Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 101 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT








LUẬN VĂN TÔT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 36 (2010-2014)
Đề Tài:
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ
NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG HÀNH CHÍNH




Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Lâm Bá Khánh Toàn Lê Kiều Mị
MSSV: 5105974
Lớp: Luật Hành Chính





Cần Thơ: 11/2013
LỜI CẢM ƠN



Trải qua gần bốn năm học tập dưới mái trường Đại học Cần Thơ đã
trang bị cho em những vốn kiến thức, những kinh nghiệm, bài học quý báu
làm hành trang bước vào tương lai. Đến năm cuối của bậc đại học em chọn
đề tài “trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính”
làm luận văn tốt nghiệp. Để có thể hoàn thành luận văn này trước hết em xin
gửi lời cảm ơn chân thành đến Quý Thầy Cô trong Khoa Luật – trường Đại
học Cần Thơ đã tận tình giảng dạy cho em không chỉ những kiến thức chuyên
ngành mà còn chia sẽ những kinh nghiệm sống, làm việc để em làm hành
trang bước vào xã hội.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy Lâm Bá Khánh Toàn - người
thầy đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu để
em có thể hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Ngoài ra, em cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn đến cha, mẹ, bạn bè đã ủng
hộ và giúp đở em trong suốt quá trình làm luận văn.
Vì đây là lần đầu tiên nghiên cứu làm luận văn cũng như kiến thức và
thời gian có hạn nên không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của Quý Thầy Cô, bạn bè để luận văn được tốt hơn.
Cuối cùng, em xin kính chúc Quý Thầy Cô luôn khỏe mạnh và thành
công trong công việc.
Xin trân trọng kính chào!

Cần Thơ, tháng 11 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Lê Kiều Mị
















NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG














































MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 2
3. Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài 2

4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu của luận văn 2
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI CỦA NHÀ NƯỚC 3
1.1 Khái nhiệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước 3
1.1.1 Khái niệm thiệt hại và bồi thường thiệt hại 3
1.1.2 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước 4
1.2 Đặc điểm, bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước 4
1.2.1 Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước 4
1.2.1.1 Đặc điểm chung của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng 5
1.2.1.2 Đặc điểm riêng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước 7
1.2.2 Bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước 8
1.3 Phạm vi bồi thường thiệt hại của Nhà nước 9
1.3.1 Bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước 10
1.3.2 Bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính. 11
1.3.2.1 Bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự: 11
1.3.2.2 Bồi thường trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính: 12
1.3.3 Bồi thường trong hoạt động thi hành án 13
1.3.3.1 Bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự: 13
1.3.3.2 Bồi thường trong hoạt động thi hành án hình sự: 13
1.4 Nội dung quản lý về bồi thường thiệt hại của Nhà nước 13
1.5 Cơ quan quản lý về công tác bồi thường thiệt hại của Nhà nước 14
1.5.1 Trách nhiệm của Chính phủ 14
1.5.2 Trách nhiệm của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao
14
1.5.3 Trách nhiệm của Bộ Tư pháp 15
1.5.4 Trách nhiệm của Bộ, cơ quan ngang Bộ 15
1.5.5 Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh 16
1.5.6 Trách nhiệm của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh 16

1.5.7 Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện 16
1.6 Ý nghĩa của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước 17
1.6.1 Việc Nhà nước bồi thường thiệt hại cho người dân là biểu hiện của một chế
độ dân chủ 17
1.6.2 Chế định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là một cơ chế pháp lý hiệu
quả ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực Nhà nước 18
1.6.3 Nâng cao tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ,
công chức 18
1.6.4 Đảm bảo quyền công dân 19
1.7 Sơ lược về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước ở một số
nước trên thế giới 20
CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG HOẠT ĐỘNG HÀNH CHÍNH 22
2.1 Một số vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong
hoạt động hành chính 22
2.1.1 Khái niệm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành
chính 22
2.1.2 Chủ thể trong mối quan hệ bồi thường thiệt hại của Nhà nước 23
2.1.3 Phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động
hành chính 25
2.2 Xác định thiệt hại được Nhà nước bồi thường trong hoạt động hành chính 26
2.2.1 Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm 27
2.2.1.1 Trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất 27
2.2.1.2 Trường hợp tài sản bị hư hỏng 27
2.2.1.3 Trường hợp thiệt hại phát sinh do không sử dụng, khai thác tài sản 28
2.2.1.4 Trường hợp các khoản tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước theo quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bị tịch thu, thi hành án, khoản tiền đã đặt để
bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền 28
2.2.2 Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút 28
2.2.2.1 Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của tổ chức 29

2.2.2.2 Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của cá nhân 29
2.2.3 Thiệt hại do tổn thất về tinh thần 30
2.2.4 Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết 31
2.2.4.1 Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng cho người bị thiệt hại trước
khi chết 31
2.2.4.2 Chi phí cho việc mai táng người bị thiệt hại chết 32
2.2.4.3 Tiền cấp dưỡng cho người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng 32
2.2.5 Thiệt hại về vật chất do tổn hại về sức khỏe 33
2.2.5.1 Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức
năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại 33
2.2.5.2 Chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt
hại trong thời gian điều trị 34
2.2.5.3 Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản cấp dưỡng
cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (trường
hợp người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm
sóc) 35
2.3 Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành
chính 35
2.3.1 Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường
và tại Tòa án 35
2.3.1.1 Yêu cầu xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ 36
2.3.1.2 Hồ sơ yêu cầu bồi thường 37
2.3.1.3 Thụ lý đơn yêu cầu bồi thường 37
2.3.1.4 Xác minh thiệt hại 38
2.3.1.5 Thương lượng việc bồi thường 38
2.3.1.6 Quyết định giải quyết bồi thường 39
2.3.2 Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành
chính 41
2.4 Trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ 42

2.4.1 Nghĩa vụ hoàn trả và xử lý trách nhiệm của người thi hành công vụ 43
2.4.2 Căn cứ xác định mức hoàn trả 43
2.4.3 Trình tự, thủ tục quyết định việc hoàn trả 44
2.4.4 Thẩm quyền ra quyết định hoàn trả và hiệu lực của quyết định hoàn trả 45
2.4.5 Thực hiện việc hoàn trả và vấn đề quản lý, sử dụng tiền hoàn trả 45
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG HÀNH CHÍNH
46
3.1 Thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước trong hoạt động hành chính của nước ta 46
3.1.1 Những tác động tích cực 47
3.1.2 Những khó khăn, hạn chế và giải pháp 49
3.1.2.1 Điều kiện để giải quyết bồi thường còn bất cập 49
3.1.2.2 Thời hiệu yêu cầu bồi thường chưa hợp lý 50
3.1.2.3 Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành
chính còn hẹp 51
3.1.2.4 Việc thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người bị
thiệt hại không hiệu quả 52
3.1.2.5 Công tác phổ biến, tuyên truyền về Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước chưa hiệu quả 53
3.2 Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước trong hoạt động hành chính 56
3.2.1 Thực hiện quy trình bồi thường “một cửa” 56
3.2.2 Thành lập một cơ quan chuyên trách để thực hiện việc bồi thường 56
KẾT LUẬN 58

Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 1 SVTH: Lê Kiều Mị
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi
mới hiện nay là tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một Nhà
nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Trong đó điều kiện đặt ra đối với một Nhà nước
pháp quyền là Nhà nước không thể đứng cao hơn pháp luật và mọi hoạt động của Nhà
nước vận hành chỉ trong khuôn khổ của pháp luật dù rằng Nhà nước là chủ thể duy nhất
trong xã hội có thẩm quyền ban hành pháp luật.
Với tư cách là một chủ thể công quyền duy nhất trong xã hội, Nhà nước thực hiện
quyền điều hành, quản lý xã hội và có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức khi quyền và lợi ích hợp pháp đó bị xâm phạm.
Trong hệ thống các cơ quan của Nhà nước, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước
được tổ chức từ trung ương đến địa phương, được thành lập theo Hiến pháp và pháp luật,
có chức năng quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước, là cơ
quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước. Các cơ quan này trực tiếp xử lý các
công việc hằng ngày của Nhà nước, thường tiếp xúc với dân, giải quyết các yêu cầu của
dân, là cầu nối trực tiếp nhất đưa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước tới người dân.
Mọi hoạt động của cơ quan hành chính đều được thực hiện thông qua đội ngũ cán
bộ, công chức nhà nước. Trong quá trình thực thi công vụ thuộc thẩm quyền của mình,
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể nào tránh khỏi việc sai sót và vì thế có thể
gây ra thiệt hại cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào.
Vấn đề đặt ra là nếu trong quá trình thực thi công vụ được giao mà cán bộ, công
chức nhà nước có hành vi trái pháp luật và gây ra thiệt hại cho người dân thì cơ quan nhà
nước (Nhà nước) hay cán bộ, công chức gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường
và bồi thường như thế nào?
Điều 72 và điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị
truy tố, bị xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi
danh dự”; “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 2 SVTH: Lê Kiều Mị

tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có
quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi về danh dự”. Tại điều 619 và điều 620
của Bộ luật dân sự năm 2005 cũng có quy định về vấn đề này. Đặc biệt, nhằm mục đích
xây dựng và hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, trong đó có quyền được bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức
nhà nước gây ra khi thi hành công vụ. Ngày 18 tháng 6 năm 2009, tại kỳ hợp thứ 5, Quốc
hội khóa XII đã thông qua Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Lần đầu tiên vấn đề này được quy định cụ thể trong
luật. Ngoài các văn bản pháp lý nói trên còn có một số văn bản khác chỉ điều chỉnh riêng
vấn đề trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính.
Đến nay nước ta đã có khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước nói chung và trong hoạt động hành chính nói riêng. Từ
thực tiễn cho thấy đây không chỉ là cơ sở pháp lý vững chắc để cá nhân, tổ chức tự bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà còn là công cụ quan trọng để Nhà nước kiểm
soát hoạt động của mình và phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật của đội ngũ cán bộ,
công chức. Tuy nhiên, trên thực tế chế định này vẫn bộc lộ nhiều bất cập và hạn chế, gây
khó khăn cho người dân trong việc thực hiện và bảo vệ quyền lợi của mình. Trong khi đó,
hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động diễn ra hằng ngày trên mọi mặt đời
sống xã hội, có ảnh hương trực tiếp đến quyền lợi của người dân.
Tất cả cũng là lý do để người viết chọn đề tài “trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước trong hoạt động hành chính” để làm đề tài luận văn của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu được giới hạn trong một số nội dung sau: Trước hết đề tài sẽ
nghiên cứu một cách sơ lược những quy định của pháp luật ở một số trên thế giới và Việt
Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước, từ đó đề tài đi sâu nghiên cứu,
tìm hiểu nội dung của pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của Nhà nước trong hoạt động hành chính được quy định chi tiết trong Luật Trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước và một số văn bản hướng dẫn. Đồng thời đề tài cũng đi
vào tìm hiểu tình hình thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước nói chung và trong hoạt động hành chính nói riêng.


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 3 SVTH: Lê Kiều Mị
3. Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn này trước là cơ hội để người viết hiểu
rõ hơn về pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của Nhà nước, đăc biệt là vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong
hoạt động hành chính. Sau đó là nhằm phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính. Trên cơ sở những vấn
đề lý luận đã nghiên cứu, liên hệ với thực tiễn để chỉ ra những mặt hạn chế, bất cập đang
tồn tại trong những quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Từ đó người viết đưa ra những nhận xét, kiến nghị với mong muốn góp phần hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, người viết đã dựa trên cơ sở những kiến thức đã học
đồng thời tổng hợp, thu thập những tài liệu có liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu.
Ngoài ra, người viết còn vận dụng một số phương pháp sau: phương pháp phân tích luật
viết, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp phân tích, kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn để có cái nhìn chính xác và đầy đủ nhất.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn có kết cấu
gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Chương 2: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động hành chính
Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
trong hoạt động hành chính







Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 4 SVTH: Lê Kiều Mị
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI CỦA NHÀ NƯỚC
Trong chương này, người viết đưa ra khái niệm nhằm làm rõ thế nào là trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước, từ đó có thể xác định được đặc điểm, bản chất của
vấn đề bồi thường thiệt hại mà Nhà nước là chủ thể có trách nhiệm bồi thường. Ngoài ra,
người viết còn xác định phạm vi bồi thường thiệt hại của Nhà nước là gồm những hoạt
động nào, cơ quan thực hiện quản lý công tác bồi thường.
1.1 Khái nhiệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
1.1.1 Khái niệm thiệt hại và bồi thường thiệt hại
Thiệt hại là “mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của”.
1
Theo những quan điểm
truyền thống thì luôn coi thiệt hại là những tổn thất liên quan đến tài sản. Tuy nhiên, theo
thời quan điểm đó đã thay đổi, theo đó thiệt hại không chỉ là tổn thất về tài sản mà bao
gồm cả tổn thất về tinh thần. Theo TS. Nguyễn Ngọc Điện thì thiệt hại là “sự mất mát mà
một chủ thể của quan hệ pháp luật phải gánh chịu, là sự thay đổi tình trạng theo chiều
hướng xấu: một người có tài sản bị mất tài sản đó, một người có sức khỏe bình thường
nay trở nên yếu đi,… Tình trạng bị thay đổi có thể là tình trạng vật chất (tài sản, tín
mạng, sức khỏe) hoặc tình trạng tinh thần (danh dự, uy tín)”.
2
Bộ luật Dân sự Việt Nam
năm 1995 quy định tại Điều 310: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần”. Tiếp
theo đó, Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
tại Điều 307: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần”. Như vậy, về mặt

luật thực định thì quan điểm phổ biến hiện nay về thiệt hại là thiệt hại bao gồm: thiệt hại
về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Theo đó, thiệt hại về tinh thần bao gồm: tổn thất về
danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân và thiệt hại về
vật chất bao gồm: tài sản bị mất, bị hư hỏng, hủy hoại hay là những chi phí phải bỏ ra để
ngăn chặn, khắc phục thiệt hại.
Trong thực tiễn của một xã hội phát triển, văn minh và công bằng, nêu một cá nhân
hay tổ chức gây thiệt hại cho một cá nhân, tổ chức khác thì phải bồi thường cho cá nhân,
tổ chức đó là một chân lý cốt yếu, thể hiện sự công bằng giữa các mối quan hệ trong xã


1
Nguyễn Như Ý: Đại từ điển tiếng Việt, Nxb văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999, tr. 1571.
2
Nguyễn Ngọc Điện: Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ, 2004, tr.53.
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 5 SVTH: Lê Kiều Mị
hội.
Bồi thường là việc “đền bù những tổn thất đã gây ra”.
3
Đây là một dạng nghĩa vụ
dân sự phát sinh do có hành vi gây ra thiệt hại. Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt
hại là việc bên gây thiệt hại phải đền bù những tổn thất mà bên bị thiệt hại phải gánh
chịu, đồng thời phải khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra.
Như vây, bồi thường thiệt hại là một hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên
có hành vi vi phạm gây thiệt hại phải khắc phục những hậu quả mà mình gây ra bằng
cách bù đắp cả về mặt vật chất lẫn tinh thần cho bên bị thiệt hại.
4

Với quan điểm thiệt hại là những tổn thất, mất mát cả về vật chất lẫn tinh thần, bồi
thường thiệt hại có thể hiểu là trách nhiệm khôi phục lại những thiệt hại về vật chất, bù

đắp những tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Việc khôi phục lại những thiệt hại,
tổn thất mà hành vi vi phạm đã gây ra phải tuân theo những cách thức và tiêu chí mà
pháp luật quy định.
1.1.2 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Trên thực tế, mọi cá nhân, tổ chức có hành vi gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức
khác thì phải bồi thường thiệt hại cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại theo quy định của pháp
luật. Vậy có nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ hành vi xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác là trách nhiệm pháp lý được xác định với mọi chủ
thể, kể cả Nhà nước.
Nhà nước là một chủ thể đặc biệt bởi Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền ban
hành pháp luật. Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống xã hội thông qua hệ thống các cơ
quan nhà nước mà cụ thể là đội ngũ cán bộ, công chức và người khác được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ (người thi hành công vụ).
5
Theo TS. Phan
Trung Hiền thì “công vụ là hoạt động do các cán bộ, công chức nhà nước tiến hành trong
phạm vi thẩm quyền được giao phó nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước”.
6
Các
hoạt động công vụ thường do cán bộ, công chức thực hiện và có sự gắn bó chặt chẽ với
quyền lực nhà nước. Vì thế, trong quá trình thực thi công vụ, cán bộ, công chức luôn


3
Nguyễn Như Ý: Đại từ điển tiếng Việt, Nxb văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999, tr. 191.
4
Trường Đại học Luật Hà Nội: Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999, tr. 31.
5
Khoản 1 Điều 3 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.
6

Phan Trung Hiền: Giáo trình luật hành chính Việt Nam, phần 1, Những vấn đề chung của luật hành chính, Khoa
Luật trường Đại học Cần Thơ,2009, tr. 123.
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 6 SVTH: Lê Kiều Mị
mang quyền lực nhà nước, đây là công cụ pháp lý để cán bộ, công chức thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình theo pháp luật.
Hằng ngày, người thi hành công vụ nhân danh nhà nước thực hiện những công việc
được Nhà nước giao nhằm phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Tuy nhiên, hoạt động
công vụ là hoạt động rộng lớn bởi nó bao gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nên
nó rất phức tạp và luôn tiềm ẩn những rủi ro, vì thế, nếu trong quá trình thực thi công vụ
mà người thi hành công vụ không đủ năng lực chuyên môn hay phẩm chất đạo đức thì có
thể gây ra thiệt hại cho người dân. Với tư cách là “người đại diện”, “người sử dụng lao
động”, Nhà nước phải có trách nhiệm gánh chịu những rủi ro đó bằng cách bồi thường
cho người thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước không chỉ là trách nhiệm bồi
thường những thiệt hại về vật chất mà còn là trách nhiệm bù đắp những tổn thất về tinh
thần cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại.
Tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là trách nhiệm pháp lý,
theo đó Nhà nước có trách nhiệm khôi phục những thiệt hại về tài sản, bù đắp những tổn
thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trong trường hợp người thi hành công vụ có hành
vi trái pháp luật đã gây ra thiệt hại về tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm cho tổ
chức, cá nhân.
1.2 Đặc điểm, bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
1.2.1 Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Mọi công dân đều được Nhà nước bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm. Vì vậy, bất cứ cá nhân, tổ chức nào có hành vi xâm hại đến thân thể, tài sản hay
danh dự của người khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Quyền
được bồi thường khi bị thiệt hại là một quyền của công dân được Hiến pháp, pháp luật
7


ghi nhận và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Bản chất pháp lý của quyền này là một
quyền dân sự thông thường. Vì một chân lý không thể phủ nhận là nếu một cá nhân hay
tổ chức bị một cá nhân, tổ chức khác xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình
một cách trái pháp luật, gây ra thiệt hại thì cá nhân, tổ chức có hành vi gây thiệt hại đó
phải có trách nhiệm bù đắp những tổn thất mà mình đã gây ra, không phân biệt người gây


7
Xem thêm tại Điều 72 và Điều 74 Hiến Pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001.
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 7 SVTH: Lê Kiều Mị
thiệt hại là ai, kể cả Nhà nước.
Vì vậy, về bản chất trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước thật ra chỉ là một
loại trách nhiệm dân sự, hay nói đúng hơn là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Bởi
trước đó, giữa bên gây thiệt hại (người thi hành công vụ - Nhà nước) và bên bị thiệt hại
(cá nhân, tổ chức) không có bất cứ hợp đồng nào và quan hệ bồi thường này cũng không
phát sinh từ hợp đồng giữa hai bên chủ thể. Theo đó, Nhà nước có trách nhiệm phải bồi
thường những thiệt hại cả về vật chất lẫn tinh thần cho người bị thiệt hại do hành vi trái
pháp luật, có lỗi và gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ . Từ những phân tích trên
cho thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước mang những đặc điểm của trách
nhiệm dân sự ngoài hơp đồng.
1.2.1.1 Đặc điểm chung của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Thứ nhất, về điều kiện phát sinh. Trước hết, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được hiểu là tổng hợp các yếu tố cấu thành nên trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Tại Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự,
uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định gười gây thiệt hại phải bồi thường cả trong
trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó”.

Theo quy định này thì căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là:
(1) Có thiệt hại xảy ra;
(2) Có hành vi vi phạm pháp luật;
(3) Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xảy ra;
(4) Người gây thiệt hại có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý (có thể không cần căn cứ này nếu
tại điều luật cụ thể có quy định – tinh thần của Khoản 2 Điều 604).
Cũng tương tự như trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, trong quan hệ bồi thường
thiệt hại của Nhà nước thì điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm:
(1) Có thiệt hại xảy ra;
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 8 SVTH: Lê Kiều Mị
(2) Có hành vi trái pháp luật trong quá trình thi hành công vụ;
(3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra;
(4) Người thi hành công vụ gây thiệt hại phải có lỗi khi thi hành công vụ.
Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước có một nét đặc thù là
hành vi trái pháp luật phải gắn liền với yếu tố thi hành công vụ. Yếu tố công vụ ở đây có
nghĩa là nếu người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người dân
thì Nhà nước chỉ đứng ra bồi thường cho người bị thiệt hại khi người thi hành công vụ
gây ra thiệt hại trong quá trình thực hiện công việc do Nhà nước giao. Ngược lại, nếu
người đó có hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho người khác nhưng người đó không
mang tư cách công (tư cách Nhà nước), không “thay mặt” Nhà nước thực hiện công việc
do Nhà nước giao thì cá nhân người đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại như một trách
nhiệm dân sự thông thường chứ không phải là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Bên cạnh đó, trong quan hệ bồi thường thiệt hại của Nhà nước thì hành vi trái pháp luật
của người thi hành công vụ phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận bằng
văn bản, khi đó, quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại mới phát sinh.
8

Ngoài ra, còn một điều cần lưu ý nữa là đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại

ngoài hợp đồng có trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi nhưng pháp luật quy định
phải bồi thường là trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
gây thiệt hại thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải có trách nhiệm bồi thường. Với quy
định này pháp luật đã dự liệu các trường hợp gây ra thiệt hại dù không có lỗi vẫn phải bồi
thường nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Đối với
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì yếu tố lỗi là một trong những căn cứ để xác
định mức hoàn trả. Nếu người thi hành công vụ trong quá trình thực thi công vụ gây ra
thiệt hại nhưng do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp
thiết thì Nhà nước không có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại.
9

Thứ hai, giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không có mối quan hệ hợp đồng.
Nhà nước với tư cách là một chủ thể của pháp luật, khi tham gia vào các quan hệ pháp
luật đều có những quyền, nghĩa vụ như các chủ thể khác, vì thế cũng phải gánh chịu
những hậu quả pháp lý phát sinh từ những quan hệ pháp luật đó, giống như những chủ


8
Khoản 1 Điều 4 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.
9
Khoản 3 Điều 6 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 9 SVTH: Lê Kiều Mị
thể khác trong xã hội. Người thi hành công vụ giống như “cánh tay nối dài” của Nhà
nước, giúp Nhà nước thực hiện chức năng của Nhà nước bằng cách tham gia vào các
quan hệ pháp luật khác nhau với tư cách của một chủ thể mang quyền lực công. Theo đó,
những quan hệ pháp luật mà người thi hành công vụ (hay Nhà nước) tham gia với tư cách
là chủ thể mang quyền lực công không phải là những quan hệ hợp đồng (không ràng buộc
bởi hợp đồng) mà do pháp luật quy định.
Những quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia và nhân danh quyền lực công phải

là những quan hệ pháp luật có liên quan đến việc thực hiện những hoạt động thuộc về
chức năng chính của Nhà nước – chức năng quản lý xã hội. Người thi hành công vụ là
hiện thân của Nhà nước, “thay mặt” Nhà nước thực hiện những hoạt động đó, nếu trong
quá trình thực hiện những hoạt động này mà người thi hành công vụ gây ra thiệt hại cho
cá nhân, tổ chức thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Việc bồi thường không phải do
vi phạm các nghĩa vụ về hợp đồng mà là trách nhiệm của Nhà nước đối với người bị thiệt
hại và chịu sự điều chỉnh của pháp luật, chính vì vậy trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước đối với các thiệt hại gây ra bởi hoạt động công quyền là trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng.
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một loại trách nhiệm
pháp lý, theo đó, nếu trong quá trình thực thi công vụ mà cán bộ, công chức có hành vi
gây thiệt hại cho người khác thì sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước dù giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không có bất kỳ thỏa thuận hay hợp
đồng nào.
1.2.1.2 Đặc điểm riêng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một loại trách nhiệm pháp lý đặc
thù vì Nhà nước là chủ thể đặc biệt trong quan hệ pháp luật, do vậy tính chất của trách
nhiệm bồi thường ở đây cũng đặc biệt, khác với trách nhiệm dân sự thông thường. Bên
cạnh những đặc điểm chung của trách nhiệm dân sự thì trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước có những đặc thù riêng. Những đặc thù đó thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, về chủ thể gây thiệt hại. Nếu trong bồi thường dân sự, chủ thể gây thiệt
hại là bất kỳ người nào có hành vi trái pháp luật do lỗi cố ý hoặc vô ý mà gây thiệt hại
cho người khác thì phải bồi thường thì trong quan hệ bồi thường thiệt hại của Nhà nước,
chủ thể gây thiệt hại là người thi hành công vụ (cán bộ, công chức hoặc người khác được
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 10 SVTH: Lê Kiều Mị
cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ).
“Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ
nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính,
tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực

hiện nhiệm vụ có liên quan đến quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án.”
10

Thứ hai, về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường. Trong bồi thường dân sự, chủ thể
chịu trách nhiệm bồi thường là người gây thiệt hại hoặc là người thứ ba như cha, mẹ,
người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt
hại hoặc là pháp nhân, người dạy nghề khi người của pháp nhân, người học nghề, người
làm công gây thiệt hại cho người khác trong khi thực hiện công việc được giao.
Đối với bồi thường của Nhà nước, chủ thể có trách nhiệm bồi thường là Nhà nước
mà không phải là trách nhiệm của cá nhân người thi hành công vụ hay cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Người thi hành công vụ “thay mặt” Nhà nước thực hiện các chức năng
của Nhà nước, vì thế, mọi hành vi, quyết định của người thi hành công vụ trong quá trình
thực thi công vụ đều được xác định là hành vi, quyết định của Nhà nước. Nếu hành vi hay
quyết định đó trái pháp luật, gây thiệt cho cá nhân, tổ chức thì Nhà nước phải chịu trách
nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, Nhà nước ở đây chính là các cơ quan nhà nước quản lý
trực tiếp người thi hành công vụ. Cho nên, khi người thi hành công vụ gây ra thiệt hại
cho cá nhân, tổ chức thì cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ là cơ quan có
trách nhiệm bồi thường. Nếu việc làm của người thi hành công vụ xảy ra không gắn với
yếu tố công vụ (không thực hiện việc công) thì họ phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành
vi của mình, trong trường hợp này Nhà nước không phải bồi thường. Ngoài ra, Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 có quy định về trách nhiệm hoàn trả
của người thi hành công vụ,
11
nghĩa là sau khi Nhà nước bồi thường cho người bị thiệt
hại thì người thi hành công vụ có trách nhiệm hoàn trả một khoản tiền cho ngân sách nhà
nước mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có
thẩm quyền.
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là trách nhiệm thay thế. Lý
luận về trách nhiệm bồi thường nhà nước hiện nay phần nào đã khắc phục được tư tưởng



10
Khoản 1 Điều 3 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.
11
Xem thêm tại Điều 56 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 11 SVTH: Lê Kiều Mị
“Nhà nước vô trách nhiệm”, “Nhà nước không bao giờ sai”, “Nhà nước có quyền được
miễn trừ”… Nhưng cũng cần phải hiểu đúng trách nhiệm nhà nước trong trường hợp này
là “trách nhiệm thay thế”. Theo cách hiểu này thì hành vi trái pháp luật là hành vi của
người thi hành công vụ nhưng họ thực hiện các hoạt động công vụ là vì lợi ích công,
không vì lợi ích của bản thân họ nên Nhà nước với vai trò và trách nhiệm của mình phải
đứng ra thực hiện nghĩa vụ bồi thường thay cho người thi hành công vụ có lỗi trong khi
thực thi công vụ, gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức. Mục đích của bồi thường nhà
nước là đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Mọi việc làm của người thi hành
công vụ đều được pháp luật quy định cụ thể, nếu trong quá trình thực thi công vụ mà
người thi hành công vụ gây ra thiệt hại cho người dân thì đó là lỗi của người thi hành
công vụ. Pháp luật là “công cụ” chủ yếu giúp Nhà nước quản lý xã hội, suy cho cùng đều
là vì lợi ích của nhân dân nên việc gây ra thiệt hại cho người dân của người thi hành công
vụ là do người thi hành công vụ không đủ năng lực chuyên môn hoặc phẩm chất đạo đức
kém trong khi làm nhiệm vụ, chứ không phải là do pháp luật quy định sai. Nhưng đều cơ
bản là quyền lực Nhà nước và công vụ nói chung thường dễ bị lạm dụng hay có một số
người thi hành công vụ thiếu trách nhiệm, thờ ơ thậm chí vô cảm… nên Nhà nước với tư
cách là người sử dụng người thi hành công vụ (người lao động, làm thuê cho Nhà nước)
phải chịu trách nhiệm bồi thường thay cho họ.
Tuy nhiên, đối với bồi thường dân sự, chủ thể có trách nhiệm bồi thường là chính
bản thân người thực hiện hành vi gây thiệt hại và có lỗi hoặc là người có lỗi trong việc
làm phát sinh hành vi gây thiệt hại đó. “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác
của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây

thiệt hại thì phải bồi thường”.
12
Trong trường hợp người giám hộ không chứng minh
được mình không có lỗi trong việc giám hộ người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự gây thiệt hại thì người giám hộ phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
13

Nhà trường phải bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi gây ra trong thời gian
học tại trường mà gây thiệt hại; bệnh viện, tổ chức phải bồi thường thiệt hại do người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian bệnh viện, tổ chức quản lý trực tiếp người
mất năng lực hành vi dân sự. Nhưng nếu trường học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh


12
Khoản 1 Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2005.
13
Khoản 3 Điều 606 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 12 SVTH: Lê Kiều Mị
được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười
lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.
14

1.2.2 Bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Pháp luật khi điều chỉnh các quan hệ xã hội cũng không loại trừ quan hệ phát sinh
giữa Nhà nước và công dân.
Nhà nước là một chủ thể của quyền lực công, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, mọi công dân phải tuân theo pháp luật của nước mình (pháp luật do Nhà nước đặt
ra). Như vậy, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân là mối quan hệ “mệnh lệnh – phục
tùng”, mối quan hệ này được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật công.

Tuy nhiên, một nguyên tắc không thể phủ nhận, trong một Nhà nước pháp quyền và
xã hội dân chủ: khi một người xâm phạm một cách trái pháp luật và gây những thiệt hại
về tài sản cũng như thân thể và danh dự của người khác thì người có hành vi xâm phạm
đó phải bù đắp những tổn thất mà mình gây ra cho người bị thiệt hại. Xét trên góc độ
pháp lý thì đó là sự công bằng, là quyền được bồi thường của người bị thiệt hại, không
phân biệt người gây thiệt hại là ai, kể cả là Nhà nước trong mối quan hệ giữa Nhà nước
và công dân.
Về bản chất, cơ chế bồi thường của Nhà nước được quy định trên nguyên tắc và bản
chất bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự (người bị thiệt hại có thể
yêu cầu bồi thường hoặc không yêu cầu bồi thường, việc yêu cầu bồi thường về nguyên
tắc không được cao hơn thiệt hại thực tế xảy ra). Việc xác định mức độ thiệt hại cũng như
mức bồi thường đều mang bản chất của quan hệ dân sự, tức là bình đẳng và thực tế, trên
cơ sở thương lượng, thoả thuận giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại. Trong quan
hệ bồi thường của Nhà nước, Nhà nước không còn là chủ thể của quyền lực công trong
mối quan hệ mang tính “mệnh lệnh - phục tùng”, mà Nhà nước khi đó đóng vai trò như
một chủ thể của quan hệ tư, không có quyền lực hành chính mà chỉ là một chủ thể dân sự
bình đẳng với bên bị thiệt hại trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại.
Như vậy, cơ sở của chế định bồi thường thiệt hại của Nhà nước chính là dựa trên
các quyền của công dân (trong đó có quyền được bồi thường thiệt hại khi bị người khác
xâm phạm đến tài sản, thân thể, danh dự, uy tín của mình), các quyền này được pháp luật


14
Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 13 SVTH: Lê Kiều Mị
ghi nhận, bảo hộ và được bảo đảm thực hiện bởi Nhà nước; chế định pháp lý về trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước chỉ có thể xuất hiện ở một xã hội hiện đại, đề cao tính
dân chủ và tôn trọng các quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội.
Mặc dù thiệt hại do cá nhân người thi hành công vụ gây ra, nhưng trách nhiệm bồi

thường là trách nhiệm của Nhà nước. Tiền bồi thường được lấy từ ngân sách nhà nước,
mà ngân sách nhà nước là do người dân đóng góp. Nếu Nhà nước lấy tiền của dân để bồi
thường cho dân thì chế định bồi thường nhà nước không thể đạt được mục tiêu của nó, do
vậy, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định người thi hành công
vụ có lỗi gây ra thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà
Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
1.3 Phạm vi bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tuy nhiên xét
về mặt tổ chức thực hiện quyền lực, các công việc mà Nhà nước thực hiện được chia
thành các hoạt động: Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (hoạt động
lập pháp); tổ chức thực hiện pháp luật (hoạt động hành pháp) và bảo vệ pháp luật (hoạt
động tư pháp). Các hoạt động này do các cơ quan tương ứng của Nhà nước thực hiện, cụ
thể bao gồm: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, với quan
điểm lập pháp cho rằng, việc xác định phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước phải bảo đảm phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước cần phải được quy định
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Hiến pháp năm 1992 và Bộ luật Dân sự năm 2005 đã ghi nhận một nguyên tắc rất
cơ bản, theo đó, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do cán bộ, công chức
của mình gây ra cho tổ chức, cá nhân trong khi thi hành công vụ. Do đó, trong điều kiện
hiện nay, để đảm bảo tính khả thi của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì
phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần được xác định phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội; khả năng của ngân sách nhà nước; năng lực chuyên môn của
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Bên cạnh đó, nếu không tính toán, cân nhắc về
phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì khó có thể bảo đảm sự kết hợp hài hoà
giữa mục tiêu bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại, lợi ích của Nhà nước và
đồng thời cũng phải bảo đảm sự hoạt động ổn định, có hiệu quả của các cơ quan công
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 14 SVTH: Lê Kiều Mị
quyền, đặc biệt là giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

Trên cơ sở đó, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đã quy định
phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trên các lĩnh vực:
 Quản lý hành chính;
 Tố tụng (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính);
 Thi hành án (thi hành án hình sự và thi hành án dân sự).
Như vậy, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chỉ quy định trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính và tư pháp. Các thiệt hại do hoạt
động xây dựng pháp luật (hoạt động lập pháp) không thuộc lĩnh vực được Nhà nước bồi
thường. Hoạt động lập pháp là hoạt động mang tính quốc gia nên rất nhạy cảm và Quốc
hội là cơ quan duy nhất của Nhà nước có quyền ban hành pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay
nước ta chưa có Tòa án Hiến pháp, cho nên, dù Quốc hội có ban hành một đạo luật bị coi
là vi hiến thì cũng không thể xử lý. Thêm vào đó, “lập pháp được hiểu là việc hoạch định
các chính sách, quyết định người thực hiện các chính sách đó, vì vậy nếu có thiệt hại xảy
ra thì bồi thường trong hoạt động lập pháp được hiểu đồng nhất với sự thay đổi chính
sách, thay đổi con người đã từng đưa ra các chính sách gây thiệt hại cho nhân dân”.
15

Ngoài ra, như đã phân tích ở trên, trong điều kiện đất nước ta hiện nay thì việc xác định
phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là một điều rất quan trọng và cần thiết bởi
nó ảnh hưởng đến tính khả thi của Luật và lợi ích của người thiệt hại. Đó là những lý do
hoạt động lập pháp không được quy định trong phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 cũng như pháp luật về
khiếu nại.
Ngoài quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành
chính và tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước năm 2009 còn quy
định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với các thiệt hại gây ra trong quá trình thi
hành án hình sự và thi hành án dân sự. Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất
về tinh thần mà thuộc các trường hợp đã được quy định trong Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước thì Nhà nước bồi thường.



15
Nguyễn Đăng Dung: Bồi thường thiệt hại của lập pháp, Hội thảo: Pháp luật và chính sách về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, 2006, tr. 8-9.

Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 15 SVTH: Lê Kiều Mị
1.3.1 Bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước
Theo quy định tại Điều 13 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 và
Điều 3 Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 26 tháng 11 năm
2010 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thực hiện trách
nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, Nhà nước có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức gây ra trong
quá trình thi hành công vụ trong các trường hợp sau: Ban hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính; Áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử
lý vi phạm hành chính; Áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc
và biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khác; Áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa ngườ vào trường giáo dưỡng, đưa người vào cơ sở giáo
dục hoặc đưa người vào cơ sở chữa bệnh; Cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh; Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép; Áp
dụng thuế, phí, lệ phí; thu thuế, phí, lệ phí; truy thu thuế; thu tiền sử dụng đất; Áp dụng
thủ tục hải quan; Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng
đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tái sản khác gắn liền với đất; Ban hành
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; Cấp văn bằng bảo hộ cho người không đủ điều kiện
được cấp văn bằng bảo hộ; cấp văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp không
đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; ra quyết định chấm dứt hiệu lực của văn bằng
bảo hộ; Không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư, giấy
phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép, văn bằng bảo hộ cho đối tượng không đủ
điều kiện; Các trường hợp được bồi thường khác do pháp luật quy định.

Điều 13 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã liệt kê 11 nhóm hành vi
mà nếu trong quá trình thi hành công vụ, người thi hành công vụ thực hiện một trong các
hành vi này gây ra thiệt hại thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt
hại. Đây là những hành vi có ảnh hưởng lớn đến các quyền cơ bản của công dân như
quyền tự do thân thể, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do sở hữu do đó cần được Nhà
nước dành sự quan tâm đặc biệt , bằng cách cam kết sẽ bồi thường nếu các hành vi này
gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân. Như vậy, thiệt hại do các hành vi khác (không được
quy định trong Điều 13 của Luật) gây ra thì không được Nhà nước bồi thường. Tuy
nhiên, để tăng tính linh hoạt trong quá trình áp dụng pháp luật khi các văn bản hướng dẫn
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 16 SVTH: Lê Kiều Mị
pháp luật có quy định các trường hợp Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khác với các
trường hợp quy định tại Điều 13 nên tại Điều 13, Luật đã quy định thêm khoản 12, theo
đó, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại gây ra trong các trường hợp
khác nếu được pháp luật quy định.
1.3.2 Bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính.
1.3.2.1 Bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự:
Ngày 17 tháng 3 năm 2003 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số
388/2003/NQ-UBTVQH về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Đây có thể xem là văn bản vi phạm pháp
luật đầu tiên quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực này. Tại
Khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết quy định bốn (4) trường hợp mà Nhà nước có trách
nhiệm bồi thường và Khoản 2 là quy định về việc nếu những người thuộc các trường hợp
quy định tại Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH có tài sản bị thu giữ,
tạm giữ, kê biên, tịch thu mà bị thiệt hại thì được bồi thường.
16
Sự ra đời của Nghị quyết
388 dù là cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân, tổ chức có thể bảo vệ quyền lợi của mình
nhưng chưa đầy đủ, bao quát và toàn diện. Ngoài ra, việc thực thi các quy định của Nghị

quyết trên thực tế thì không hiệu quả. Để khắc phục những hạn chế của Nghị quyết 388
cũng như góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước, ngày 18 tháng 6 năm 2009 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã ra đời.
Theo quy định tại Điều 26 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009,
trong lĩnh vực tố tụng hình sự, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các
trường hợp sau:
 Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật;
 Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù
có thời gian, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện


16
Xem thêm Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị
oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 17 SVTH: Lê Kiều Mị
hành vi phạm tội;
 Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi
hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
 Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành
hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của
những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi
thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá
so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;
 Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử

hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và
tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi
thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt
chung của những tội mà người đó phải chấp hành;
 Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Tòa án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản
án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội mà hình phạt của những
tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức
hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;
 Tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu,
xử lý có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 26 Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 thì được bồi thường.
Tại Điều 26 của Luật đã liệt kê các trường hợp mà Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Như vậy, phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Nhà nước trong lĩnh vực tố tụng hình sự có những đặc điểm sau: Nhà nước chỉ có
trách nhiệm bồi thường khi người thiệt hại bị oan, tức là không thực hiện hành vi phạm
tội mà bị điều tra, truy tố, xét xử; không đề cập đến vấn đề lỗi của người thi hành công
vụ, tức là Nhà nước có trách nhiệm bồi thường nếu người thiệt hại được xác định là bị
oan, bất luận người thi hành công vụ có lỗi hay không có lỗi trong việc gây ra tình trạng
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 18 SVTH: Lê Kiều Mị
oan này.
1.3.2.2 Bồi thường trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính:
Vấn đề bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng dân sự,
tố tụng hành chính gây ra đã được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự và pháp luật về tố tụng,
nhưng khác so với bồi thường trong lĩnh vực tố tụng hình sự, vấn đề bồi thường trong hai
lĩnh vực tố tụng này chưa có pháp luật quy định cụ thể. Khắc phục tình trạng này, Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đã quy định cụ thể bốn trường hợp
được Nhà nước bồi thường. Theo quy định tại Điều 28 Luật trách nhiệm bồi thường của

Nhà nước năm 2009, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp
luật của người tiến hành tố tụng dân sự, tố tụng hành chính gây ra trong các trường hợp
sau đây:
 Tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
 Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà
cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu;
 Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt qua yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức;
 Ra bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ
án.
1.3.3 Bồi thường trong hoạt động thi hành án
1.3.3.1 Bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự:
Theo quy định tại Điều 38 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009,
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi
hành công vụ gây ra trong các trường hợp:
 Ra hoặc cố ý không ra quyết định về: thi hành án; thu hồi, sửa đổi, bổ sung huỷ
quyết định về thi hành án; áp dụng biện pháp bảo đảm về thi hành án; cưỡng chế thi hành
án; thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án; hoãn thi hành
án; tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án; tiếp tục thi hành án.
 Tổ chức thi hành hoặc cố ý không tổ chức thi hành các quyết định về thi hành án
nêu trên.
Đề tài: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động hành chính
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn 19 SVTH: Lê Kiều Mị
Để cụ thể hóa Điều 38 của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, tại Điều 6
Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP ngày 15 tháng 12 năm 2011 của Bộ Tư
pháp, Bộ Quốc phòng đã hướng dẫn cụ thể việc xác định phạm vi trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước.
17

1.3.3.2 Bồi thường trong hoạt động thi hành án hình sự:

Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án hình sự
được quy định tại Điều 39 Luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước năm
2009. Cụ thể bao gồm:
 Ra quyết định thi hành án tử hình đối với người có đủ điều kiện quy định tại Điều
35 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009;
 Giam người quá thời hạn phải thi hành án phạt tù theo bản án, quyết định của
Toà án;
 Không thực hiện quyết định hoãn thi hành án đối với người bị kết án, quyết định
tạm đình chỉ thi hành án phạt tù;
 Không thực hiện quyết định giảm án tù, quyết định đặc xá, quyết định đại xá.
1.4 Nội dung quản lý về bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và để bảo đảm tính khả thi của cơ chế bồi thường nhà
nước, Điều 11 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đã quy định
trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác bồi thường và giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính
phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành
chính và thi hành án; phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao quản lý công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng.
Hướng dẫn quy định nêu trên, tại Điều 21 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03
tháng 03 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định cụ thể về nội dung quản lý
nhà nước về công tác bồi thường, cụ thể là:
 Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi,
bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật về trách nhiệm bồi thường của


17
Xem thêm tại Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP ngày 15 tháng 12 năm 2011 hướng dẫn thực hiện
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án hình sự.

×