ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
MAI DUY PHƯỚC
THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ
NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
MAI DUY PHƯỚC
THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ
NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 60.38.50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
Bộ Tư pháp
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỎA
THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý và yêu cầu điều chỉnh
pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của các thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh
1.1.2. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật và các trường hợp được
miễn trừ trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1.2. Khái niệm, bản chất pháp lý và yêu cầu điều chỉnh
pháp luật đối với các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của thỏa thuận ấn định
giá nhằm hạn chế cạnh tranh
1.2.2. Hậu quả pháp lý của thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh và yêu cầu điều chỉnh pháp luật
1.2.3. Các căn cứ để xác định các thỏa thuận ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh bị kiểm soát và xử lý
1.3. Kinh nghiệm pháp luật của một số nước trong việc
điều chỉnh các thỏa thuận về giá nhằm hạn chế cạnh tranh
1.3.1. Kinh nghiệm của pháp luật Hoa Kỳ
1.3.2. Kinh nghiệm của pháp luật các nước Châu Âu
1.3.3. Kinh nghiệm của pháp luật Nhật Bản
Chương 2 : THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI CÁC THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN
CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng quy định pháp luật điều chỉnh các thỏa
thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
2.1.1. Khái niệm và căn cứ xác định các thỏa thuận ấn định
giá nhằm hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam
2.1.2. Các hình thức xử lý đối với thỏa thuận ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật để điều chỉnh các
thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
1
7
7
7
16
19
19
23
25
29
29
33
37
42
42
42
44
49
2.2.1. Thực trạng các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh trên thị trường Việt Nam thời gian qua
2.2.2. Thực trạng xử lý các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh
2.3. Một số nhận xét về thực trạng điều chỉnh pháp luật
đối với các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở
Việt Nam
2.3.1. Về các quy định của pháp luật cạnh tranh
2.3.2. Về thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật cạnh
tranh
Chương 3 : MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT ĐỂ ĐIỀU CHỈNH HIỆU QUẢ CÁC THỎA THUẬN ẤN
ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
3.1. Những định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp
luật để điều chỉnh hiệu quả các thỏa thuận ấn định giá nhằm
hạn chế cạnh tranh
3.1.1. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
phải gắn liền với chính sách cạnh tranh phù hợp, hiệu quả
3.1.2. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với việc đảm bảo quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực
3.1.3. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với việc đảm bảo sự công bằng lợi ích giữa Nhà nước,
người tiêu dùng và doanh nghiệp
3.1.4. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với cơ chế kiểm soát giá cả độc quyền
3.1.5. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với mối quan hệ với các quy định pháp luật khác
3.2. Kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả
điều chỉnh pháp luật đối với các thỏa thuận ấn định giá nhằm
hạn chế cạnh tranh
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
49
57
65
65
69
73
73
73
74
75
76
77
78
86
88
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi vậy, pháp luật được xem là
một trong những công cụ hiệu quả nhất trong tay Nhà nước nhằm quản lý và
điều tiết vĩ mô các hoạt động của nền kinh tế, góp phần ổn định thị trường,
đảm bảo trật tự và công bằng xã hội.
Cùng với hệ thống pháp luật kinh tế được xây dựng và ngày càng hoàn
thiện nhằm điều tiết hiệu quả các quan hệ kinh tế trong điều kiện kinh tế thị
trường, pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam được ra đời đã góp phần quan trọng
trong việc tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh trong kinh
doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và xã hội.
Thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh là một trong các hành
vi được Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định và thực hiện kiểm soát trong
những trường hợp có thể gây ra hậu quả làm giảm, cản trở hoặc sai lệch việc
cạnh tranh trên thị trường, tiến tới xóa bỏ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
bằng sự thống nhất cùng hành động, các doanh nghiệp đang từ đối thủ cạnh
tranh, nhưng khi thực hiện các thỏa thuận ấn định giá, thì giữa họ không còn
cơ chế cạnh tranh với nhau nữa. Tuy nhiên, không phải các thỏa thuận ấn định
giá nhằm hạn chế cạnh tranh đều gây hại cho cạnh tranh nói riêng và nền kinh
tế nói chung, những thỏa thuận ấn định giá đôi khi cũng có lợi cho nền kinh tế
khi các bên thực hiện chiến lược liên doanh, hợp tác phát triển, chiến lược xây
dựng các tiêu chuẩn thống nhất và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp hoặc năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Các trường hợp này
2
cũng đã được pháp luật cạnh tranh dự liệu và cho phép được làm các thủ tục
để miễn trừ trách nhiệm pháp lý.
Trên thực tế, đã có nhiều hoạt động của các chủ thể kinh tế ở thị trường
nước ta vi phạm các quy định của Luật Canh tranh nhưng chưa được xử lý
một cách nghiêm khắc, triệt để, gây ra nhiều bất ổn trong hoạt động của nền
kinh tế, ảnh hưởng đến quyền lợi của các doanh nghiệp khác và người tiêu
dùng xã hội. Cụ thể, hai vụ việc hạn chế cạnh tranh điển hình được nhắc đến
nhiều nhất là Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam (Vinapco) ngừng cung
cấp xăng dầu cho Công ty Pacific Airlines (PA) với lý do Công ty Pacific
Airlines không đồng ý với mức giá về cung ứng xăng dầu do Vinapco đề xuất.
Ở vụ thứ hai, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đã ký biên bản thỏa
thuận ấn định phí trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới. Mới đây, sau khi Ngân
hàng Techcombank nâng lãi suất huy động tiền gửi lên 17%/năm, các ngân
hàng thương mại trong Hiệp hội Ngân hàng đã thỏa thuận nhau đưa ra mức lãi
suất 14%/năm cũng là vi phạm các quy định của Luật Cạnh tranh. Có thể nói,
hoạt động của các hiệp hội trong một số ngành (Bảo hiểm, Thép, Ngân hàng)
thực tế đã có những hành vi làm hạn chế cạnh tranh. Ngành Ngân hàng đã có
dấu hiệu vi phạm khi ấn định trần lãi suất tiền gửi. Ngành Thép công khai
thỏa thuận ấn định giá bán thép. Thời gian qua, có dấu hiệu thỏa thuận ấn
định giá bán mặt hàng sữa bột nhãn hiệu nước ngoài nhập khẩu. Tuy nhiên,
ngoài Hiệp hội Ngân hàng đã xin rút thỏa thuận nói trên, vụ việc của Hiệp hội
Thép đã không bị xử lý.
Với mong muốn thực hiện nghiên cứu để làm rõ bản chất, cũng như các
hình thức biểu hiện của những thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
tranh dưới cả hai góc độ tích cực và tiêu cực, cũng như thực trạng áp dụng các
quy định về vấn đề này của pháp luật cạnh tranh Việt Nam, đồng thời, dựa
trên cơ sở tham khảo một số quy định của pháp luật cạnh tranh các nước tiên
3
tiến, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và mạnh dạn đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện hành, góp phần vừa bảo vệ quyền tự
do kinh doanh của doanh nghiệp, vừa bảo vệ các lợi ích công cộng, nên tác
giả đã lựa chọn đề tài “Thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở
Việt Nam” để nghiên cứu và làm Luận văn tốt nghiệp Cao học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật nhằm đảm bảo để nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
phát triển, đã có một số công trình nghiên cứu bước đầu về pháp luật cạnh
tranh, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, vấn đề độc quyền và kiểm
soát độc quyền, như: “Chuyên đề về cạnh tranh, chống cạnh tranh bất hợp
pháp và kiểm soát độc quyền” của tác giả Đặng Vũ Huân đăng tải trên Thông
tin Khoa học pháp lý, tháng 11 năm 1996 của Viện Nghiên cứu khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp; “Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều
kiện chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Như
Phát – ThS. Bùi Nguyên Khánh, Nxb. Công an nhân dân năm 2001; “Cạnh
tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” sách tham khảo
do PGS.TS. Nguyễn Như Phát và PGS.TS. Trần Đình Hảo làm chủ biên, Nxb.
Công an nhân dân năm 2001; “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách
cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh” của Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế trung ương (CIEM) năm 2002; “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và
chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam” sách tham khảo của TS.
Đặng Vũ Huân, Nxb. Chính trị Quốc gia năm 2004 Ngoài ra, còn có một số
bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: “Cạnh tranh
và pháp luật cạnh tranh hiện nay” của GS.TS. Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số 11 năm 2000; “Đối tượng điều chỉnh của pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Tạp chí Nhà
4
nước và Pháp luật số 9 năm 2000; “Pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam: Nhu
cầu, khả năng và một vài kiến nghị” của TS. Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 11 năm 2000
Sau khi Luật Cạnh tranh năm 2004 được ban hành, một số công trình
nghiên cứu đã tiếp tục đi sâu nghiên cứu và luận giải các quy định của pháp
luật cạnh tranh như: “Tìm hiểu về Luật Cạnh tranh” của tác giả Trần Minh
Sơn, Nxb. Tư pháp năm 2005; “Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh” của TS.
Lê Hoàng Oanh, Nxb. Chính trị Quốc gia năm 2005; “Phân tích và luận giải
các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh” của PGS.TS. Nguyễn Như
Phát và ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Nxb. Tư pháp năm 2006; “Pháp luật cạnh
tranh tại Việt Nam” của các tác giả TS. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc,
ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Nxb. Tư pháp năm 2006; “Chính sách và thực tiễn
pháp luật cạnh tranh của Cộng hoà Pháp của Nxb. Chính trị Quốc gia năm
2007; “Tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp của một số nước và
một số bình luận về Luật Cạnh tranh của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn
Cương, năm 2006; “Hành vi hạn chế cạnh tranh – Một số vụ việc điển hình
của Châu Âu” - tài liệu tham khảo thuộc Dự án hỗ trợ thương mại đa biên
(MULTRAP) và Bộ Công Thương Việt Nam phối hợp thực hiện năm 2009;
“Chính sách cạnh tranh từ góc độ quốc gia đang phát triển” của tác giả Bùi
Nguyễn Anh Tuấn, năm 2010; “Điều chỉnh pháp luật đối với các thoả thuận
hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” - Luận án Tiến sĩ của tác giả
Nguyễn Thị Nhung, năm 2011
Nhìn chung, các công trình khoa học này đều đã tiếp cận nghiên cứu
pháp luật cạnh tranh ở những phạm vi, mức độ và các khía cạnh khác nhau.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện,
đầy đủ và có hệ thống về các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
5
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
cũng như cơ sở pháp lý của việc xác định và điều chỉnh những thỏa thuận ấn
định giá làm hạn chế cạnh tranh, thực trạng áp dụng các quy định pháp luật
cạnh tranh để xử lý các trường hợp này trong thời gian qua ở Việt Nam.
Cùng với việc tham khảo kinh nghiệm pháp luật của một số nước thực
hiện điều chỉnh các thỏa thuận này, Luận văn đưa ra các nhận xét, đánh giá và
kiến nghị để có thể hoàn thiện các quy định của pháp luật cạnh tranh nhằm
điều chỉnh vấn đề này một cách hiệu quả hơn.
Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn gồm:
Thứ nhất: Nghiên cứu các vấn đề lý luận của pháp luật cạnh tranh về
thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh.
Thứ hai: Phân tích các quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam
hiện nay điều chỉnh các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh và
thực tiễn áp dụng.
Thứ ba: Xuất phát từ nghiên cứu các vấn đề lý luận, từ thực tiễn quá
trình áp dụng pháp luật cạnh tranh Việt Nam và tham khảo pháp luật cạnh
tranh một số nước tiên tiến, Luận văn đưa ra nhận xét và đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh của Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về cạnh tranh nói chung có phạm vi rất rộng và liên quan đến
nhiều lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là hệ thống pháp luật kinh tế. Bởi vậy, trong
khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp cao học, với đề tài đã lựa chọn, tác giả
chỉ đi sâu nghiên cứu về bản chất, nội hàm của các thỏa thận ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh, những hậu quả pháp lý và quá trình điều chỉnh pháp
6
luật đối với các thỏa thuận này theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam, đồng
thời, có thực hiện nghiên cứu so sánh pháp luật cạnh tranh của một số nước
trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp hoàn thiện
pháp luật cạnh tranh nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với loại
thoả thuận này ở Việt Nam
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin; quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn cũng sử dụng các phương pháp:
phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, diễn giải, quy nạp, đánh giá, thống kê,
v.v để thực hiện những nội dung nghiên cứu đã đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu và các đề xuất, kiến nghị của luận văn có ý nghĩa
góp phần hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh và nâng cao hiệu quả điều chỉnh
pháp luật đối với các thoả thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt
Nam hiện nay. Luận văn cũng có thể sử dụng làm tư liệu nghiên cứu, giảng
dạy về chuyên ngành Luật Cạnh tranh.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về thoả thuận ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh
Chƣơng 2: Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với các thoả thuận ấn
định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
Chƣơng 3: Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật để điều chỉnh hiệu quả
các thoả thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỎA THUẬN
ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT PHÁP LÝ VÀ YÊU CẦU ĐIỀU
CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH
TRANH
1.1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh
1.1.1.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thị trường là nơi trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở sự ưng thuận
giữa các bên tham gia trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Quan hệ trao đổi hàng hóa,
dịch vụ trên thị thường được gọi là quan hệ thị trường. Thị trường có ba yếu
tố chủ yếu là: (i) Người bán (người cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho thị trường
hay còn gọi là bên cung) (ii) Người mua (người có nhu cầu mua hàng hóa,
dịch vụ hay còn gọi là bên cầu) (iii) Hàng hóa, dịch vụ được trao đổi, mua bán
trên thị trường. Thông qua việc trao đổi, mua bán trên thị trường, các nguồn
lực khan hiếm trong nền kinh tế sẽ được dịch chuyển và được phân bổ giữa
các thành viên trong xã hội. Vì vậy, thị trường là phương thức phân bổ nguồn
lực trong nền kinh tế và trong xã hội; trong nền kinh tế kế hoạch, sự phân bổ
là không dựa vào sự ưng thuận giữa các bên còn cách phân bổ nguồn lực bằng
quan hệ thị trường bao giờ cũng phải có sự ưng thuận giữa các bên tham gia
trao đổi. Quan hệ giữa các bên trong quan hệ thị trường là quan hệ ưng thuận
nên việc phân bổ nguồn lực trong xã hội thông qua cơ chế thị trường luôn
đảm bảo sự hài hòa về lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ, quan hệ giữa
các bên theo kiểu “win-win” (các bên đều thắng) [51, tr. 55].
Như vậy, nếu như có sự bình đẳng thực sự giữa người bán và người
mua trong quan hệ thị trường, thì sự phân bổ nguồn lực bằng quan hệ thị
8
trường sẽ đưa đến kết cục là nguồn lực sẽ đi đến những nơi được trả giá cao
nhất và không đến những nơi mà nguồn lực đó bị trả giá thấp hơn.
Trao đổi giao dịch trên thị trường không chỉ tạo ra sự hài hòa về lợi ích
giữa các bên trong quan hệ, mà còn chính giữa các bên này với toàn xã hội.
Về lý thuyết, người bán có quyền tự do quyết định mức giá sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ của mình, tuy nhiên, để có thể bán được hàng hóa, dịch vụ, tức là
để cho giá hàng hóa, dịch vụ có thể chấp nhận được từ phía người mua, người
bán không thể quyết định giá bán cao bao nhiêu cũng được. Khi có nhiều
người bán cùng một loại hàng hóa, dịch vụ (có thể thay thế cho nhau), nếu
một người bán định giá quá cao, người mua có thể từ bỏ ý định mua hàng hóa,
dịch vụ đó và chuyển sang mua hàng hóa, dịch vụ của người bán khác. Nếu
trong trường hợp chỉ có một người bán, việc định giá cao của người này sẽ
thu được nhiều lợi nhuận, đây cũng là điều hấp dẫn để kêu gọi những người
khác tham gia đầu tư sản xuất hàng hóa, dịch vụ để cạnh tranh với người bán
đó. Quá trình cung – cầu trong nền kinh tế thực tế thường phức tạp và phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như số lượng người mua, người bán trên thị trường,
tiềm năng của mỗi người mua, người bán đối với thị trường, những rào cản
gia nhập thị trường, những điều này được gọi là cấu trúc thị trường.
Theo cách hiểu thông thường, cạnh tranh là các hoạt động đối nghịch
giữa các bên để có một lợi ích mà không thể tất cả mọi bên đều đạt được [52],
còn thỏa thuận là việc các bên cùng thực hiện một công việc mà các bên đều
được lợi thông qua việc thực hiện công việc đó. Cạnh tranh thúc đẩy các bên
phải cải tiến hàng hóa, dịch vụ của mình theo xu hướng ngày càng có giá rẻ
hơn và chất lượng tốt hơn để giữ hoặc tăng thị phần mình đang có bằng cách
đầu tư vào các nguồn lực mà mình nắm giữ. Như vậy, cạnh tranh sẽ là trò
chơi “được - thua” trong khi thỏa thuận là các bên đều thắng. Vì vậy, các bên
luôn có xu hướng tiến tới thỏa thuận với nhau để làm giảm áp lực chạy đua về
9
cạnh tranh, tiết kiệm được chi phí đầu tư cải tiến và cuối cùng là thu lợi nhuận
cao hơn.
Trong kinh tế học, thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh tranh được hiểu là sự
thống nhất hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ
sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập
giữa các đối thủ. Theo Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế, cartel là
một thỏa thuận chính thức hoặc không chính thức để đạt được kết quả có lợi
cho các hãng có liên quan nhưng có thể có hại cho các bên khác [54, tr. 47].
Dưới giác độ pháp lý, mặc dù các văn bản pháp luật về canh tranh ở
trong và ngoài nước đều không đưa ra quy định khái niệm về thoả thuận hạn
chế cạnh tranh, song từ các quy định về hành vi của các thoả thuận bị cấm
đoán, có thể giải thích về nội hàm của các thoả thuận hạn chế cạnh tranh như
sau: “Thoả thuận hạn chế cạnh tranh là sự thỏa thuận phối hợp hành động với
nhau giữa các doanh nghiệp độc lập để thủ tiêu cạnh tranh giữa chúng, nâng
cao vị thế của các thành viên tham gia thỏa thuận, cản trở sự tham gia thị
trường của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như sự nhập cuộc của các doanh
nghiệp tiềm năng mà không cần phải có sự nỗ lực phấn đấu trên thương
trường” [10, tr. 7, 8]. Giải thích này đã chỉ ra mục tiêu của các bên tham gia
thỏa thuận nhằm đạt được là “nâng cao vị thế của các thành viên tham gia
thỏa thuận, cản trở sự tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh khác…”,
mà “không cần phải có sự nỗ lực phấn đấu trên thương trường”.
Trong cuốn “Tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp của một
số nước và một số bình luận về Luật Cạnh tranh của Việt Nam”, thì thoả
thuận hạn chế cạnh tranh được định nghĩa là: “Sự thoả thuận giữa các doanh
nghiệp độc lập với nhau về lợi ích kinh tế có mục đích hoặc tác động làm
giảm hoặc bóp méo quá trình cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp
tham gia thoả thuận có thể là đối thủ cạnh tranh với nhau trên thị trường (thoả
10
thuận ngang) hoặc các doanh nghiệp thuộc các công đoạn khác nhau của quá
trình kinh doanh từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng. Mỗi quốc gia khác
nhau thường có quan niệm không hoàn toàn giống nhau về thoả thuận hạn chế
cạnh tranh ” [9, tr. 269].
Ở những nghiên cứu khác, thoả thuận hạn chế cạnh tranh được mô tả ở
dạng khái quát như sau: “Thoả thuận hạn chế cạnh tranh (cartel) là hành vi
cấu kết giữa hai hay nhiều doanh nghiệp để thủ tiêu sự cạnh tranh giữa chúng
và ngăn cản sự tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như
sự nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng. Về hình thức, cartel có thể
được hình thành thông qua các hợp đồng, các nghị quyết, các thoả thuận
ngầm giữa các doanh nghiệp. Hiện nay, thông thường các cartel được thể hiện
dưới dạng thoả thuận ngầm để tránh bị phát hiện và sự trừng phạt của pháp
luật. Thoả thuận nhằm hạn chế cạnh tranh có thể hình thành theo chiều ngang
hoặc chiều dọc của các quy trình kinh doanh” [48, tr. 336].
Hay trong cuốn sổ tay với tiêu đề “Hành vi hạn chế cạnh tranh - Một
số vụ việc điển hình của Châu Âu” do Dự án hỗ trợ thương mại đa biên
(MULTRAP) và Bộ Công Thương Việt Nam phối hợp thực hiện, thì thoả
thuận hạn chế cạnh tranh được định nghĩa là: “Những thoả thuận giữa các
doanh nghiệp cạnh tranh nhằm ấn định giá hoặc sản lượng hoặc phân chia thị
phần, khách hàng - thường được biết đến dưới tên gọi cartel - hoặc các thoả
thuận theo đó các bên tham gia đấu thầu ấn định giá bỏ thầu hoặc thoả thuận
trước doanh nghiệp sẽ thắng thầu - thường được biết đến dưới dạng đấu thầu
thông đồng. Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh cũng bao gồm cả các thoả
thuận dọc có tác động tiêu cực đến cạnh tranh như thoả thuận ấn định giá bán
lại một sản phẩm nhằm ngăn cản nhà phân phối cung cấp ưu đãi cho khách
hàng" [16, tr. 7].
11
Qua các nghiên cứu ở trên, có thể đưa ra khái niệm tổng quát về thoả
thuận hạn chế cạnh tranh như sau:
“Thoả thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí giữa các doanh
nghiệp độc lập với nhau (gọi là các thành viên) để thực hiện các hành vi nhằm
mục đích thủ tiêu hoặc hạn chế sự cạnh tranh giữa chúng và qua đó ngăn cản
sự tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như của các
doanh nghiệp tiềm năng”.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các đối thủ thiết lập ở nhiều quy
trình khác nhau của quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa và nó
cũng diễn ra ở các chủ thể tham gia thỏa thuận có vị trí khác nhau trong quá
trình này. Dựa trên căn cứ đó, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được chia
là các loại sau đây:
(i) Thỏa thuận giữa những người bán với nhau (thỏa thuận ấn định giá,
phân chia thị trường tiêu thụ);
(ii) Thỏa thuận giữa những người mua (thông đồng đấu thầu);
(iii) Thỏa thuận theo chiều ngang là những thỏa thuận giữa các doanh
nghiệp, đối thủ cạnh tranh trực tiếp của nhau trong cùng ngành hàng (thỏa
thuận giữa những người bán, giữa các doanh nghiệp);
(iv) Thỏa thuận theo chiều dọc là những thỏa thuận giữa doanh nghiệp
ở các công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa (thỏa
thuận giữa doanh nghiệp với đại lý hoặc người bán lẻ hàng hóa của doanh
nghiệp);
1.1.1.2. Bản chất pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Nghiên cứu để thực hiện điều chỉnh một hiện tượng kinh tế với hậu quả
được xác định là đi ngược lại với các lợi ích của cạnh tranh, thì điều quan
trọng cần đi sâu tìm hiểu dó chính là bản chất pháp lý của các thoả thuận hạn
chế cạnh tranh, hay nói cách khác, đó là các đặc điểm cần xem xét dưới giác
12
độ pháp lý của thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Cũng từ cơ sở nghiên cứu này,
cho phép chúng ta xác định các trường hợp miễn trừ, bởi lẽ, không phải thoả
thuận hạn chế cạnh tranh nào cũng đưa đến những hậu quả tiêu cực.
Nhằm xác định rõ bản chất pháp lý, một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
cần được xem xét qua các yếu tố sau:
Thứ nhất, về chủ thể, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh là những đối thủ cạnh tranh của nhau trên thị trường.
Thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh tranh được diễn ra giữa các doanh
nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau trên thị trường. Điều này có nghĩa là
các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận phải cùng trên một thị trường liên quan,
chúng phải hoạt động độc lập với nhau, các doanh nghiệp không phải cùng
tập đoàn kinh doanh hay trong cùng một tổng công ty. Những hành động
thống nhất của các công ty trong tổng công ty hoặc tập đoàn hoặc công ty mẹ
với công ty con không phải thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bởi vì suy cho
cùng các thành viên này được hợp thành một chủ thể thống nhất.
Thứ hai, các doanh nghiệp đã có sự thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh
tranh.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một trong những hình thức hạn chế
cạnh tranh điển hình. Theo đó, các bên tham gia quan hệ có sự bày tỏ ý chí
trước chủ thể phía bên kia về việc mong muốn đạt được sự thỏa thuận (về nội
dung cụ thể) với chủ thể đó và cũng mong muốn chủ thể phía bên kia chấp
nhận ý chí của mình về các nội dung liên quan đến việc hạn chế cạnh tranh.
Dưới góc độ xem xét đến các hành vi hạn chế cạnh tranh, sự thoả thuận
ở đây có thể được hiểu là sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp, các
doanh nghiệp tìm được ý chí chung và mục đích của việc tìm kiếm ý chí
chung này là hạn chế cạnh tranh. Do đó, có thể hiểu sự thoả thuận này là kết
quả của quá trình đàm phán, thương lượng của các doanh nghiệp với nhau
13
liên quan đến một nội dung cụ thể có khả năng gây suy giảm, bóp méo hoặc
thủ tiêu cạnh tranh.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp các doanh nghiệp không thoả thuận một
cách trực tiếp với nhau mà “gián tiếp” đạt được sự thoả thuận thông qua quyết
định của Hiệp hội mà các doanh nghiệp là thành viên. Sở dĩ chúng ta vẫn coi
đó là sự thoả thuận bởi lẽ khi doanh nghiệp tham gia hiệp hội, chấp nhận các
cam kết chung của hiệp hội, trong đó chấp nhận cho phép hiệp hội được đưa
ra các quyết định và mình tuân theo, thì đây cũng chính là sự thoả thuận của
doanh nghiệp, hình thức thoả thuận này gần như là sự “uỷ quyền quyết định”
cho hiệp hội và bất luận như thế nào thì doanh nghiệp cũng đồng ý. Ngoài ra,
sự thoả thuận này còn có thể thể hiện dưới dạng các cam kết đáp ứng các yêu
cầu của một bên hoặc các bên tham gia. Trên thực tế, có trường hợp các
doanh nghiệp có các hành vi giống nhau thì cũng chưa thể kết luận là các
doanh nghiệp này có sự thoả thuận được bởi lẽ có thể đó là sự ngẫu nhiên trên
cơ sở tính toán, xác định của doanh nghiệp. Chỉ coi sự giống nhau về hành vi
biểu hiện của doanh nghiệp là sự thoả thuận khi các doanh nghiệp này có sự
thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, hay nói cách khác các doanh nghiệp tìm
kiếm được ý chí chung mà không bị tác động bởi bất cứ lý do nào.
Thứ ba, mục đích của sự thoả thuận là nhằm hạn chế cạnh tranh.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được thể hiện ở dạng thoả thuận
theo chiều ngang hoặc thoả thuận theo chiều dọc. Về nội dung, các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh rất đa dạng, điều này tùy thuộc vào sự sáng tạo của nhà
kinh doanh, tuy nhiên, dù thế nào thì nó cũng sẽ làm triệt tiêu tính cạnh tranh
giữa các nhà kinh doanh tham gia thỏa thuận trên thị trường. Biểu hiện cụ thể
của các thoả thuận này được thể hiện thông qua các thoả thuận về giá, về phân
chia thị trường và cung ứng dịch vụ; thoả thuận về chất lượng, số lượng; thoả
thuận về loại bỏ khỏi thị trường hoặc ngăn cản các doanh nghiệp tiềm năng
14
Sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp tham gia sự thoả thuận nhằm gây
thiệt hại cho các khách hàng hoặc các doanh nghiệp tiềm năng. Với khách
hàng, lợi ích trực tiếp bị thiệt hại là họ không được hưởng những lợi ích về
chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm ; còn với doanh nghiệp tiềm năng,
họ không có cơ hội để tham gia quá trình sản xuất, kinh doanh đang tồn tại sự
cạnh tranh thông thường.
Như vậy, với sự liên kết của các doanh nghiệp tham gia thoả thuận hạn
chế cạnh tranh, các doanh nghiệp này tạo thành một sức mạnh để khống chế
khách hàng theo những chuẩn mực mà các doanh nghiệp này đặt ra về giá cả,
kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng Ngoài ra, các doanh nghiệp
tham gia thoả thuận cũng có thể đưa ra các điều kiện bất lợi trong việc thiết
lập các giao dịch đối với các doanh nghiệp không tham gia sự thoả thuận.
Thứ tư, về hình thức, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải được thể
hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định.
Về hình thức biểu hiện, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống
nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp hoặc công khai hoặc bí mật, mà
thông thường là bí mật. Để chứng minh cho hành vi của các doanh nghiệp, cơ
quan có thẩm quyền phải chứng minh giữa các doanh nghiệp đã tồn tại một
hợp đồng, bản ghi nhớ, biên bản họp về một thỏa thuận công khai hoặc ngầm
nhằm đồng ý về giá, về sản lượng, phân chia thị trường, tức là, có chứng cứ
để chứng minh các nhà quản lý doanh nghiệp đã bàn bạc, thống nhất về nội
dung cùng hành động nhằm hạn chế cạnh tranh
Luật Mẫu về cạnh tranh của Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên
Hợp Quốc quy định hình thức của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể bất kể
là thỏa thuận ngầm định, bằng lời nói hay bằng văn bản, chính thức hay
không chính thức. Luật Cạnh tranh của Việt Nam cũng như của nhiều quốc
gia khác không đề cập đến hình thức biểu hiện của thỏa thuận hạn chế cạnh
15
tranh phải thể hiện bằng văn bản, bằng miệng, bằng hành vi cụ thể hay bất cứ
một hình thức nào khác, mà chỉ xác định là các thoả thuận đó nhằm hạn chế
cạnh tranh. Trên thực tế, việc xác định hình thức thể hiện của các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh có ý nghĩa rất quan trọng trong việc điều tra và xử lý các
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm - mặc dù hình thức pháp lý của
một thoả thuận không ảnh hưởng gì đến hậu quả pháp lý nếu xác định được
sự thoả thuận.
Mặc dù việc xác định hình thức pháp lý của các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh không phải là tiêu chí bắt buộc khi đánh giá tính hợp pháp của một
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và vì thế, từ phương diện pháp luật tố tụng
cạnh tranh, các hình thức kể trên đều có thể được chấp nhận. Đáng lưu ý là,
hầu hết các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều tồn tại dưới hình thức thoả
thuận ngầm, nên việc nhận dạng, đấu tranh và phát hiện chúng bằng việc thu
thập những chứng cứ thông thường như: bản hợp đồng, biên bản cuộc họp,
hoá đơn điện thoại, bản fax, nội quy là hết sức khó khăn. Bởi vậy, trên thực
tế, cơ quan quản lý cạnh tranh ở các nước còn sử dụng các thông tin nghiệp
vụ của các lực lượng chức năng (an ninh, tình báo kinh tế), thông tin chuyên
môn của các cơ quan thống kê, thuế, hải quan… để chuyển hóa chứng cứ
trong quá trình xử lý.
Thứ năm, về hậu quả, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh đã làm cản
trở cạnh tranh trên thị trường.
Về hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm giảm, sai lệch và
cản trở cạnh tranh trên thị trường, hay nói cách khác, thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh sẽ xóa bỏ cạnh tranh giữa các đối thủ, giữa các doanh nghiệp tham gia
thỏa thuận bằng sự thống nhất hành động. Các doanh nghiệp là đối thủ của
nhau sẽ tạo ra những thỏa thuận chung, những tiêu chuẩn chung về giá, về kỹ
thuật, về công nghệ, về điều kiện giao dịch và những đối thủ này không còn
16
chạy đua nhau trong cạnh tranh trên các mặt này nữa, những đối thủ này
dường như không còn bị sức ép về cạnh tranh mà trong điều kiện bình thường
các đối thủ này có thể phải bỏ công sức, vốn cho việc đầu tư đổi mới để tồn
tại trên thương trường. Bằng cách thức như vậy, các đối thủ có thể bóc lột
những bạn hàng, đối tác thương mại của mình(người tiêu dùng, nhà cung cấp
nguyên vật liệu đầu vào, nhà phân phối sản phẩm), giúp tối đa hóa lợi nhuận
trên thị trường [9, tr. 59, 60]. Cartel ra đời từ thực tế là mối quan hệ giữa cung
và cầu trên thị trường bị lũng đoạn và thao túng. Khi các yếu tố khác không
thay đổi, sự tăng lên của lượng cung sẽ làm giảm giá hàng hóa, dịch vụ và
ngược lại sự giảm đi của cung sẽ dẫn tới sự tăng giá của hàng hóa, dịch vụ.
Người bán sẽ giữ mức cung của thị trường mà theo sự tính toán của họ, giá ở
mức cung đó sẽ giúp thu nhiều lợi nhuận nhất. Người mua cũng sẽ giữ mức
cung mà họ cho rằng sẽ mua ở mức giá rẻ nhất. Thông thường những thỏa
thuận để cùng hành động từ phía người bán hơn là từ phía người mua thiết lập
Tuy nhiên, không phải mọi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mang lại hậu
quả đều bị coi là bất hợp pháp và bị xử lý theo pháp luật. Theo nguyên tắc
Rule of Reason, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đó phải vượt “ngưỡng đáng
kể” – mang lại những hậu quả xấu nhiều hơn những lợi ích cho thị trường.
1.1.2. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật và các trƣờng hợp đƣợc miễn
trừ trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thực tế vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường cho thấy, nếu cạnh
tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, thì thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh (cartel) được xem là phương tiện triệt tiêu cạnh tranh trên thị
trường và nó thường bị xem là có hại cho nền kinh tế, chống lại cạnh tranh.
Cartel giúp tạo lập và củng cố sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp,
nhóm doanh nghiệp trong cartel có thể xử sự như một nhà độc quyền và bóc
lột người tiêu dùng hoặc đối tác của mình. Cartel giúp cho các thành viên hoạt
17
động không hiệu quả khỏi áp lực về cạnh tranh, tạo xu hướng sự lười biếng
trong lao động và sự trì trệ trong hoạt động phát minh, đổi mới và sáng tạo.
Cartel là hình thức thỏa thuận nguy hại bậc nhất giữa các đối thủ cạnh tranh,
chúng đặc biệt nguy hiểm đối với các ngành kinh tế cũng như đối với người
tiêu dùng, chúng làm giảm phúc lợi xã hội, tạo ra tình trạng phi hiệu quả và
hiệu ứng chuyển tài sản, thu nhập từ người tiêu dùng sang các thành viên
cartel. Những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như vậy cũng rất nguy hại xét về
dài hạn. Việc sử dụng cartel để tránh áp lực cạnh tranh có thể tạo nên cơ cấu
nền kinh tế (cơ cấu thị trường) không ổn định, không kinh tế và giả tạo, làm
giảm năng suất lao động, giảm tốc độ cải thiện công nghệ và duy trì giá cả ở
mức cao [53].
Những tác hại của cartel thể hiện rõ nét dưới hình thức can thiệp từ khu
vực tư nhân với sự vận hành tổng thể của cơ chế thị trường. Trước hết, phúc
lợi xã hội bị mất do giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao và giảm sản lượng sản
xuất. Bên cạnh đó, tính hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực bị xâm hại bởi
sự duy trì bảo hộ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, hoặc sự phát
triển kinh tế một cách năng động bị ngăn cản do thiếu động lực hướng tới sự
hiệu quả hơn hoặc do quá trình sáng tạo, phát minh bị ngăn cản. Ngoài ra,
cartel đại diện cho một hình thức dễ dàng nhất trong việc tối đa hóa lợi nhuận
bằng cách tránh cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, và bởi cartel trực tiếp có
mục đích triệt tiêu hoàn toàn cạnh tranh giữa các thành viên của cartel, do đó,
nó có tác dụng hạn chế cạnh tranh trên toàn thị trường. Và cuối cùng, cartel
được coi là công cụ để chống lại tính công bằng trong phân bổ sự giàu có
trong nền kinh tế bằng cách áp đặt giá thị trường cao, đảm bảo lợi nhuận siêu
ngạch và buộc dựa trên sức mạnh của thành viên cartel, sự chấp thuận những
thỏa thuận mà không thể áp đặt được nếu như chỉ có một thành viên thực hiện
[55].
18
Bên cạnh những tác hại nêu trên của cartel, đối với một quốc gia đang
tích cực gia nhập thị trường toàn cầu, một điểm đáng lưu ý là giá cả cao của
sản phẩm bị lũng đoạn bởi cartel khi các sản phẩm này là đầu vào của các nhà
sản xuất khác sẽ tạo ra một sự bất lợi về sức cạnh tranh của các nhà sản xuất
khác trên thị trường nội địa cũng như đối với nhà sản xuất trên thị trường
quốc tế. Vì thế, việc chống các hành vi thỏa thuận tạo cartel cũng là một cách
để thúc đẩy tính cạnh tranh của nền kinh tế trong thị trường toàn cầu.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác hại (của những cartel có mục đích lũng
đoạn thị trường bằng việc ấn định giá cả, hạn chế sản lượng, phân chia thị
trường), một số thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh rõ ràng quy định về
việc ấn định giá, ấn định sản lượng, phân chia thị trường, nhưng chỉ là một bộ
phận cấu thành nên một thỏa thuận, dự án hợp tác lớn hơn giữa các đối thủ
cạnh tranh, những dự án có lợi cho nền kinh tế và làm tăng tính hiệu quả của
nền kinh tế, hay nó còn có tên gọi khác là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bổ
trợ, ví dụ: thỏa thuận hợp tác giữa các đối thủ cạnh tranh trong việc lập ra một
liên doanh cùng sản xuất một mặt hàng nào đó, các điều khoản về ấn định giá,
sản lượng chỉ có tính bổ trợ đối với một thỏa thuận hợp tác tạo ra lợi ích kinh
tế có quy mô lớn hơn. Nếu thỏa thuận này có tác dụng bổ trợ và cần thiết cho
sự vận hành bình thường của thỏa thuận chính, những thỏa thuận này sẽ
không được coi là thỏa thuận có hại cho nền kinh tế và không bị coi là bất hợp
pháp. Những thỏa thuận này cần để nền kinh tế khai thác hết các tiềm năng
của mình.
Các nước trên thế giới đi theo mô hình kinh tế khác nhau, tuy nhiên các
nước đều thấy rằng muốn có sự phát triển kinh tế thực sự thì cần có những
yếu tố như đảm bảo quyền tự do thương mại, tự do kinh doanh, tự do hợp
đồng, tự do cạnh tranh. Chính vì vậy, đến nay có gần 100 quốc gia đã ban
hành luật cạnh tranh [56, tr. 16]. Tóm lại, cạnh tranh là tốt cho sự phát triển
19
của xã hội, tự do và công bằng là một giá trị cần được bảo vệ, hơn nữa cạnh
tranh dễ bị bóp méo và mất tác dụng trước những thủ thuật thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh do các doanh nghiệp trong nền kinh tế áp dụng, và cuối cùng cạnh
tranh chỉ có thể được duy trì, cải thiện hoặc tăng cường bởi nhà nước điều
chỉnh bằng công cụ pháp luật, tức là “bàn tay hữu hình” có thể giúp “bàn tay
vô hình” hoạt động hiệu quả hơn [9].
1.2. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT PHÁP LÝ VÀ YÊU CẦU ĐIỀU
CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC THOẢ THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ
NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.2.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của thỏa thuận ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh
Ấn định giá là thuật ngữ dùng chỉ những hành động chung của các đối
thủ cạnh tranh làm ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Thỏa thuận ấn định giá
hàng hóa, dịch vụ là việc các doanh nghiệp thống nhất một mức giá hoặc cách
thức tính giá chung cho hàng hóa, dịch vụ mà họ sẽ giao dịch trong tương lai
với các khách hàng. Người tiêu dùng không có sự lựa chọn nào khác ngoài
sản phẩm của các bên thỏa thuận và không thể giảm mức tiêu thụ của mình thì
giá có thể tăng rất cao.
Thỏa thuận ấn định giá có thể diễn ra ở bất cứ khâu nào trong quá trình
sản xuất và phân phối. Có thể là thỏa thuận về giá của hàng hóa thiết yếu,
hàng hóa trung gian hay hàng hóa thành phẩm; có thể là thỏa thuận liên quan
đến các dạng cụ thể bao gồm giảm giá, tăng giá, thỏa thuận áp dụng thống
nhất một mức giá với khách hàng, áp dụng chung công thức tính giá và những
hình thức khác về việc trao đổi thông tin về giá.
Thỏa thuận ấn định giá hay cartel về giá phải thuyết phục các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường để tăng giá trên mức cạnh tranh hoặc giảm giá mua
dưới mức giá cạnh tranh và các bên trong thỏa thuận phải giữ mức giá đó
20
trong một thời gian để các bên có thể kiếm lợi nhuận cao nhất. Như vậy, các
thành viên của cartel phải đồng ý với nhau về mức giá và phải giám sát lẫn
nhau nhầm tránh các thành viên khác bội ước không thực hiện thỏa thuận.
Thỏa thuận ấn định giá đòi hỏi một hoặc một vài thành viên trong thỏa
thuận phải có một thị phần tương đối lớn bởi vì nếu có một hoặc một số
doanh nghiệp bên ngoài thỏa thuận bán với giá thấp hơn giá thỏa thuận của
các thành viên sẽ gây ra một sức ép lớn cho các thành viên bên trong thỏa
thuận. Ngược lại, nếu như các doanh nghiệp bên ngoài cartel về giá mà có thị
phần quá nhỏ thì các bên tham gia thỏa thuận không cần phải lôi kéo những
doanh nghiệp này tham gia. Cũng có trường hợp, các doanh nghiệp chỉ tham
gia thỏa thuận ấn định giá đối với một số hàng hóa mang tính đặc biệt và đối
với một số khách hàng đặc biệt, nhưng lại cạnh tranh tự do đối với các khách
hàng hoặc các sản phẩm khác.
Trước khi thỏa thuận, thống nhất được với nhau về một mức giá ấn
định để thực hiện, điều này không hề đơn giản bởi vì mỗi doanh nghiệp do có
những đặc điểm khác nhau về quy mô, công nghệ mà mình nắm giữ nên họ
muốn có một mức giá khác nhau, điều này rất dễ hiểu bởi vì các doanh nghiệp
có mức chi phí đầu vào cao sẽ muốn mức giá thỏa thuận cao và ngược lại.
Bên cạnh đó, nếu như một số sản phẩm được kết hợp với nhau thì các thành
viên phải thỏa thuận với nhau về giá của toàn bộ sản phẩm, hoặc nếu như các
sản phẩm của các doanh nghiệp không hoàn toàn giống nhau thì các doanh
nghiệp phải thỏa thuận với nhau về tỷ lệ giá cả.
Những thị trường với những đặc điểm dưới đây có nguy cơ cao về việc
hình thành thỏa thuận ấn định giá:
- Có rất ít doanh nghiệp, hoặc chỉ vài doanh nghiệp quan trọng, tức là
những doanh nghiệp lớn này nắm giữ phần lớn thị phần;
21
- Các doanh nghiệp tương tự nhau về cơ cấu giá cả, quy trình sản xuất,
mức độ sản xuất;
- Sản phẩm chỉ mang tính thuần nhất, tức là các sản phẩm không có sự
khác biệt nhiều;
- Sản phẩm không có sản phẩm khác thay thế;
- Nhu cầu của người tiêu dùng không thể giảm một cách đáng kể;
- Có nhiều thông tin về giao dịch bán hoặc thu mua, điều này giúp các
thành viên trong thỏa thuận ấn định giá sẽ giám sát được lẫn nhau [20, tr. 70].
Những thỏa thuận ấn định giá có thể biểu hiện dưới những hình thức
sau:
- Thỏa thuận tăng giá;
- Thỏa thuận về một công thức chuẩn dùng để tính giá;
- Thỏa thuận về việc duy trì một tỷ lệ cố định về giá cả của những sản
phẩm cạnh tranh giống nhau nhưng không đồng nhất;
- Thỏa thuận để loại trừ việc chiết khấu giá hoặc thiết lập mức chiết
khấu đồng bộ;
- Thỏa thuận về những điều khoản tín dụng dành cho khách hàng;
- Thỏa thuận đưa ra thị trường những sản phẩm được chào bán ở mức
giá thấp nhằm hạn chế nguồn cung và giữ giá cao;
- Thỏa thuận về việc không giảm giá nếu không thông báo cho các
thành viên khác của cartel;
- Thỏa thuận về việc tuân theo mức giá đã được công bố;
- Thỏa thuận không bán, trừ khi các điều khoản về giá cả được thỏa
thuận và đáp ứng;
- Thỏa thuận sử dụng mức giá đồng bộ tại thời điểm khởi đầu của
cuộc đàm phán [20, tr. 59, 60].