TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 36 (2010 – 2014)
ĐỀ TÀI
KIỂM SOÁT HÀNH VI ẤN ĐỊNH GIÁ
THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
Giảng viên hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Mai Hân
Bộ môn: Luật Thương mại
Sinh viên thực hiện:
Ngô Thành Duy
MSSV: 5105946
Lớp: Luật Thương mại 1 – K36
C
ần Th
ơ, tháng 11/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 36 (2010 – 2014)
ĐỀ TÀI
KIỂM SOÁT HÀNH VI ẤN ĐỊNH GIÁ
THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
Giảng viên hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Mai Hân
Bộ môn: Luật Thương mại
Sinh viên thực hiện:
Ngô Thành Duy
MSSV: 5105946
Lớp: Luật Thương mại 1 – K36
C
ần Th
ơ, tháng 11
/2013
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại Trường Đại học Cần Thơ em
đã tích lũy cho mình một hành trang kiến thức cũng như kỹ năng sống trước khi
chính thức bước vào đời, có được kết quả này chính là nhờ sự giảng dạy và giúp
đỡ tận tình của quý Thầy Cô.
Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Nguyễn Mai
Hân, Giảng viên Bộ môn Luật Thương mại, Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ.
Trong suốt khoảng thời gian mà em thực hiện luận văn, Cô đã dành rất nhiều thời
gian và tâm huyết hướng dẫn cho em mặc dù Cô rất bận rộn với công việc giảng
dạy. Ngay từ khi học trên lớp Cô đã cung cấp cho em những kiến thức cần thiết và
gợi ý cho em những lĩnh vực mới, kiến thức mới để em viết luận văn tốt nghiệp.
Khi thực hiện luận văn, Cô luôn định hướng, góp ý và sửa chữa những sai sót về
nội dung lẫn hình thức một cách cẩn thận, từ đó giúp em biết những hạn chế trong
luận văn của mình mà chỉnh sửa để có thể hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Con xin gửi ngàn lời cảm ơn đến cha mẹ, những người thân trong gia đình
và bạn bè đã tạo điều kiện tốt nhất không chỉ về mặt vật chất mà cả tinh thần, luôn
sát cánh bên con trên mọi bước đường. Tạo động lực cho con theo đuổi những ước
mơ, hoài bão của mình. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quý Thầy Cô Khoa
Luật, quý Thầy Cô của trường, đã giảng dạy, giúp đỡ em trong suốt 4 năm học vừa
qua. Chính các Thầy Cô đã truyền đạt cho em những kiến thức nền tảng và những
kiến thức chuyên môn để em có thể hoàn thành tốt luận văn này, cũng như giúp ích
cho công việc của em sau này./.
Cần Thơ, ngày 29 tháng 10 năm 2013
Sinh viên th
ực hiện
Ngô Thành Duy
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân SVTH: Ngô Thành Duy
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu luận văn 3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀ HÀNH
VI ẤN ĐỊNH GIÁ 4
1.1 Khái quát chung về cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh 4
1.1.1 Khái quát về cạnh tranh 4
1.1.1.1 Khái niệm cạnh tranh 4
1.1.1.2 Đặc trưng cơ bản của cạnh tranh 6
1.1.1.3 Vai trò và ý nghĩa của cạnh tranh 9
1.1.2 Khái quát về pháp luật cạnh tranh 10
1.1.2.1 Lịch sử ra đời của pháp luật cạnh tranh 10
1.1.2.2 Vai trò của pháp luật cạnh tranh 13
1.1.2.3 Mục tiêu của pháp luật cạnh tranh 15
1.2 Khái quát về giá và hành vi ấn định giá 16
1.2.1 Khái quát về giá 16
1.2.1.1 Khái niệm giá 16
1.2.1.2 Đặc trưng cơ bản của giá 18
1.2.1.3 Vai trò của giá 18
1.2.2 Hành vi ấn định giá 19
1.2.2.1 Khái niệm ấn định giá 19
1.2.2.2 Phân loại ấn định giá 20
1.2.2.3 Nguyên tắc ấn định giá 21
1.2.3 Sự tác động của hành vi ấn định giá 22
1.2.3.1 Đối với người tiêu dùng 23
1.2.3.2 Đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi ấn định giá 23
1.2.3.3 Đối với doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh 23
1.2.3.4 Đối với thị trường liên quan 23
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VỀ KIỂM
SOÁT HÀNH VI ẤN ĐỊNH GIÁ 25
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân SVTH: Ngô Thành Duy
2.1 Những quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm kiểm soát hành vi ấn
định giá 25
2.1.1 Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
26
2.1.1.1 Chủ thể thực hiện hành vi 27
2.1.1.2 Nội dung của thỏa thuận 27
2.1.2 Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh 29
2.1.2.1 Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường 29
2.1.2.2 Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác phát triển
kinh doanh 31
2.1.3 Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các
bên của thỏa thuận 33
2.2 Những quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc
quyền nhằm kiểm soát hành vi ấn định giá 34
2.2.1 Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh 38
2.2.2 Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý 39
2.2.3 Ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng 41
2.2.4 Áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch như nhau
nhằm tạo sự bất bình đẳng trong luật cạnh tranh 45
2.2.5 Ngăn cản việc tham gia thị trường của đối thủ cạnh tranh mới 46
2.3 Những quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành vi ấn định giá 49
2.3.1 Nguyên tắc và hình thức xử lý vi phạm hành vi ấn định giá 49
2.3.2 Xử lý hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền 51
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN NHẰM NÂNG CAO VAI
TRÒ CỦA LUẬT CẠNH TRANH TRONG VIỆC KIỂM SOÁT HÀNH VI ẤN
ĐỊNH GIÁ 54
3.1 Thực tiễn áp dụng Luật Cạnh tranh ở Việt Nam 54
3.1.1 Những thành tựu đã đạt được 54
3.1.2 Những mặt hạn chế 58
3.1.2.1 Bất cập về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 58
3.1.2.2 Bất cập về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền
63
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân SVTH: Ngô Thành Duy
3.1.2.3 Hạn chế trong nhận thức của người tiêu dùng và doanh nghiệp về pháp
luật cạnh tranh 65
3.1.2.4 Những hạn chế khác trong quy định của Luật Cạnh tranh 66
3.2 Kiến nghị đề xuất hoàn thiện trong thời gian tới 68
3.2.1 Hoàn thiện quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 68
3.2.2 Hoàn thiện quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc
quyền 71
3.2.3 Nâng cao trình độ nhận thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng 72
3.2.4 Một số kiến nghị khác 72
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 1 SVTH: Ngô Thành Duy
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước thời kỳ đổi mới Việt Nam phát triển kinh tế theo hướng tập trung quan liêu
bao cấp. Trong giai đoạn này không có sự hiện diện của nền kinh tế tư nhân, chế độ công
hữu được thiết lập trên hầu hết các lĩnh vực kinh doanh. Chính cơ chế quản lý này đã thủ
tiêu quá trình cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của các đơn vị sản xuất kinh doanh, hạn
chế óc sáng tạo khoa học kỹ thuật. Mô hình kinh tế tập trung không phản ánh đúng yêu
cầu khách quan của các quy luật kinh tế thị trường. Giá cả hàng hóa gần như không có
mối quan hệ nào với giá trị hàng hóa và quan hệ cung cầu. Việc ấn định giá hàng hóa
không dựa trên một sự tính toán nào cả mà chỉ mang tính chất chủ quan làm mất đi động
lực phát triển kinh tế, tạo rào cản trong việc phát huy tính năng động sáng tạo vốn có của
nền kinh tế. Bước ngoặt năm 1986 đánh dấu một tiến bộ quan trọng trong nền kinh tế
Việt Nam, đại hội lần VI của Đảng cộng sản đã quyết định chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần góp phần thay đổi sâu
sắc bộ mặt kinh tế xã hội nước nhà. Từ đó mầm móng của quá trình cạnh tranh bắt đầu
xuất hiện giữa các cơ sở kinh doanh cùng một hàng hóa và cung ứng cùng một dịch vụ.
Cơ chế thị trường đặt ra nhu cầu phải thiết lập và duy trì môi trường cạnh tranh công
bằng cho các chủ thể kinh doanh. Chính sự gia tăng không ngừng cả về số lượng lẫn quy
mô của các doanh nghiệp đã thúc đẩy cạnh tranh trên thương trường ngày càng trở nên
gay gắt quyết liệt. Sự kiện năm 2007 Việt Nam trở thành thành viên WTO đã đưa kinh tế
nước ta bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới. Vì vậy, yêu cầu xây dựng một hành
lang pháp lý vững chắc cho các doanh nghiệp cạnh tranh công bằng là vô cùng cần thiết.
Cạnh tranh là một động lực to lớn góp phần giúp cho các chủ thể kinh doanh tự
đổi mới, tự sáng tạo nhằm nâng cao năng lực của mình trên thương trường. Tuy nhiên
cần phải có sự can thiệp của nhà nước vào các mặt trái của hành vi cạnh tranh. Quốc hội
Khóa XI, kỳ họp thứ 6 đã ban hành Luật Cạnh tranh năm 2004 có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự điều tiết kinh tế thị trường ở nước ta. Để tồn tại được các doanh nghiệp
đã sử dụng rất nhiều phương thức khác nhau để cạnh tranh nhưng không phải phương
thức nào cũng lành mạnh. Có những hành vi tiêu cực gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế,
gây thiệt hại cho người tiêu dùng và các đối thủ cạnh tranh. Trong đó, hành vi ấn định giá
được các doanh nghiệp sử dụng phổ biến để cạnh tranh với nhau. Bởi hành vi này tác
động trực tiếp đến người tiêu dùng. Nhà nước luôn khuyến khích các doanh nghiệp xây
dựng một khung giá cả hợp lý với người tiêu dùng. Nhưng liệu giá cả trên thị trường hiện
nay đã thật sự hợp lý trong khi các quy định về ấn định giá trong Luật Cạnh tranh chưa
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 2 SVTH: Ngô Thành Duy
cụ thể. Vẫn còn có những quy định chưa rõ ràng, chưa dự liệu được hết các vấn đề xã hội
phát sinh gây khó khăn cho hoạt động áp dụng pháp luật. Hành lang pháp lý chưa an toàn
để các chủ thể kinh doanh phát huy hết tiềm năng. Nền kinh tế Việt Nam đang vận động
không ngừng nhưng vẫn còn những yếu kém đang tồn tại. Mặt khác, thủ đoạn của các
doanh nghiệp ngày càng trở nên tinh vi phức tạp gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước
trong việc kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm.
Từ những lý do nêu trên người viết đã quyết định chọn đề tài “Kiểm soát hành vi
ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp cử nhân
ngành luật cho mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu và phân tích những quy định của pháp luật về kiểm
soát hành vi ấn định giá. Thông qua đó rút ra những mặt hạn chế, bỏ ngõ của pháp luật để
đề xuất giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao vai trò của pháp luật cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Công cụ giá đã và đang được rất nhiều doanh nghiệp sử dụng để đấu tranh trên
cuộc chiến thương trường. Cách thức mà các nhà kinh doanh thực hiện vô cùng đa dạng,
muôn hình muôn vẻ. Trong đề tài này người viết chỉ tập trung nghiên cứu sâu vào những
quy định của pháp luật về hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá trong Luật Cạnh tranh để
thấy được vai trò và ý nghĩa to lớn của nó.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình để thu thập thông tin, số liệu cần thiết
người viết đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau bao gồm việc tiếp cận
các nguồn tài liệu sách, báo, tạp chí, giáo trình và những quy định của pháp luật. Đồng
thời tham khảo các tình huống thực tế phát sinh. Bên cạnh đó kết hợp với các phương
pháp phân tích luật viết, liệt kê, tổng hợp các nguồn tài liệu hiện có để làm sáng tỏ vấn
đề.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 3 SVTH: Ngô Thành Duy
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục thì kết cấu
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về pháp luật cạnh tranh và hành vi ấn định giá.
Chương 2: Những quy định của pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi ấn
định giá.
Chương 3: Thực tiễn và hướng hoàn thiện nhằm nâng cao vai trò của luật
cạnh tranh trong việc kiểm soát hành vi ấn định giá.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 4 SVTH: Ngô Thành Duy
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀ HÀNH VI
ẤN ĐỊNH GIÁ
Cạnh tranh tạo ra một động lực to lớn giúp cho các doanh nghiệp không ngừng
đổi mới sáng tạo để mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ tốt nhất.
Thông qua quá trình cạnh tranh khoa học kỹ thuật có thêm nhiều điều kiện để phát triển
sang một bước tiến mới, nhân loại có cơ hội trải nghiệm những sản phẩm công nghệ cao.
Có nhiều cách thức khác nhau để các doanh nghiệp thực hiện quá trình cạnh tranh song
phương thức ấn định giá được sử dụng phổ biến hơn cả. Trong chương 1 này người viết
sẽ khái quát về cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh, tìm hiểu về giá và hành vi ấn định
giá. Thông qua đó đánh giá sự tác động của hành vi ấn định giá đối với người tiêu dùng,
doanh nghiệp thực hiện hành vi ấn định giá, doanh nghiệp đối thủ và thị trường liên
quan.
1.1 Khái quát chung về cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh
1.1.1 Khái quát về cạnh tranh
1.1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm có
nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả phạm vi doanh nghiệp,
phạm vi ngành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu vực liên quốc gia. Điều này chỉ khác
nhau ở chỗ mục tiêu được đặt ra ở quy mô doanh nghiệp hay ở quốc gia mà thôi. Trong
khi đối với một doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở
cạnh tranh quốc gia hay quốc tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống
và phúc lợi cho nhân dân.
1
Sau công cuộc đổi mới năm 1986, Việt Nam đã bắt đầu thực thi những nguyên lý
cơ bản của thị trường. Trong đó điển hình là việc vận dụng quy luật cạnh tranh góp phần
thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Diện mạo nền kinh tế nước nhà đã có những bước tiến
mới linh hoạt và đa dạng hơn, cùng với những thuận lợi nhiều vấn đề xã hội mới cũng
dần nảy sinh như phá sản, kinh doanh gian dối, cạnh tranh không lành mạnh. Luật pháp
Việt Nam cũng có những tiến bộ mới trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình cạnh tranh nhưng so với các nước trên thế giới kinh nghiệm lập pháp của
nước ta vẫn còn trong giai đoạn thai nghén.
1
Trang thông tin điện tử chống hàng giả, Khái niệm cạnh tranh và các loại hình cạnh tranh,
[truy cập ngày 20-06-2013].
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 5 SVTH: Ngô Thành Duy
Mặc dù cạnh tranh đã không còn mới mẻ đối với các quốc gia nhưng cho đến hiện
nay các nhà khoa học vẫn chưa tìm được một khái niệm nào thỏa mãn tuyệt đối. Bởi lẽ
mỗi người có một hướng tiếp cận, một hướng nhìn nhận khác nhau nên việc đưa ra định
nghĩa cũng khác nhau. Với tư cách là một động lực nội tại trong mỗi một chủ thể kinh
doanh, cạnh tranh được cuốn Black’Law Dictionary diễn tả “sự nỗ lực hoặc hành vi
của hai hay nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ
thể thứ ba”.
2
Theo từ điển kinh doanh của Anh, xuất bản năm 1992, cạnh tranh với tư
cách là một hiện tượng xã hội được định nghĩa là “sự ganh đua, sự kình địch giữa
các nhà kinh doanh nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên hoặc cùng một loại
khách hàng về phía mình”.
3
Trong cuốn Khuôn khổ cho việc xây dựng và thực thi
luật và chính sách cạnh tranh, Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Hợp tác và Phát
triển (OECD) cho rằng “cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường được dùng để chỉ
một hoàn cảnh trong đó các doanh nghiệp hoặc người bán cố gắng một cách độc lập
giành được sự quan tâm, chú ý của người mua để đạt được một mục tiêu kinh doanh
nhất định như lợi nhuận, doanh thu, thị phần”.
4
Theo định nghĩa của từ điển Cornu
của Pháp thì cạnh tranh được định nghĩa là “hành vi của doanh nghiệp độc lập với
nhau và là đối thủ của nhau cung ứng hàng hóa, dịch vụ nhằm làm thỏa mãn yêu cầu
giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo được hoặc để bị mất
đi một lượng khách hàng thường xuyên”.
5
Từ điển bách khoa Việt Nam tập 1 giải
thích “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất
hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi
phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi
nhất”. ThS. Nguyễn Văn Cương cũng đưa ra quan điểm của mình trong việc định nghĩa
thuật ngữ này theo ông “Cạnh tranh là sự ganh đua, giành giật các điều kiện ưu đãi trên
thị trường của các doanh nghiệp”.
6
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm
giành lấy những điều kiện, cơ hội thuận lợi nhất trong nền sản xuất, tiêu thụ hay tiêu
dùng hàng hóa để từ đó thu lợi cho bản thân những lợi ích to lớn. Quá trình cạnh tranh có
thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng, người sản xuất muốn bán giá cao
2
Bryan A.Garmer, Black’ Law Dictionary, St. Paul, 1999, trang 278.
3
Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, 2004, trang 19.
4
OECD & WB - Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế và Ngân hàng Thế giới, Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi luật và chính sách cạnh tranh, Hoàng Xuân Bắc dịch, 2004, trang 17.
5
Nguyễn Hữu Huyên, Luật cạnh tranh của Pháp và Liên minh Châu Âu, Nxb. Tư pháp, 2004, trang 11.
6
Nguyễn Văn Cương, Tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp của một số nước và một số bình luận về Luật
Cạnh tranh của Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2006, trang 8.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 6 SVTH: Ngô Thành Duy
nhưng người tiêu dùng lại muốn mua với giá rẻ, người tiêu dùng cũng tranh giành nhau
để mua hàng hóa rẻ hơn và tốt hơn; hoặc người sản xuất cạnh tranh với nhau để có được
điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của mình.
Cạnh tranh thường chỉ diễn ra ở các doanh nghiệp có sự độc lập với nhau về lợi
ích. Các doanh nghiệp cung cấp cùng một loại hàng hóa, dịch vụ hoặc cung cấp các hàng
hóa, dịch vụ tương tự trên một thị trường được gọi là đối thủ cạnh tranh của nhau. Thông
thường, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng nhiều cách thức khác nhau. Các
doanh nghiệp có thể cạnh tranh với nhau về giá bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, cạnh
tranh với nhau về chất lượng dịch vụ, kiểu dáng, mẫu mã, cạnh tranh bằng dịch vụ hậu
mãi, cạnh tranh bằng các chương trình quảng cáo, khuyến mại.
Mỗi một định nghĩa được đưa ra đều mang lại cách hiểu khác nhau về các khía
cạnh của cạnh tranh nhưng chúng vẫn có những điểm hội tụ chung “Cạnh tranh là cố
gắng nhằm giành lấy phần hơn phần thắng về mình trong môi trường cạnh tranh”. Để
cạnh tranh tồn tại phải thỏa mãn một số điều kiện tiên quyết chẳng hạn phải có thật nhiều
chủ thể tham gia có cùng các mục đích, cùng đối tượng hướng đến và phải được diễn ra
trong một môi trường cạnh tranh cụ thể. Cạnh tranh xảy ra trong khoảng thời gian không
cố định nó phụ thuộc vào mục đích của các chủ thể tham gia đã thỏa mãn được hay chưa.
Thông qua quá trình cạnh tranh đã tạo nên một áp lực cưỡng bức bên ngoài buộc các
doanh nghiệp phải phấn đấu không ngừng tìm tòi giải pháp nhằm nâng cao năng lực bản
thân. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh là một động lực quan trọng để
phát triển kinh tế mỗi nước. Muốn nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định, cần thiết phải
thiết lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Hiện nay tất cả các quốc gia đều thừa
nhận mọi hoạt động đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh là môi trường và động lực
của sự phát triển, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng năng suất lao động tăng
hiệu quả của các doanh nghiệp, là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hóa quan hệ xã hội.
1.1.1.2 Đặc trưng cơ bản của cạnh tranh
Cạnh tranh là một quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường được nhìn nhận ở
nhiều góc độ khác nhau. Theo lý thuyết về kinh tế, cạnh tranh là một sản phẩm chuyên
biệt, là nền tảng và là động lực phát triển thị trường. Mặc dù được tiếp cận bằng nhiều
cách thức song cạnh tranh vẫn được mô tả bởi ba đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, cạnh tranh là một hiện tượng xã hội xảy ra giữa những chủ thể kinh
doanh. Trên phương diện là một hiện tượng xã hội, cạnh tranh chỉ xuất hiện khi tồn tại
những điều kiện sau đây:
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 7 SVTH: Ngô Thành Duy
Phải có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các
hình thức sở hữu khác nhau. Theo kinh tế học, cạnh tranh là hoạt động của các chủ
thể kinh doanh nhằm tranh giành hoặc mở rộng thị trường, đòi hỏi cần phải có
nhiều doanh nghiệp cùng tồn tại trên thị trường. Nếu chỉ có duy nhất một doanh
nghiệp trên một thị trường thì chắc chắn rằng nơi đó không có cạnh tranh. Ngược
lại mặc dù có nhiều doanh nghiệp trên một thị trường mà các doanh nghiệp này
cùng thuộc về một thành phần kinh tế thì sự cạnh tranh cũng chẳng có ý nghĩa gì
cả. Cạnh tranh chỉ thực sự trở thành động lực thúc đẩy các doanh nghiệp kinh
doanh tốt hơn nếu các doanh nghiệp thuộc về các thành phần kinh tế khác nhau
với những lợi ích và những toan tính khác nhau.
Muốn cạnh tranh có thể tồn tại được thì các chủ thể kinh doanh phải có quyền tự
do hành xử trên thị trường. Cụ thể các doanh nghiệp có quyền lựa chọn, tự do khế
ước, tự do lập hội và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Điều này giúp
cho các doanh nghiệp chủ động tiến hành các cuộc tranh giành để tìm kiếm cơ hội
phát triển trên thương trường. Việc áp đặt trong kinh doanh sẽ làm mất đi sự sáng
tạo, hạn chế việc tìm kiếm những nguồn lực, cơ hội phát triển của doanh nghiệp.
Các chủ thể kinh doanh không phát huy hết tiềm năng sẵn có của mình làm hoang
phí các nguồn tài nguyên kinh tế.
Thứ hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giữa các doanh
nghiệp. Nói cách khác, cạnh tranh suy cho cùng là phương thức giải quyết mâu thuẫn về
lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định là người tiêu dùng.
7
Trong kinh doanh, mục tiêu đầu tiên mà các chủ thể kinh doanh hướng tới chính là
lợi nhuận. Nó tạo ra động lực cho sự gia nhập thị trường, là thước đo sự thành đạt của
một doanh nghiệp. Nguồn gốc của lợi nhuận theo quan điểm kinh tế chính trị Mác - xít là
giá trị thặng dư mà nhà tư bản tìm được trong chu trình sản xuất, là kết quả của quá trình
chuyển hóa giữa tiền - hàng. Khách hàng và người tiêu dùng sẽ đóng vai trò đại diện cho
thị trường, là nhân tố quyết định thặng dư trong xã hội sẽ thuộc về ai. Lợi nhuận mà nhà
kinh doanh có được xuất phát từ năng lực của bản thân họ trong việc thỏa mãn những nhu
cầu của khách hàng và người tiêu dùng trong xã hội. Các doanh nghiệp sẽ đưa ra nhiều
chiến lược nhằm thu hút khách hàng cũng như nhà đầu tư nhằm tạo thêm nhiều thuận lợi
cho việc phát triển của mình. Sau cuộc chiến, người chiến thắng sẽ mở rộng được thị
7
Cách diễn tả của Nguyễn Như Phát & Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh và chống độc
quyền trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb. Công an nhân dân, 2001.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 8 SVTH: Ngô Thành Duy
phần và tăng lợi nhuận. Đồng thời kẻ thua cuộc phải thu hẹp dần sản xuất và rời bỏ khỏi
thị trường.
Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng giành thị
trường mua hoặc bán sản phẩm. Cạnh tranh diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi không chỉ ở giai
đoạn bán hàng, cung ứng dịch vụ mà ngay cả ở giai đoạn tìm kiếm nguyên liệu đầu vào
cũng xuất hiện.
Lợi nhuận đã thôi thúc các nhà kinh doanh thực hiện các cuộc chạy đua không
ngừng để tranh giành các cơ hội tốt nhất nhằm mở rộng thị trường. Với sự giúp đỡ của
người tiêu dùng, thị trường sẽ chọn ra người thắng cuộc và trao cho họ những lợi ích mà
họ mong muốn. Tham gia vào cuộc chiến trên thương trường thì việc thắng thua là điều
tất yếu, các doanh nghiệp phải lường trước được những hậu quả của nó.
Cạnh tranh chỉ xảy ra trên thị trường giữa các doanh nghiệp có cùng lợi ích tiềm
năng và nguồn nguyên liệu đầu vào (cạnh tranh mua); hoặc thị trường đầu ra của sản
phẩm (cạnh tranh bán) của quá trình sản xuất. Việc có chung lợi ích đã đưa các doanh
nghiệp trở thành đối thủ cạnh trạnh của nhau. Dựa trên lý thuyết cạnh tranh, việc xác định
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp phải xác định thị trường liên quan. Có cùng thị trường
liên quan làm cho họ có cùng mục đích và trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau. Theo
quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam và các nước trên thế giới, thị trường liên quan
bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.
Xác định thị trường liên quan là việc đánh giá khả năng thay thế cho nhau giữa
những sản phẩm của các doanh nghiệp ở một khu vực nhất định. Thị trường sản phẩm
liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau cả về đặc
tính, mục đích sử dụng và giá cả. Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể
trong đó các hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh
tương tự và có sự khác biệt so với các khu vực lân cận. Cùng một khu vực địa lý nhưng
hàng hóa, dịch vụ khác nhau về ba dấu hiệu đặc tính, mục đích sử dụng, giá cả thì sẽ
không thể thay thế cho nhau và tất nhiên không nằm trên một thị trường liên quan. Ngược
lại các sản phẩm tương tự nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả nhưng lại nằm ở
những khu vực địa lý khác nhau thì cũng không thể thay thế cho nhau được. Tóm lại, để
xác định các doanh nghiệp có cùng nằm trên một thị trường liên quan hay không cần phải
thỏa mãn điều kiện là có cùng thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên
quan. Khi có chung thị trường liên quan ta có thể kết luận các doanh nghiệp đó là đối thủ
cạnh tranh của nhau. Đó cũng là nguyên nhân làm nảy sinh sự ganh đua quyết liệt của các
chủ thể kinh doanh.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 9 SVTH: Ngô Thành Duy
1.1.1.3 Vai trò và ý nghĩa của cạnh tranh
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Dựa trên nền tảng
những quy luật đào thải của tự nhiên, cạnh tranh sẽ chọn lọc ra người chiến thắng và trao
tặng cho họ những lợi ích đồng thời cũng sẽ loại bỏ khỏi thị trường kẻ thua cuộc. Thông
qua cạnh tranh các chủ thể buộc phải đổi mới liên tục, điều đó góp phần mang lại những
bước tiến vượt bậc về kỹ thuật, công nghệ mà trước đây loài người chưa hề biết đến.
Tham vọng trong kinh doanh cũng đã khiến các doanh nghiệp sáng tạo không ngừng,
điều này đưa cạnh tranh thật sự trở thành động lực của sự phát triển. Xét về tổng thể các
lợi ích đạt được cạnh tranh có vai trò và ý nghĩa cơ bản sau:
8
Cạnh tranh là điều kiện góp phần thỏa mãn mọi nhu cầu và thị hiếu của người tiêu
dùng qua đó đem lại lợi ích cho họ.
Đối tượng trung tâm mà các doanh nghiệp luôn hướng đến trong tiến trình kinh
doanh của mình là người tiêu dùng. Các nhà kinh doanh luôn tìm mọi kỹ xảo, mọi chiêu
thức nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Bởi họ là trọng tâm của
thị trường, họ nhận thức được mình cần gì và ai sẽ đáp ứng tốt cho bản thân họ. Nếu một
nhà sản xuất không phục vụ tốt, khách hàng sẽ thay đổi nhà sản xuất khác tốt hơn. Tâm
lý chung của người tiêu dùng là làm sao mua hàng tốt, được hưởng nhưng lợi ích tốt
nhưng bỏ ra lượng tiền ít nhất. Chính sự cạnh tranh đã giúp họ đạt được ước nguyện ấy.
Cạnh tranh là động lực để thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ cao trong kinh doanh.
Mục tiêu của nhà kinh doanh là đạt lợi nhuận tối đa. Chính động lực này đã thôi
thúc các doanh nghiệp không ngừng ứng dụng và phát triển các công nghệ, kỹ thuật vào
trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất góp phần hạ
thấp giá thành để cạnh tranh trên thị trường. Dĩ nhiên khách hàng của doanh nghiệp cũng
sẽ gia tăng theo. Vì lẽ đó mà các doanh nghiệp đối thủ cạnh tranh luôn tìm cách đổi mới
công nghệ, chất lượng, mẫu mã để thu hút khách hàng về phía mình. Có thể nói đây là
một cuộc đua không có đích đến, bởi chẳng có doanh nghiệp nào lại hài lòng với công
nghệ hiện tại của mình, luôn đổi mới theo thời gian. Chính điều này góp phần quan trọng
đưa kỹ thuật, công nghệ phát triển không ngừng.
Cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự sáng tạo, đổi mới liên tục trong kinh doanh.
8
Bùi Ngọc Cương, Đồng Ngọc Ba, Lê Đình Vinh, Đoàn Trung Kiên, Giáo trình Luật thương mại, Nxb. Giáo dục
Việt nam, 2010, trang 67-68.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 10 SVTH: Ngô Thành Duy
Không chỉ đổi mới về kỹ thuật, công nghệ là đủ mà các doanh nghiệp cần phải
hoạch định cho mình những chiến thuật kinh doanh sao cho tiến bộ hơn và đi trước đối
thủ của mình. Sức ép cạnh tranh đã giúp các nhà kinh doanh sáng tạo, đổi mới về ý tưởng
và phương thức kinh doanh. Xây dựng một mô hình quản trị hiệu quả, đồng bộ góp phần
tiết kiệm chi phí nhân công, chi phí điều hành. Mặc dù có nhiều thế mạnh về công nghệ
hơn đối thủ cạnh tranh nhưng nếu không điều hành tốt thì doanh nghiệp cũng không phát
huy được hết sức mạnh tổng lực của mình.
Cạnh tranh là nhân tố phân bổ lại các nguồn lực theo hướng có hiệu quả hơn.
Cạnh tranh là một quy luật đào thải tự nhiên cho nên những doanh nghiệp hoạt
động yếu kém sẽ dần biến mất nhường chỗ cho những kẻ mạnh. Đào thải có thể qua
nhiều hình thức khác nhau như phá sản, giải thể,… Nhưng thông thường phá sản xảy ra
nhiều hơn, nhưng chưa hẳn nó đã là tiêu cực. Phá sản góp phần phân bổ lại các nguồn lực
để các doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn thay vì lãng phí cho những nhà kinh doanh
yếu kém.
1.1.2 Khái quát về pháp luật cạnh tranh
1.1.2.1 Lịch sử ra đời của pháp luật cạnh tranh
Lịch sử ra đời của Luật Cạnh tranh trên thế giới
Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp pháp luật cạnh tranh đã
ra đời. Ở giai đoạn sơ khai nó được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản trong Luật
Dân sự và được bảo đảm thực hiện bằng trách nhiệm dân sự. Trong Bộ luật Dân sự của
Pháp (Code civil - 1804), Điều 1382 và 1383 quy định về trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng.
9
Theo đó những trách nhiệm phát sinh cho các thương nhân trong cạnh tranh được
án lệ của nước Pháp coi là một loại hình mới của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Sự nhận thức chưa đầy đủ và hạn chế trong khả năng dự liệu của luật pháp đối
với hành vi cạnh tranh đang phát triển trên thị trường nên pháp luật cạnh tranh trong thời
kì này tồn tại chủ yếu dưới dạng các án lệ của tòa án. Nền kinh tế thị trường phát triển
không ngừng đòi hỏi hầu hết các nước phải ban hành văn bản pháp luật cạnh tranh.
Đến cuối thế kỉ XIX, pháp luật cạnh tranh đã được mở rộng và có những thay đổi
rất cơ bản về nội dung và cả phương pháp điều chỉnh. Hiện tượng độc quyền đã bắt đầu
xuất hiện kèm theo cơn bão khủng hoảng tài chính tạo điều kiện cho pháp luật chống độc
quyền ra đời trên đất Hoa Kỳ. Đối phó với nguy cơ phá sản bởi những cuộc khủng hoảng,
các công ty đã thỏa thuận với nhau nhằm ổn định, tăng giá hàng hóa, phân chia lại thị
9
Xem Bộ luật Dân sự của nước Cộng Hòa Pháp (NXB chính trị quốc gia, 1998), trang 365.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 11 SVTH: Ngô Thành Duy
trường tiêu thụ. Hậu quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người lao động làm
công. Trước tình hình đó các bang của Hợp chủng quốc đã ban hành các đạo luật chống
Tờ - Rớt (tên gọi khác của Luật Cạnh tranh), đầu tiên là bang Alahama vào năm 1883.
Năm 1890 Dự Luật chống độc quyền của nghị sĩ Sherman được thông qua. Tuy nhiên,
đạo luật này lại được sử dụng như một công cụ để chống lại các cuộc đình công của công
nhân. Mãi cho đến năm 1897 nó mới được sử dụng đúng chức năng của mình để ngăn
chặn và cấm đoán các thỏa thuận về giá. Vào năm 1904, lần đầu tiên Tổng thống
Roosevelt đã sử dụng Luật Sherman để chống lại một số tập đoàn khổng lồ của Mỹ.
Chính sự ra đời của Luật Sherman đã đánh dấu một bước phát triển mạnh về pháp luật
cạnh tranh. Nhà nước đã nhận thức được vai trò lớn lao của mình trong việc điều tiết thị
trường, đảm bảo trật tự kỷ cương trong kinh doanh. Cùng với sự phát triển của thị trường,
pháp luật cạnh tranh ngày càng được vận hành ổn định và hiệu quả. Đạo luật Sherman
được coi là Đạo luật đầu tiên trên thế giới về chống độc quyền. Sau đó hàng loạt các Đạo
luật khác của các Bang khác trên nước Mỹ ra đời điển hình là Đạo luật Clayton năm
1914. Ngoài các văn bản pháp luật trên, Mỹ còn sử dụng các án lệ để điều chỉnh hiện
tượng độc quyền.
Pháp luật về cạnh tranh được chia làm hai lĩnh vực là pháp luật về chống cạnh
tranh không lành mạnh và pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh và kiểm soát độc quyền.
Cả hai lĩnh vực pháp lý đều hướng tới một lợi ích chung là tạo lập và thúc đẩy môi
trường kinh doanh bình đẳng tự do; bảo vệ, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh để đảm
bảo cho hoạt động cạnh tranh được diễn ra bình thường và đúng pháp luật; bảo vệ lợi ích
chính đáng cho các chủ thể kinh doanh, của người tiêu dùng, và của nhà nước; góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh và
kiểm soát độc quyền có vai trò xóa bỏ những cản trở để hoạt động cạnh tranh diễn ra bình
thường. Trong khi đó pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh sẽ xử lý hành vi tiêu
cực trong cạnh tranh. Hai lĩnh vục này bổ sung cho nhau hợp thành khung pháp luật về
cạnh tranh. Từ đó hầu hết các quốc gia đều đã có Luật Cạnh tranh mặc dù tên gọi có thể
khác nhau nhưng cùng chung một mục tiêu và ý nghĩa. Năm 2007, theo thống kê của Hội
nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) đã có 113 nước và vùng
lãnh thổ có luật điều tiết hoạt động cạnh tranh và kiểm soát độc quyền.
10
10
Bùi Ngọc Cương, Đồng Ngọc Ba, Lê Đình Vinh, Đoàn Trung Kiên, Giáo trình Luật thương mại, Nxb. Giáo dục
Việt nam, 2010, trang 70.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 12 SVTH: Ngô Thành Duy
Lịch sử ra đời Luật Cạnh tranh Việt Nam
Theo quan điểm của thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung thì cạnh tranh, kinh tế
thị trường gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy cạnh tranh được xem như là một
việc làm xấu xa, thiếu đạo đức, nó được xem như là hành động “cá lớn nuốt cá bé” và
cũng là nguyên nhân gây ra các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Sự thổi phồng của các
phương tiện thông tin đại chúng dần biến cạnh tranh trở thành một việc làm tội lỗi, lừa
đảo, đưa ra những thông tin không đúng sự thật. Hành động này đã làm hạn chế cạnh
tranh, bóp méo các quan hệ cạnh tranh trên thị trường.
Quá trình hội nhập kinh tế diễn ra, buộc nhà nước phải thay đổi cách nhìn nhận về
cạnh tranh theo hướng tích cực hơn. Đại hội Đảng VI (12/1986) thực hiện đường lối đổi
mới nền kinh tế theo hướng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận thành theo
cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước. Hiến pháp 1992 chính thức ghi nhận
quyền tự do kinh doanh. Luật Thương mại 1997 ghi nhận trực tiếp quyền cạnh tranh của
thương nhân trong hoạt động thương mại tại Điều 8 :
1- Thương nhân được cạnh tranh hợp pháp trong hoạt động thương mại.
2- Nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh gây tổn hại đến lợi ích quốc gia và các
hành vi sau đây:
a) Đầu cơ để lũng đoạn thị trường;
b) Bán phá giá để cạnh tranh;
c) Dèm pha thương nhân khác;
d) Ngăn cản, lôi kéo, mua chuộc, đe dọa nhân viên hoặc khách hàng của thương
nhân khác;
đ) Xâm phạm quyền về nhãn hiệu hàng hoá, các quyền khác về sở hữu công
nghiệp của thương nhân khác;
e) Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp khác.
11
Ngoài ra Luật Thương mại 1997 cũng có những quy định cấm các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh xâm hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
Hội nhập với kinh tế toàn cầu Việt Nam đã ký kết và gia nhập nhiều hiệp định
thương mại, đầu tư song phương hoặc đa phương. Nước ta cũng chính thức trở thành viên
của nhiều tổ chức diễn đàn trong khu vực như ASEAN, AFTA, ASEM, APEC, WTO.
Kinh tế nước ngoài bắt đầu du nhập vào Việt Nam mang lại nhiều thuận mới nhưng cũng
tạo ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. Đứng trước yêu cầu cấp thiết
cần phải có một hành lang pháp lý cho xây dựng cơ chế thị trường và thực thi chính sách
11
Xem Điều 8 Luật Thương mại 1997.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 13 SVTH: Ngô Thành Duy
cạnh tranh, ngày 03/12/2004 kỳ họp thứ VI Quốc hội khóa XI thông qua Luật Cạnh tranh
nhằm điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình
tự thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh và biện pháp xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2005.
1.1.2.2 Vai trò của pháp luật cạnh tranh
Sự ra đời của pháp luật cạnh tranh góp phần bảo vệ tự do cạnh tranh và loại bỏ
những quyền lực kinh tế có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tác dụng của cạnh tranh, ảnh
hưởng đến xu thế cạnh tranh hiệu quả, ảnh hưởng đến khả năng cung ứng cho xã hội
những hàng hóa, dịch vụ tốt nhất. Từ những tác động đó, pháp luật cạnh tranh có vai trò
sau đây:
Thứ nhất, tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng tự do.
Quy định về tự do kinh doanh và quyền được tồn tại bình đẳng của các doanh
nghiệp góp phần tạo điều kiện và đảm bảo cho cạnh tranh tồn tại. Các chủ thể kinh doanh
khi tham gia vào thị trường có đủ năng lực để quyết định phương thức kinh doanh của
mình chỉ khi được tự do gia nhập vào thị trường cũng như được bảo đảm quyền sở hữu.
Pháp luật cạnh tranh bảo vệ cạnh tranh bằng cách chống lại các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh và loại bỏ mọi hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Hoạt động của nó được thực
hiện theo cơ chế:
Các doanh nghiệp tự chủ trong việc quyết định việc cung cấp hàng hóa và cung
ứng các dịch vụ mà không phải chịu sự chi phối của các cơ quan nhà nước. Người
tiêu dùng và nhà sản xuất tự do gặp gỡ trên thị trường. Đồng thời giá cả hàng hóa
và dịch vụ vận động theo quy luật cung cầu tùy thuộc vào các biến động của thị
trường.
Gia nhập vào thị trường thì mục tiêu hàng đầu của nhà kinh doanh là lợi nhuận. Để
đạt được mục tiêu ấy các doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều chiến thuật khác
nhau. Nhưng họ phải tự chịu trách nhiệm về những hậu quả do mình gây ra.
Không ít các biểu hiện tiêu cực đã xâm phạm, đe dọa hoặc xâm hại trực tiếp đến
lợi ích của đối thủ cạnh tranh hoặc của người tiêu dùng. Nhất là các hành vi hạn
chế cạnh tranh trực tiếp xâm hại trật tự kinh tế, hủy hoại cạnh tranh và xâm phạm
quyền tự do kinh doanh lành mạnh của doanh nghiệp khác. Nhà nước và pháp luật
cần phải vào cuộc để chấn chỉnh lại trật tự thị trường thông qua các biện pháp,
chính sách pháp luật điều tiết cạnh tranh, ổn định vĩ mô nền kinh tế. Pháp luật
cạnh tranh là công cụ hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền tự do kinh doanh của các
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 14 SVTH: Ngô Thành Duy
thành viên thị trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh, bảo vệ sự lành mạnh của
quan hệ thị trường.
Thứ hai, bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp.
Pháp luật cạnh tranh chi phối các hoạt động của doanh nghiệp làm cho họ chưa
nhận thức rõ được những lợi ích chính đáng mà Luật Cạnh tranh mang lại. Thông qua
việc xử lý những hành vi bất chính, Luật Cạnh tranh lặp lại trật tự của thị trường, giải
phóng các nhà kinh doanh hợp pháp khỏi những biểu hiện tiêu cực. Bên cạnh đó, pháp
luật còn động viên, khích lệ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp.
Thứ ba, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Người tiêu dùng được xem là “thượng đế” là vị trí trung tâm của thị trường mà bất
kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn hướng đến. Lợi nhuận của nhà kinh doanh xuất phát từ
việc thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Để đạt được mục tiêu của mình các doanh
nghiệp không từ mọi thủ đoạn để lôi kéo khách hàng về phía mình. Số lượng doanh
nghiệp thì rất ít so với lượng người tiêu dùng và họ chính là người chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ những hành vi bất chính. Trình độ của người tiêu dùng lại chưa đồng đều không
phải ai cũng nhận thức được rằng bản thân mình đang bị thiệt hại. Với lại thủ đoạn thì
ngày càng tinh vi, sắc sảo khó mà phát hiện bằng mắt thường. Chính vì lẽ đó pháp luật
cạnh tranh ra đời kịp thời lại một lần nữa bảo vệ người tiêu dùng khỏi thủ đoạn phi pháp
của doanh nghiệp.
Thứ tư, thúc đẩy tiến trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả.
Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra trên diện rộng, các rào cản thuế quan cũng dần
xóa bỏ. Việc tự do hóa thương mại đã kéo các quốc gia lại gần nhau hơn. Có nhiều cơ hội
giao thoa, tiếp cận với những công nghệ, nguồn lực kinh tế mới. Song song đó cũng phải
đối mặt với những khó khăn, cạnh tranh ngày càng diễn ra quyết liệt. Những thế lực kinh
tế quốc tế luôn tìm mọi cách để chiếm đoạt và thôn tính thị trường của những nước đang
phát triển. Từ đó chi phối cả một nền kinh tế của một quốc gia. Pháp luật cạnh tranh tạo
cơ hội, và điều kiện để các doanh nghiệp có cơ hội phát huy hơn nữa. Đồng thời bảo vệ
doanh nghiệp khỏi những hành vi tiêu cực, giúp nhà kinh doanh nhanh chóng hòa nhập
vào thị trường thế giới nhưng không hòa tan.
12
12
Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2006,
trang 31-34.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 15 SVTH: Ngô Thành Duy
1.1.2.3 Mục tiêu của pháp luật cạnh tranh
Trước khi ban hành nên một đạo luật thì nhà lập pháp luôn đặt ra cho nó một sứ
mạng. Không một văn bản luật nào là không có mục tiêu đề ra khi áp dụng chúng vào
thực tiễn đời sống. Pháp luật cạnh tranh ra đời nhằm thực hiện những mục tiêu sau đây:
Duy trì tính cạnh tranh trên thị trường.
Để bảo vệ quá trình cạnh tranh được diễn ra một cách có hiệu quả và không bị bóp
méo đi những giá trị đích thực mà nó mang lại, Luật Cạnh tranh phải can thiệp vào thị
trường. Không phải lĩnh vực nào cũng được cho phép cạnh tranh tự do, không kiểm soát.
Một vài lĩnh vực đặc biệt như y tế, các dịch vụ công cộng sẽ chịu sự kiểm soát của Chính
phủ nhằm mục đích bảo vệ các lợi ích công. Và một số lĩnh vực quan trọng có sức ảnh
hưởng đến nền kinh tế chung nhà nước sẽ áp dụng chính sách bảo hộ đặc biệt để duy trì
sự ổn định, bền vững của thị trường.
Tăng cường hiệu quả của nền kinh tế.
Các nhà kinh tế học cho rằng mục tiêu chính của Luật Cạnh tranh là thúc đẩy và
duy trì một quá trình cạnh tranh hiệu quả, từ đó đạt được cách thức phân bổ hiệu quả hơn
các nguồn lực. Quả thực như vậy nếu không có cạnh tranh trên thị trường các nhà kinh
doanh sẽ ngủ quên trong chiến thắng, không có một động lực để phát huy hơn nữa.Từ đó
những nguồn lực kinh tế cũng chưa vận dụng hết công suất, làm uổng phí những lợi ích
mà đáng lẽ ra toàn xã hội sẽ được thụ hưởng. Pháp luật cạnh tranh ra đời xóa nhòa đi
những tiêu cực ấy, tạo bước đệm nâng cao hiệu quả nền kinh tế toàn cầu.
Bảo vệ tự do kinh tế.
Quy phạm cạnh tranh bảo vệ tính cạnh tranh trên thị trường đồng thời nó cũng hậu
thuẫn cho quá trình tự do về kinh tế. Các doanh nghiệp được tự do gia nhập thị trường
trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. Việc một tổ chức kinh doanh lạm dụng sức
mạnh thị trường để gây ảnh hưởng cho doanh nghiệp khác sẽ không được chấp nhận. Các
doanh nghiệp, công ty có quyền tự do kinh doanh của họ và được thực hiện quyền đó
nhưng họ không bao giờ được trở thành người ép buộc người khác. Quyền lực của một
công ty không thể vượt quá phạm vi hoạt động của công ty, chi phối công ty khác. Sự can
thiệp của cơ quan nhà nước vào cạnh tranh phần nào đã hạn chế việc lạm dụng thị trường
từ đó bảo vệ tự do kinh tế.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 16 SVTH: Ngô Thành Duy
Bảo vệ đối thủ cạnh tranh và cạnh tranh bình đẳng.
Pháp luật cạnh tranh góp phần hạn chế sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp
lớn, tìm cách bảo vệ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trước những khó khăn. Các tập đoàn
lớn chắc chắn sẽ có tiềm lực mạnh có thể nuốt chửng các doanh nghiệp nhỏ nhằm chiếm
giữ vị thế độc quyền chi phối toàn bộ nền kinh tế. Chỉ khi pháp luật cạnh tranh ra đời mới
tạo được một môi trường cạnh tranh bình đẳng để hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ có thể
tồn tại được trên thị trường. Đảm bảo cho người tiêu dùng có vô số sự lựa chọn, được thụ
hưởng thành quả tốt nhất.
Phục vụ các vấn đề chính trị, xã hội
Pháp luật cạnh tranh cũng góp phần hỗ trợ nhà nước thực hiện các chính sách kinh
tế, xã hội. Hạn chế tình trạng tập trung kinh tế làm sa thải hàng loạt người lao động. Hoặc
cũng có thể cho phép các doanh nghiệp thỏa thuận hạn chế để bảo vệ những ngành nghề
đang thua lỗ, đứng trước nguy cơ phá sản. Đóng góp quan trọng vào thực hiện các chính
sách phúc lợi xã hội, tạo thêm việc làm, gia tăng thu nhập cho người lao động.
1.2 Khái quát về giá và hành vi ấn định giá
1.2.1 Khái quát về giá
1.2.1.1 Khái niệm giá
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của hàng hóa, dịch vụ hay nói cách khác là số tiền
phải trả cho hàng hóa, dịch vụ hay một loại tài sản nào đó. Giá cả hàng hóa là một đại
lượng biến đổi xoay quanh trục giá trị của hàng hóa và phụ thuộc chặt chẽ vào yếu tố
cung cầu trên thị trường. Khi cung và cầu bằng nhau giá cả sẽ phản ánh đúng giá trị của
hàng hóa. Giá cả của hàng hoá sẽ cao hơn giá trị của hàng hoá nếu số lượng cung thấp
hơn cầu. Ngược lại, nếu cung vượt cầu thì giá cả sẽ thấp hơn giá trị của hàng hoá đó.
Giá cả mang nhiều tên gọi khác nhau phụ thuộc vào đối tượng hàng hóa. Nếu là
sức lao động thì sẽ gọi là tiền lương, tiền công; hàng hóa là tiền tệ thì sẽ được biểu thị giá
cả bằng lãi suất… Đằng sau của những tên gọi đó, các hiện tượng giá cả luôn mang một ý
nghĩa chung là lợi ích kinh tế bằng tiền. Trong các biến số của chính sách marketing hỗn
hợp chỉ có biến số giá cả là trực tiếp tạo ra doanh thu và lợi nhuận thực tế. Nhìn từ nhiều
góc độ khác nhau thì có rất nhiều quan điểm khác nhau về giá.
“Theo học thuyết giá trị thì giá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng
thời biểu hiện nhiều mối quan hệ lớn trong nền kinh tế.
Kiểm soát hành vi ấn định giá theo Pháp luật Cạnh tranh
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 17 SVTH: Ngô Thành Duy
Theo quan niệm của người mua thì giá cả là số lượng tiền mà họ phải trả để nhận
được một số lượng hàng hoá hay dịch vụ nhất định để có thể sử dụng hay chiếm hữu
hàng hoá hay dịch vụ đó.
Còn theo quan điểm của người bán thì giá cả là phần thu nhập hay doanh thu mà
họ nhận được khi tiêu thụ một đơn vị hay số lượng sản phẩm nhất định.
Những quyết định về giá luôn giữ vai trò quan trọng và phức tạp nhất mà một
công ty phải đối mặt khi soạn thảo các hoạt động marketing của mình.”
13
Quá trình trao đổi hàng hóa trên thị trường đã góp phần hình thành nên giá. Giá cả
biểu thị sự tương quan trao đổi, nhà sản xuất tạo ra sản phẩm và người tiêu dùng có nhu
cầu mua sản phẩm ấy thì quá trình trao đổi diễn ra giữa bên mua và bên bán thông qua đó
giá hàng hóa được hình thành. Việc trao đổi dựa trên giá trị của hàng hóa mà ta đem đi
trao đổi. Trước khi thực hiện trao đổi phải trải qua bước thẩm định giá trị của hàng hóa từ
đó hình thành nên khung giá cả. Mức giá đưa ra chỉ được chấp nhận nếu nó thỏa mãn lợi
ích của hai bên mua và bán. Tuy nhiên trong một số trường hợp chỉ cần thỏa mãn lợi ích
của một bên giá cả vẫn được hình thành. Đứng trước nguy cơ phá sản, doanh nghiệp có
thể hạ giá bán đến mức thấp để thu hồi vốn của mình.
Với người bán “Giá cả một hàng hóa, dịch vụ là khoản thu nhập người bán nhận
được về việc tiêu thụ sản phẩm”. Trong hoạt động trao đổi, người bán đóng vai trò cung
ứng hàng hóa, dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu và ước muốn của người mua. Tâm lý
chung của nhà kinh doanh là mong muốn bán được hàng hóa với giá cao, giá cả cao hơn
giá trị của hàng hóa. Nếu bán giá càng cao thì lợi nhuận thu về càng nhiều đây là mục
tiêu mà các doanh nghiệp luôn hướng đến. Tuy nhiên không phải lúc nào mục đích này
cũng được thực hiện bởi vì nếu mức giá bất hợp lý sẽ không được sự chấp nhận của dư
luận xã hội. Dù cho giá cả có biến động thế nào thì nó vẫn vận động xoay quanh trục giá
trị của hàng hóa.
Với người mua “Giá cả của một sản phẩm hoặc dịch vụ là khoản tiền mà người
mua phải trả cho người bán để được quyền sở hữu, sử dụng sản phẩm hay dịch vụ đó”.
Trong trao đổi hàng hóa, dịch vụ, người mua là người có tiếng nói cuối cùng về một mức
giá được thực hiện. Người mua tham gia trao đổi nhằm tìm kiếm những lợi ích mà hàng
hóa và dịch vụ có thể thỏa mãn nhu cầu và mục đích của họ. Số tiền mà người mua phải
trả cho hàng hóa, dịch vụ để được quyền sở hữu, sử dụng chúng chính là giá cả của hàng
hóa, dịch vụ đó.
13
Trang thông tin điện tử của học liệu mở Việt Nam, Khái niệm và đặc trưng của giá
[truy cập ngày 14-7-2013].