người lao động từ nông thôn sẽ chăm chỉ
và cần cù hơn người lao động ở thành phố. Tuy nhiên, người lao động ở những vùng
miền nghèo khó thường không có cơ hội được đào tạo kỹ năng thiết yếu cho công
việc.
20
CHƯƠNG 2
NGHỀ GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ NĂNG LỰC LÀM VIỆC CỦA LAO ĐỘNG
GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TẠI HÀ NỘI
2.1 Các khái niệm cơ bản
2.1.1 Nghề giúp việc gia đình
Hiện nay ở Việt Nam chưa có quy định hay điều luật nào nêu chính xác, rõ ràng
về khái niệm của nghề giúp việc gia đình. Căn cứ sự tìm hiểu qua các nghiên cứu
trước đó, nhóm nghiên cứu đưa ra khái niệm sau:
“ Nghề giúp việc gia đình là một loại hình dịch vụ, trong đó những lao động giúp
việc gia đình bằng kiến thức và kỹ năng của mình sẽ tham gia vào các công việc gia
21
đình trong mối quan hệ việc làm. Công việc gia đình được định nghĩa là "công việc
được thực hiện trong hoặc cho một hộ gia đình hoặc nhiều hộ gia đình".
• Tính chất đặc thù: Thực hiện các công việc gia đình và chăm sóc gia đình, bao
gồm các công việc như dọn dẹp nhà, nấu ăn, giặt và ủi quần áo, chăm sóc trẻ
em, hoặc người cao tuổi hoặc người ốm trong gia đình, làm vườn, bảo vệ ngôi
nhà, lái xe cho gia đình, và cả việc chăm sóc vật nuôi trong nhà.
• Đối tượng khách hàng: Các hộ gia đình có nhu cầu sử dụng lao động giúp việc
gia đình.
2.1.2 Lao động giúp việc gia đình
Theo PGS.TS Nguyến Hữu Minh, Viện trưởng Viện Giới và Gia đình cho rằng:
Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể nào về người giúp việc gia đình trên thế
giới. Mỗi nhà nước đều đang tự áp dụng những định nghĩa khác nhau và thi hành
chính sách pháp luật khác nhau về khái niệm này và sử dụng thuật ngữ “lao động giúp
việc gia đình” để chỉ người lao động làm các công việc khác nhau trong gia đình bao
gồm cả công việc gia đình và chăm sóc gia đình. Ở Việt Nam, theo Dự thảo Bộ Luật
lao động sửa đổi Điều 191 nêu: “Người giúp việc gia đình là người lao động được
người sử dụng thuê để làm thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc
nhiều hộ gia đình. Các công việc trong gia đình là: Công việc nội trợ, quản gia, chăm
sóc trẻ, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc
khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại”.
Theo Điều 179 Bộ luật Lao động 2012, lao động giúp việc gia đình được định
nghĩa rằng: “Lao động giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các
công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình. Các công việc trong gia đình
bao gồm công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc người bệnh, chăm sóc
người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên
quan đến hoạt động thương mại. Người làm các công việc giúp việc gia đình theo hình
thức khoán việc thì không thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật này”.
Dựa theo kết quả nghiên cứu và tình hình tại Việt Nam hiện nay, nhóm nghiên
cứu cho rằng :” Lao động giúp việc gia đình là những người lao động được trả tiền
dựa trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động làm các công việc liên quan
đến gia đình, có thể làm cho một hoặc nhiều gia đình khác nhau làm từ công việc nhà
22
như đi chợ, nấu ăn, vệ sinh, nhà cửa, lau chùi, dọn dẹp, giặt giũ đến việc chăm sóc
thành viên trong gia đình, như người già, trẻ em, phụ nữ, mang thai/sau khi sinh,
người khuyết tật hoặc những công việc tạo ra lợi nhuận cho gia đình có thể diễn ra
trong hoặc ngoài gia đình. lao động giúp việc gia đình được thuê có thể sống cùng gia
đình hoặc không tùy theo từng đối tượng người sử dụng lao động muốn, và có thể làm
toàn thời gian cũng như bán thời gian”.
Từ những định nghĩa nêu trên cho thấy, khái niệm lao động giúp việc gia đình
của Bộ Luật lao động Việt Nam và nhóm nghiên cứu có điểm chung như sau:”Lao
động giúp việc gia đình là những người lao động làm các công việc trong gia đình
cho một hay nhiều hộ gia đình dựa trên thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và
lao động giúp việc”. Tuy nhiên, định nghĩa của nhóm nghiên cứu đã mở rộng hơn, bao
gồm cả những người lao động tham gia thực hiện các công việc tạo ra lợi nhuận cho
gia đình.
2.1.3 Thị trường lao động giúp việc gia đình
Nghiên cứu chỉ ra rằng: “Thị trường là là nơi tập hợp những người mua và bán
có tác động qua lại lẫn nhau và là chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm, dịch vụ hoặc
tiền tệ, nhằm thỏa mãn nhu cầu của hai bên cung và cầu về một loại sản phẩm hoặc
hàng hóa nhất định”.
“Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi giữa người sử dụng lao động và
người lao đông. Thị trường lao động là một bộ phận khó tách rời trong nền kinh tế thị
trường và chịu sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường. Một thi trường lao động tốt là thị
trường có lượng cầu và lượng cung tương ứng”
“Thị trường lao động giúp việc gia đình là thị trường lao động mà ở đó có sự
trao đổi giữa chủ sở hữu lao động giúp việc gia đình và lao động giúp việc hợp tác,
thỏa thuận với nhau làm những công việc gia đình và chăm sóc gia đình để đem đến
lợi ích cho cả hai bên”. Thị trường lao động giúp việc có đặc điểm khác với những thị
trường lao động khác. Thông thường lao động giúp việc gia đình đa số thường xuất
phát từ nông thôn, người lao động thường có hoàn cảnh gia đình và điều kiện kinh tế
khó khăn. Hiện nay, ở Việt Nam thị trường lao động giúp việc đang được đánh giá cao
và có số lượng cầu khá lớn trên thị trường lao động.
23
2.1.4 Năng lực làm việc của lao động giúp viêc gia đình
Năng lực làm việc của lao động giúp việc gia đình là kiến thức, kỹ năng và thái độ
cần có của người giúp việc khi tham gia vào các công việc gia đình và chăm sóc gia
đình như công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc người bệnh, chăm sóc
người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên
quan đến hoạt động thương mại. Nó đòi hỏi phải được trang bị những kiến thức cần
thiết, kỹ năng cơ bản, thái độ và hành vi của lao động giúp việc gia đình nhằm đảm
bảo cho người đó có thể thực hiện được công việc của họ và đạt kết quả tốt.
2.2 Tổng quan về thị trường lao động giúp việc gia đình ở Hà Nội
Trải qua gần 30 năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu to lớn nhất định trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Kinh
tế thị trường phát triển khá nhanh, ổn định và đang có xu hướng tăng mạnh, đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt ở mọi tầng lớp, nhất là ở các đô thị. Số lượng các gia
đình có mức thu nhập ổn định và khá giả ngày càng tăng nhanh, do đó nhu cầu tiếp cận
và sử dụng các loại dịch vụ xã hội của các gia đình ở đô thị ngày càng trở nên phổ
biến. Vì thế, nhu cầu cần có lao động giúp việc gia đình để có thời gian tập trung hơn
cho công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống đang trở thành nhu cầu thực tế của
nhiều gia đình. Hiện nay, nước ta có hơn 200.000 lao động giúp việc gia đình, trong đó
lao động giúp việc gia đình là nữ chiếm tới hơn 90%. Ở các thành phố lớn, nhu cầu về
lực lượng lao động này đang ngày một tăng. Nguồn cung ứng lao động chủ yếu đều
xuất phát ở nông thôn.
Năm 2011, 46% các hộ gia đình được khảo sát ở Hà Nội có lao động giúp việc
gia đình và tỷ lệ này tăng hơn gấp đôi so với giai đoạn trước năm 2000. Nữ giới chiếm
tới 90,7% số giúp việc gia đình và phần lớn là lao động nhập cư từ nông thôn. Một
khảo sát nghiên cứu tại Hà Nội cho thấy, trong tổng số lao động giúp việc gia đình hơn
80% là nữ; hơn 60% ở độ tuổi 30-50; 19% ở độ tuổi 20-30; 80% là ở nông thôn ra,
74% trước đây làm nghề nông với đa số người giúp việc gia đình tốt nghiệp trung học
cơ sở (chỉ có 1 người tốt nghiệp cao đẳng) và gần 60% qua họ hàng giới thiệu đến
người sử dụng lao động.
24
Theo người sử dụng lao động, 85% người sử dụng lao động tìm người giúp việc
thông qua họ hàng và người quen, chỉ có khoảng 14% tìm qua các trung tâm giới thiệu
việc làm. Tùy đối tượng gia đình mà người giúp việc có thể ở cùng chủ hoặc không,
làm bán thời gian hoặc toàn thời gian. Một số ít người giúp việc được thuê để chăm
sóc bệnh nhân nằm viện là được đào tạo trước các kỹ năng nhưng số lượng đó không
nhiều. Ngoài ra, một số lượng không nhỏ chủ nhà thuê người giúp việc kinh doanh để
tạo ra lợi nhuận như bán hàng ăn uống, hàng mỹ phẩm, hoặc sản xuất gia công. Họ
thuê từ khoảng 2 người cho đến hơn 10 người giúp việc.
Theo khảo sát và phỏng vấn sâu của nhóm nghiên cứu, thu nhập của người lao
động giúp việc gia đình trên địa bàn Hà Nội là khoảng 3 triệu đồng/tháng, không bao
gồm chi phí ăn, ở. Mức lương của lao động giúp việc gia đình đang được thả nổi theo
nhu cầu của thị trường lao động. Nhu cầu của người sử dụng lao động giúp việc gia
đình ngày càng cao thì mức lương trả cho lao động giúp việc gia đình càng có xu
hướng tăng, như thời điểm giáp Tết âm lịch, gia chủ phải trả lương khoảng 4-5 triệu
đồng một tháng.
Báo cáo nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển
cộng đồng đã nêu rõ vai trò của lao động giúp việc gia đình trong việc giải quyết việc
làm, giải phóng phụ nữ và đóng góp giá trị kinh tế cho các quốc gia.Cũng như ở các
quốc gia châu Á khác, nhu cầu giúp việc gia đình đang ngày một tăng lên ở Việt Nam.
Đặc biệt, cùng với sự mở rộng của tầng lớp trung lưu dự báo rằng số lượng lao động
giúp việc gia đình trong năm 2015 sẽ tăng khoảng 63% so với năm 2008 (từ 157.000
lên 246.000 lao động) với 98,7% lao động là nữ giới. Tuy nhiên, thực trạng lao động
giúp việc gia đình tại Việt Nam vẫn bị đánh giá thấp và ít được pháp luật đề cập đến.
25
CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH NĂNG LỰC LÀM VIỆC
CỦA LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TẠI HÀ NỘI
3.1 Giới thiệu về mẫu điều tra
3.1.1 Thông tin chung về mẫu
Nghiên cứu được tiến hành với 170 mẫu điều tra, kết quả thu về được 143
phiếu. Sau khi loại bỏ 23 phiếu không chính xác, còn lại 120 phiếu hợp lệ cho phân
tích.
Bảng 3.1: Đặc điểm mẫu điều tra
Nhóm mẫu Tần suất Tỷ lệ
Giới tính
Nữ 75 62,5%
Nam 45 37,5%
Vị trí trong gia
đình
Người ra quyết định 55 45,8%
Thành viên 65 54,2%
Nghề nghiệp
Kinh doanh tự do 53 44,2%
Công chức Nhà nước 35 29,2%
Nội trợ 32 26,6%
Thu nhập
<10triệu đồng/tháng 14 11,7%
10-20 triệu/tháng 45 37,5%
20-30 triệu/tháng 41 34,2%
>30 triệu /tháng 20 16,6%
(Nguồn: Thu thập của nhóm nghiên cứu)
Theo bảng 3.1, kết quả phân loại đối tượng tham gia nghiên cứu cho thấy số đối
tượng điều tra là nữ là 75 người, chiếm 62,5%%, so với nam là 45 người, chiếm