Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.28 KB, 17 trang )

MỤC LỤC :
MỤC LỤC : 1
A.ĐẶT VẤN ĐỀ: 1
B.NỘI DUNG : 2
I.Khái quát chung : 2
3.Giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: 3
3. Nguyên nhân của sự khác biệt về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: 14
C. KẾT LUẬN: 15
NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN : 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO : 17
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết, dân tộc Việt Nam ta có một nền văn hóa rất phong phú và đa
dạng trên mọi mặt đời sống tinh thần. Như các dân tộc khác trên thế giới, từ thuở xa xưa
dân tộc Việt Nam đã thờ các thần linh. Họ thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu hình mà
thực chất là các hiện thượng thiên nhiên và xã hội mà họ chưa giải thích được.Từ đó hình
thành nên tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Trong các loại tín ngưỡng thì tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên là một hình thức tín ngưỡng cơ bản và phổ biến của người Việt Nam, bất
kể là đồng bằng hay miền núi, nông thôn hay thành thị, người giàu hay người nghèo…
Nguyễn Đình Chiểu có câu:
1
“Thà đuôi mà giữ đạo nhà
Còn hơn mắt sáng cha ông không thờ”
Vượt lên trên cả khía cạnh tín ngưỡng, tôn giáo, tục thờ cúng tổ tiên thấm đượm đạo
lý uống nước nhớ nguồn, một thứ ứng xử cộng đồng gia tộc, quốc gia. Nó trở thành một
chuẩn mực khuôn mẫu của ứng xử của con người Việt Nam.
B. NỘI DUNG :
I. Khái quát chung :
1. Nguồn gốc:
Xuất phát từ quan niệm người chết linh hồn vẫn tiếp tục sống ở nơi chín suối, ở thế
giới bên kia, vẫn có nhu cầu sinh hoạt như người sống nên người ta chôn theo người chết
những đồ tùy táng, phân chia các đồ dùng sinh hoạt cá nhân cho ngời chết.


“Thờ phụng tổ tiên không phải là thứ tôn giáo mà là lòng kính và biết ơn của người
sống đối với người đã khuất” (Toan Ánh). Thờ cúng tổ tiên là thờ những người đã
khuất , nằm trong cùng huyết thống gia đình, gia tộc. Cúng giỗ ông bà tổ tiên vào đúng
ngày ông bà tổ tiên qua đời, phạm vi tiến hành chỉ có con cháu trong gia đình, gia tộc.
Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trước hết phải đề cập đến chế độ phụ
quyền. Khi bước vào chế độ phụ quyền, vai trò của người đàn ông trở nên quan trọng
trong hoạt động kinh tế và sinh hoạt của gia đình. Con cái mang họ cha và con trai kế
tiếp ý thức về uy quyền trong gia đình của mình. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bắt nguồn
từ đấy.
Không chỉ chịu ảnh hưởng từ chế độ phụ quyền, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn
chịu ảnh hưởng từ ba dòng tôn giáo chính ở Việt Nam. Đó là:
- Nho giáo: Theo như Khổng Tử, sự sống của con người không phải do tạo hóa sinh
ra càng không phải do bản thân tự tạo ra mà nhờ cha mẹ, sự sống của cha mẹ lại gắn với
ông bà và cứ như vậy thế hệ sau kế tiếp thế hệ trước, vì thế mà thế hệ sau phải biết ơn thế
hệ trước. Cùng với tư tưởng tôn quân, quyền huynh thế phụ đã củng cố thêm tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên ở nước ta ngày một thể chế hóa.
- Đạo giáo: Nếu như Khổng giáo đặt nền tảng lý luận về đạo đức, về trật tự kỉ cương
xã hội cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thì Đạo giáo góp phần củng cố
2
niềm tin vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên của linh hồn những người đã chết thông
qua một số nghi lễ thờ cúng như: gọi hồn, bùa chú, ma chay, tang lễ, mồ mả và đốt vàng
mã.
- Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự giữ gìn và phát triển tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam. Trước hết là quan niệm của Phật giáo về cái chết, kiếp luân
hồi và nghiệp báo. Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo có ảnh hưởng lớn lao đến sự
phát triển của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt, nhưng không vì thế mà có sự sao
chép y nguyên. Người Việt Nam quan niệm rằng cha mẹ tổ tiên luôn lo lắng, quan tâm
cho con cái ngay cả khi họ đã chết. Người sống chăm lo đến linh hồn người chết, vong
hồn người chết sẽ quan tâm đến sự sống của người đang sống.
2. Bản chất:

Bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt đều mang chung ba khía
cạnh:
- Thờ cúng những người trong cùng dòng họ máu mủ đã khuất, theo từng đơn vị
gia đình, gia tộc…
- Nó mang tính chất là một hình thái tín ngưỡng, thờ tự, cúng lễ, cầu mong linh
hồn ông bà tổ tiên “phù hộ” cho hiện thực cuộc sống của con cháu.
- Nó cộng thêm khía cạnh đạo lý uống nước nhớ nguồn: “Công cha như núi Thái
Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
3. Giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
Thờ cúng tổ tiên là một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời
sống tinh thần, tâm linh của dân tộc Việt Nam và là một trong các thành tố quan trọng tạo
nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Từ buổi bình minh dựng nước đến ngày nay, tri ân, tưởng
nhớ, thờ cúng tổ tiên luôn là đạo lý, tín ngưỡng truyền thống của người việt. Tín ngưỡng
này được bảo tồn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để bồi lắng, kết tụ thành
những giá trị văn hóa, lịch sử và đạo đức của người Việt.
3.1 Giá trị lịch sử, văn hóa:
Phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có từ rất lâu đời. Đó là một phong tục
đẹp, giàu bản sắc, có tính chất giáo dục truyền thống cho các thế hệ. Tự bản thân phong
tục thờ cúng tổ tiên đã mang trong nó những giá trị văn hóa nhân bản. Thờ cúng tổ tiên là
tín ngưỡng gốc xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó là sợi dây tạo mối liên kết, tính
3
thống nhất toàn dân tộc, đồng thời là cội nguồn của các phong tục, tín ngưỡng khác. Cả
cộng đồng cư dân Việt Nam được củng cố bởi đức tin chung một cội nguồn, lấy đó làm
cội nguồn sức mạnh tinh thần để dân tộc ta vững vàng trước mọi sự đe dọa của thiên tai
và ngoại xâm.Vì là một tín ngưỡng có sức sống lâu bền, có gốc rễ sâu xa trong cộng
đồng người Việt nên nó là một hiện tượng xã hội có tính phổ biến. “ Thờ cúng tổ tiên là
nghi thức mang hiệu quả đặc biệt trong việc giáo dục chữ Hiếu, chữ Nhân, chữ Lễ, chữ
Tâm, là những phẩm chất cần thiết nhất để con người có thể được xem là hoàn thiện
trong nhân cách. “Một trong những ảnh hưởng có thể kiểm chứng ngay của những người
đã khuất đến thế giới hiện tại là góp phần điều chỉnh, giáo dục con người thông qua

hành vi thờ tự…” (PGS.TS. Nguyễn Văn Cương, ĐHVHHN). TS. Nguyễn Anh Tuấn
Giám Đốc Bảo Tàng Hùng Vương , Phú Thọ khẳng định đây là: “ một giá trị văn hóa –
một hằng số bất biến của giá trị nhân văn cao đẹp của mỗi người Việt Nam ”. Trong tiến
trình lịch sử dựng nước và giữ nước, người Việt luôn sắt son quan niệm: Tất cả cùng
chung một dòng máu Tiên Rồng, cùng là con cháu Lạc Hồng, nên phải sống với nhau có
nghĩa, có tình, có thủy có chung, có trên có dưới, có xóm có làng, có trước có sau, có tổ
có tông. Đó là điều cốt lõi làm nên giá trị vĩnh hằng của văn hóa cộng đồng Việt Nam,
làm nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Vì thế giỗ tổ Hùng Vương là ngày để tất cả
người Việt Tưởng nhớ, biết ơn tiền nhân đã có công sinh thành nòi giống, khai mở bờ
cõi, xây đắp non sông.
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba”
Đã là người Việt Nam. Không ai không nhớ câu nhắc nhở sự tự giác về ý thức cội
nguồn dân tộc, để mỗi con cháu Lạc Hồng, dù ở đâu, đi đâu, về đâu, trong ngày mùng
mười tháng ba hàng năm cũng phải lắng lòng nhớ ngày giỗ Tổ, nhớ tới cội nguồn. Thạc
sĩ Trần Văn Thục, Đại Học Hùng Vương cho rằng: Giỗ tổ Hùng Vương là “ hiện tượng
lịch sử độc nhất vô nhị ” mà không tìm thấy ở bất cứ nơi nào trên thế giới, chỉ có duy
nhất cả dân tộc Việt Nam có chung ngày giỗ Tổ. Điều đó cho thấy việc hướng về nguồn,
về tổ tiên người Việt mà thờ phụng là rất rõ ràng, truyền từ đời này sang đời khác. Việc
coi Hùng Vương là một ông Tổ chung đã củng cố tâm thức của các cộng đồng dân tộc –
chúng ta là người của một cội nguồn, có cùng một tổ chung, dân cả nước đều là anh em
một nhà. Ý thức dân tộc đó đã trở thành nền tảng để hội tụ tinh thần đoàn kết toàn dân,
4
tạo sức mạnh bách chiến bách thắng của dân tộc. Sức mạnh đó đã được củng cố và phát
huy trong lịch sử chống giặc ngoại xâm cũng như trong kiến thiết xây dựng đất nước khi
hòa bình.
Cùng với việc phân tích những chân lí giá trị của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt
Nam, các tác giả cũng đồng thời khẳng định về sức sống của tín ngưỡng này trong đời
sống đương đại: “ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn được các triều đại phong kiến thừa
nhận và thể chế hóa bằng pháp luật ”. Tín ngưỡng thờ cúng ông tổ dòng họ cũng đang

dược phục hồi. Các dòng họ đua nhau tu sửa từ đường, mồ mả tổ tiên, lập lại gia phả.
Nhiều dòng họ cử người ra Bắc vào Nam sưu tập tài liệu, biên soạn gia phả để lưu truyền
cho đời sau.
Từ đó, có thể nói tín ngưỡng thờ Quốc Tổ Hùng Vương nói riêng và tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên nói chung đã trở thành một trong những di sản văn hóa độc đáo của dân tộc
Việt Nam. Đó là sự kết tinh và phát triển các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống đặc
sắc, lịch sử của dân tộc Việt Nam. Những giá trị ấy góp phần bồi đắp lòng yêu nước
thương nòi, đạo lý uống nước nhớ nguồn, có trước có sau. Không gì khác, chính từ
những giá trị đó đã làm nên sức sống trường tồn của dân tộc Việt Nam trước bao biến cố
của lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.
3.2. Giá trị đạo đức:
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt trong quá trình hình thành, tồn tại và
phát triển đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức truyền thống. Xuất phát từ mối liên hệ
mật thiết, gắn bó trên cơ sở huyết thống, mà quy thành những Đạo, nghĩa cụ thể, như:
đạo, nghĩa cha – con; đạo, nghĩa vợ - chồng; đạo, nghĩa anh – em. Trong các đạo ấy thì
Đạo Hiếu để xoay quanh mối quan hệ cha – con và anh- em. Trở thành một cái đạo trung
tâm chi phối đạo đức gia đình và mang đến cho gia đình những giá trị văn hóa – đạo đức
căn bản nhất. Từ chữ hiếu đối với ông bà tổ tiên mình được mở rộng, mang thêm những
sắc thái ý nghĩa mới mang tính cộng đồng, trở thành tấm lòng của người đi sau dành cho
người đi trước, sự ngưỡng mộ đối với tiền nhân, các công thần có công với nước được
thờ trong đình làng, cho đến một đạo với ý thức thờ cúng “ người cùng một cội ”, “ cùng
một bọc trứng mà sinh ra ”. Đó là lòng hiếu thảo, lòng nhân ái, tính cộng đồng, tính cần
cù sáng tạo, lòng hiếu học, và lòng yêu nước. Đó là những giá trị hết sức quý báu cần
được bảo lưu, kế thừa, nghiên cứu, khai thác và phát huy để phục vụ cho sự nghiệp xây
5
dựng xã hội mới. Vì thế, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành một cái gì đó vĩnh hằng
cùng với sự tồn tại và phát triển của dân tộc, đẹp hơn đó là “ hiếu với dân, với nước ”.
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam trong quá trình hình thành,
tồn tại và phát triển đã góp phần tạo lập nhiều chân lí, giá trị quý báu. Bên cạnh đó, nó
còn khơi dậy đạo lí làm người, ngăn chặn suy thoái đạo đức, giữ thang giá trị, đạo đức

truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, hướng cái thiện… Và bản thân các giá trị không
phải “ nhất thành bất biến ” mà nó luôn biến đổi cùng tiến trình lịch sử. Các giá trị của
ngày hôm qua là cội nguồn mạch sống cho các giá trị của ngày hôm nay.
Niềm tin vào sự tồn tại của tổ tiên góp phần cân bằng trạng thái tâm lý, nhiều khi
còn là cứu cánh, là sự giải tỏa nỗi cô đơn, bất hạnh của con người trước cái chết. Bằng
nghi lễ thờ cúng tổ tiên, con người thể hiện một cách suy nghĩ về cái chết và cuộc sống
sau khi chết, giải tỏa nỗi kinh sợ khi phải đối mặt với nó. Đó là điều bí ẩn của thế giới
tâm linh, đặc biệt là mối liên hệ vô hình nào đó giữa những người có cùng dòng máu. Vì
thế càng ngày, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên càng có vị trí quan trọng trong đời sống tâm
linh của mỗi người dân Việt Nam. Nó là một trong những nhân tố góp phần quan trọng
để bảo tồn và duy trì nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
là một tập tục mang đậm bản sắc văn hóa của người Việt.
II. SỰ ĐỐI SÁNH TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN GIỮA HAI MIỀN
NAM BẮC :
1. Sự tương đồng tín ngưỡng thờ cúng ở hai miền Bắc- Nam:
Ở cả miền bắc và miền nam trong việc thờ cúng tổ tiên có hai ngày quan trọng nhất,
đó là ngày giỗ và ngày Tết. Ngày giỗ cúng đúng vào ngày mất (theo ngày âm lịch) của
người được thờ tự và có 3 giỗ quan trọng trong nghi lễ thờ cúng: giỗ đầu (tiểu thường),
giỗ hết (đại tường), giỗ thường (kiết kỵ).
• Giỗ đầu (tiểu tường) là ngày giỗ đầu tiên, sau thời gian người mất đúng một
năm, năm trong kỳ tang chế. Trong ngày giỗ Đầu, những người thọ tang vẫn
mặc tang phục
• Giỗ hết (đại tường) là ngày giỗ sau thời gian người mất hai năm. Trong lễ này,
người ta vẫn tổ chức trang nghiêm, những người thọ tang vẫn mặc tang phục
6
• Giỗ thường (kiết kỵ) là ngày giỗ sau thời gian người mất từ ba năm trở đi.
Trong lễ giỗ này con cháu chỉ mặc đồ thường phục, là dịp để con cháu sum họp
để tưởng nhớ người đã khuất.
Ngày tết cổ truyền của dân tộc, ngoài ý nghĩa đưa năm cũ, đón năm mới, còn là
dịp để mọi người ôn cố, tri tân và việc cúng kiến ông bà là nghi lễ hàng đầu. Không khí

Tết đến với ngôi nhà Việt bắt đầu từ việc trang hoàng bàn thờ ông bà. Những vật dụng
thờ cúng được lau chùi đánh bóng, bên cạnh đó khác với ngày thường là có thêm lọ độc
bình (hoặc song bình) cắm hoa tươi, một cành đào ở Bắc, một cành mai phổ biến ở Trung
và Nam.
.Cả hai miền đều có mâm ngũ quả. Mâm cúng ngày giỗ hay ngày Tết đều không
được đặt trực tiếp lên bàn thờ mà phải đặt trên chiếc bàn thấp hơn kê trước bàn thờ. Quá
trình nghi lễ, người làm lễ sẽ mặc áo the khăn xếp, bước lên chiếc sập trước bàn thờ để
thắp hương, đèn nến rồi đứng giữa sập, hai tay chắp giữa ngực, lên gối xuống gối lễ ba
lần, đoạn đứng nghiêm, mười ngón tay đan vào nhau và đưa lên ngang trán, miệng lầm
rầm khấn. Bài nhấn có ba phần. Mở đầu là ngày tháng năm (âm lịch), tại nhà thờ ở thôn,
xã, huyện, tỉnh tiến chủ tên gì, nhân ngày giỗ ai, thành tâm cúng tiến những gì. Phần
sau là gia chủ kính mời từ thần linh, thổ địa, táo quân đến tên họ và hiệu, nơi an táng
các vị trong gia đình theo thứ tự từ trên xuống (chỉ khấn nam và dâu họ, nữ không khấn,
trừ trường hợp chết chưa có chồng). Cuối bài khấn là những cầu xin. Khấn xong, ông
trưởng nam lễ một lễ và ba vái nữa, rồi rót rượu cúng. Một số họ lớn, khi giỗ tổ họ, tổ
chức dâng hương tế tổ và thay bài khấn bằng một bài văn tế, ông trưởng lễ xong thì đọc
bài văn tế, rồi đem ra sân đốt như đốt sớ ở đình chùa. Khi khấn xong, những người đến
dự giỗ lần lượt già trước, trẻ sau vào lễ, người nào cũng đem một ít hoa, quả hoặc vàng
hương, trầu rượu đặt lên bàn thờ rồi lễ, mỗi người ba lễ một bái, nam thì lễ như ông
trưởng, nữ thì ngồi vào góc sập, chắp hai tay trước ngực, khi cúi thì giáp mặt tận chiếu,
hai bàn tay xòe ra đặt hai bên đầu. Những bà gia đình có đại tang (bố mẹ hoặc chồng mới
chết) phải lật một phần chiếu, ngồi xuống mặt sập, hai tay lật ngửa vòng khăn trắng quấn
tóc mà lễ.
2. Nguyên nhân của sự tương đồng về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
Việt Nam là nước có nền văn hóa lâu đời , rất phong phú và đặc sắc mang đậm
bản sắc dân tộc. Một trong những bản sắc đẹp ấy là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đây là
7
một tín ngưỡng đã có từ rất lâu đời và được nhân dân ta kế thừa và phát huy cho đến
ngày nay, thể hiện chữ hiếu chữ nghĩa dành cho ông bà tổ tiên người đã sinh ra ta . Dù
mỗi miền có cách thờ cúng tổ tiên riêng nhưng nhìn chung ở 2 miền Bắc-Nam đều có

những điểm tương đồng nhất định .
Sự tương đồng đó bắt nguồn từ nước ta là nước nông nghiệp và phát triển nông
nghiệp, với 2 đồng bằng phù sa màu mỡ ở 2 miền tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
nông nghiệp, các sản phẩm nông nghiệp để dâng cúng ông bà tổ tiên ở 2 miền cũng tựa
nhau.
Bên cạnh đó do sự di dân trong các cuộc chiến tranh, thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ đã thực hiện chính sách chia để trị . Khi di dân, thì người dân ở bản địa sẽ mang theo
mình những nét văn hóa riêng , cũng như việc thờ cúng tổ tiên là việc thiêng liêng mà ai
cũng đều thực hiện. Vậy nên, việc thờ cúng đó sẽ chịu một phần ảnh hưởng của môi
trường hiện tại đang sống .
Sự giao thoa giữa 2 miền Bắc-Nam làm cho các nền văn hóa cũng có sự giao thoa
với nhau, học hỏi lẫn nhau, và bổ sung lẫn nhau tạo nên một số nét tương đồng trong việc
thờ cúng tổ tiên.
Và sự giao lưu và tiếp biến văn hóa các nước phương Đông , phương Tây trong
cuộc khai thác thuộc địa ở nước ta, nhân dân ta học hỏi một cách có chọn lọc làm cho
nền văn hóa Việt Nam trở nên đa dạng và có sự tương đồng giữa 2 miền , và một khác
biệt hay tương đồng cũng làm cho nền văn hóa nước ta thêm đa dạng và phong phú hơn
3. Sự khác biệt tín ngưỡng thờ cúng ở hai miền Bắc- Nam :
• Mâm cỗ :
Vào ngày Tết ở miền Bắc thường thấy có 5 loại quả có 5 màu khác nhau như:
chuối xanh, bưởi vàng, hồng đỏ, lê trắng, quýt da cam tượng trưng cho mong ước : phú
( giàu có ) – quý ( sang trọng ) – thọ ( sống lâu ) – khang ( khỏe mạnh ) – ninh ( bình
yên ). Người miền Nam quan niệm mâm ngủ là cầu vừa đủ xài nên mâm ngũ quả của họ
thường có các loại quả như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, mận. Mâm ngũ quả có ý nghĩa
nói lên lòng mong ước của ngưởi dâng cúng để ông bà được tỏ tường mà phù hộ. Trên
bàn thờ ngày Tết ở miền Nam còn trung cặp dưa hấu, loại dưa tròn, lớn, trái có dán chữ ‘
thọ ’( bằng Hán tự ) viết bằng nhũ vàng trên giấy đỏ, nói lên mong ước cho ông bà cha
mẹ còn đang sống được trường thọ, hay chữ “phúc” để cầu phúc cho gia đình dòng họ.
8
Vào ngày cúng giỗ, miền bắc có hai loại cỗ tùy hoàn cảnh gia đình mà chọn: làm

cỗ bình thường (gọi là cỗ “bàn than”): chỉ có mấy món chế biến từ thịt lợn: luộc, rang,
lòng, có thể thêm đĩa giò, làm cỗ to (gọi là cỗ “đồ Tàu”) có những món cầu kỳ hơn,
thường mỗi mâm có có tám bát và tám đĩa: giò, nem, ninh, mọc, nấm, bóng Có gia đình
khá giả làm cả bò, lơn, gà (hoặc dê) gọi là cỗ “tam sinh”.Những giỗ làm theo phạm vi
rộng thường 30 mâm, có nhà tới hàng trăm mâm, trong phạm vi hẹp độ 5- 10 mâm (mỗi
mâm 6 người). Cỗ truyền thống của người miền bắc:
- Một con cua và một quả trứng bày chung trên một đĩa
- Xôi vò, chè đường
- Bánh dầy đậu
- Cơm trắng
- Xôi gấc (ăn kèm với giò, chả)
- Giò lụa hay giò bò thì là
- Giò thủ, Giò bì
- Chả quế
- Thịt quay
- Bê thui (chấm tương gừng)
- Thịt kho tàu
- Chả giò cua bể + bún
- Gà quay hay gà luộc (chặt miếng, sắp vào một chiếc đĩa sâu, những miếng đẹp
và có da thì nằm sát đáy đĩa, rồi úp ngược đĩa gà này vào một chiếc đĩa trảng
khác, cho ngon mắt)
- Chân giò (giò heo) hầm măng khô, mộc nhĩ
- Thịt đông, dưa chua (nếu cúng giỗ vào mùa lạnh)
- Nem dê (làm bằng thịt bò nhưng gọi là nem dê)
- Tôm sú hay tôm càng rim
- Tôm thịt xào nấm đông cô, đậu ve, cà rốt, su hào
- Lươn om với bắp chuối bào
- Nộm măng (+ tôm, thịt, khế thái dọc, mè rang)
- Miến xào lòng gà (+ mộc nhĩ)
- Món bóng cá nhồi giò sống hay bóng lợn (canh bóng, nấu với rau củ, nấm, mộc

nhĩ)
- Xà lách búp, cà chua, dưa deo (chấm nước tôm rim)
Trước ngày giỗ độ 10 ngày, ông trưởng (con trai đầu) mời tất cả con trai, con gái của
người mất đến họ để thống nhất cách làm giỗ và phân công mỗi người một nhiệm vụ;
người mua thực phẩm, người mượn bát đũa, mâm nồi, người dựng rạp. Các người con tự
nguyện đóng góp, tùy khả năng và tùy tâm, không bổ bán, không chia đều.
9
Người miền nam thì thỏa mái hơn miền bắc. Nghi thức tổ chức của người dân
miền nam cũng tương tự như miền bắc và nó chỉ khác nhau trong mâm ngũ quả. Còn về
bình hoa: Thường thờ 1 lọ để cắm hoa vào ngày mùng 1 và rằm, ngày thường để không,
nên xưa gọi là Độc bình. Nay người hiện đại mua 2 lọ thờ đối xứng là không đúng, 02 lọ
mua chỉ để chơi trong nhà không được đặt lên bàn thờ. Lọ lộc bình thường đặt bên tay
trái – hướng đông – theo quan niệm: đông bình tây quả.Khay cốc đựng nước thờ: nước
thanh tịnh được thay vào mỗi lần thắp hương: nén nhang chén nước.
Dịp cúng giỗ tổ tiên tùy hoàn cảnh mà có bốn món : Hầm, Thịt luộc, Xào, Kho.
Người dân hiểu rằng không chỉ là dâng cúng cho cha mẹ đã quá cố mà còn là cho tổ tiên
đời ông cố của gia chủ, hiểu ngầm rằng những bà con xa gần thời xa xưa cũng được tham
dự. Vì vậy, nếu cúng 3 mâm ở 3 bàn thờ (giữa, bên trái, bên mặt), hoặc 1 bàn thờ, thì
thức ăn phải giống nhau. Món hầm, tức là thịt heo hầm, thường là giò heo hầm măng tre
Mạnh Tông, loại măng ngon nhất của Nam Bộ . Món thịt luộc là thịt ba chỉ, xắt mỏng.
Xào là món thịt bị câu thúc về hình thức: xào chua, xào mặn, với rau cải đồ lòng, hoặc
tôm, gần như tuyệt đối không dùng thịt rừng. Món kho thường là thịt heo, cá lóc, kho với
nước dừa để gợi phong vị miền Nam. Ở miền quê, ngày xưa bày đám giỗ linh đình với
quá nhiều món khác nhau, lắm khi ăn không hết đủ món, nhưng cơ bản phải đủ 4 món cổ
truyền như trên, có thể gọi là nghi thức thống nhất cả nước. Nhiều món phụ, có thể dọn
chung với 4 món chính như rau, bì cuốn, nem chua. Ngoài ra còn để dành ở một bàn
riêng, không cúng trên bàn thờ vốn đã chật chội, chờ khi đãi khách sẽ dọn ra như thịt bò
xào, bánh mì cà-ri, chả giò Thời xưa ông bà ta không có kiểu ăn tráng miệng như
người Tây Phương, vả lại trái cây đã được chưng sẵn từ trước trên bàn thờ rồi.
• Cách bày trí bàn thờ :

Người miền Bắc nhà nào cũng có một bàn thờ gia tiên. Trang trí bàn thờ là cách để
con cháu bày tỏ lòng yêu kính và tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên.Bàn thờ là nơi ngự vị của
các bậc tiền nhân trong gia đình, vì thế nó thường được đặt ở vị trí trung tâm và cao nhất
trong nhà Nhà nghèo thì bàn thờ là một tấm gỗ sơn đỏ nối hai cột chính với hai cột sau.
Trên tường chính giữa dán một vuông giấy đỏ có viết một chữ Hán to "Phúc" hoặc
"Thần". Trên tấm gỗ, đặt ba bát hương, bát giữa kê cao hơn thờ thần linh, bát bên phải
thờ gia tiên và bát bên trái thờ các "bà cô, ông mãnh" - những người chết chưa vợ, chưa
chồng và được gia đình coi là linh thiêng. Hai góc trước của bàn thờ có hai cây nến tiện
bằng gỗ.Nhà khá hơn thì bàn thờ là một án thư có trang trí hoa văn, sơn son hoặc sơn
10
then (đen), đèn nến bằng gỗ tiện sơn son. Nhà giàu thì chạm trổ "tứ linh" (bốn con vật
thiêng: long (rồng), ly (kỳ lân), quy (rùa), phượng (chim phượng hoàng); mặt trước án
thư là một tấm gỗ quý chạm "mai long" (cây hoa mai uốn hình rồng) hoặc chữ "ngũ
long" (năm con rồng quây thành một vòng tròn), tất cả đều bằng sơn son thếp vàng. Trên
án thư có bộ "tam sự" bằng đồng, có nhà còn thêm bộ đài rượu bằng gỗ sơn son hoặc
bằng đồng (gồm ba khối hình ống, đáy cao, có nắp đậy, trên mỗi đáy đặt một chiếc chén
hạt mít, khi cúng cơm, gia chủ mở nắp, rót vào chén). Có nhà thêm ống cắm hương chưa
thắp, mâm bồng để bày hoa quả Việc lau dọn sạch sẽ bàn thờ là công việc trước tiên và
được thực hiện một cách cẩn thận, tỉ mỉ. Chổi quét hoặc khăn lau bàn thờ thường được
dùng riêng, và rất hạn chế sự chung đụng. Nước lau bàn thờ thường được dùng từ nguồn
nước sạch sẽ, có người còn dùng nước mưa thậm chí nước nấu từ lá trầu, lá bồ đề để lau.
Nếu là những gia đình khá giả, trước di ảnh còn có đỉnh đồng để đốt trầm vào mỗi dịp
cúng kiến, đỉnh đồng thường được chạm khắc long, lân, mai, trúc. Hai bên bát nhang
phía trước là đôi chân đèn để thắp nến, có ý nghĩa tượng trưng cho đôi vầng nhật nguyệt,
cũng để nói lên người đã chết nhưng linh hồn của họ thì không bao giờ tắt. Ở miền Bắc
đôi khi thấy ở vị trí đôi chân đèn là hai ngọn đèn dầu. Tường sau bàn thờ nhà khá giả là
hoành phi, liễn đối xứng bằng Hán tự sơn son thếp vàng, có nội dung nói lên công đức
của những người đã khuất. Ở gia đình bình dân, đó là tranh thờ, thường là trang dân gian
vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư, cá chép vượt vũ môn hay các chữ như Phúc, Lộc, Thọ ( đều
bằng Hán tự ).

Bàn thờ tổ tiên ngày tết
11
Hiện nay, ở Hà Nội, thích nghi với điều kiện ăn ở không mấy rộng rãi, bàn thờ
thường đặt trên một cái giá cao đóng vào tường hoặc đặt trên hai con sơn, thậm chí đặt
trên nóc tủ, song nhất thiết phải có bát hương, chén trà, lọ hoa, và thay cho khán thờ, ngai
thờ, thần chủ, bài vị… là tấm ảnh của ông bà hoặc cha mẹ đã quá có. Chỉ khoảng chục
năm gần đây một số người giàu vọt lên, xây nhà cao cửa rộng, họ thường để tầng trên
cùng sát mái làm gian buồng thờ và ở đó bày biện tương đối theo tục lệ cũ.
Việc bày biện hay thắp hương (nhang) trên bàn thờ ở miền bắc còn phân biệt nam
nữ, tuổi tác .Cũng có nhiều gia đình họ không chỉ phân biệt nam nữ mà họ còn phân biệt
giữa những người không có con trai sẽ không được thờ cúng tổ tiên. Trên bàn thờ tổ tiên,
ở chính giữa đặt bát hương (tượng trưng cho tinh tú) và trên bát hương có cây trụ để cắm
hương vòng (tượng trưng cho trục vũ trụ), hai bát hương khác đặt ở bên trái và bên phải
tạo nên tư thế tam tài; ở hai góc ngoài bao giờ cũng có hai cây đèn dầu (hoặc nến) tượng
trưng cho mặt trời bên trái và mặt trăng ở bên phải. Khi cần giao tiếp với tổ tiên (có lúc
thỉnh cầu, có lúc sám hối… người ta thường đốt nến (đèn dầu) và thắp hương. Mọi
nguyện cầu theo các vòng khói hương chuyển đến ông bà tổ tiên.
Lễ vật dâng cúng thường bao gồm vài bộ quần áo, giấy tiền vàng mã cho các cụ,
một vài cái chung (ly nhỏ, thấp) và một bình trà; đĩa hoa quả lớn đặt ở trung tâm bàn thờ,
một bình hoa lớn và một bình rượu ngon. Xung quanh, ta có bày thêm bánh mứt cho cân
đối và đẹp mắt.
Hoa để thờ cũng có nhiều loại, ví dụ hoa tươi hay hoa làm bằng giấy bạc (một bạc,
một vàng biểu tượng cho một âm một dương, âm dương giao hòa) để có thể dùng được
lâu. Đối với hoa tươi, người Việt Nam thường sử dụng hoa cúc, hoa huệ, hoa lay ơn, hoa
đào cúng gia tiên … Việc bày mâm ngũ quả xuất phát từ lý thuyết về ngũ hành: thuỷ –
hỏa – mộc – kim – thổ những yếu tố tạo nên vũ trụ và sự vận hành của nó. Thông thường
ngũ quả gồm 5 loại quả có các màu khác nhau như chuối xanh, bưởi vàng, hồng đỏ, lê
trắng, quýt da cam tượng trưng cho mong ước: Phú (giàu có) – quý (sang trọng) – thọ
(sống lâu) – khang (khỏe mạnh) – ninh (bình yên).
Trong khi đó, người miền Bắc hướng đến ý nghĩa biểu trưng nhiều hơn, quả phật

thủ hay nải chuối như bàn tay che chở của đức phật cho tất cả mọi người; quả bưởi, dưa
hấu thể hiện cho sự đầy đặn, trọn vẹn căng đầy sức sống; màu sắc thắm tươi của quýt,
hồng tượng trưng cho sự may mắn, phồn thịnh cát tường. Ngoài ra, trước khi người chủ
12
trì thờ tự cùng con cháu dâng hương, thường thấy ngoài Bắc còn đặt lên bàn thờ ba ly
nước, trong Nam là 2 ly rượu, một ly nước, có ý nghĩa tượng trưng cho sự tranh khiết của
trời đất và tinh hoa của mùa màng. Cũng có một chút khác nhau giữa hai miền là ngoài
Bắc người thờ tự tổ tiên là con trai trưởng còn miền Nam là con trai út.
Đối với người miền Nam việc bài trí các vật dụng trên bàn thờ cũng được sắp đặt
theo một khuôn mẫu nhất định. Trên mỗi bàn thờ của người dân Nam bộ thường có đầy
đủ “ngũ sự” gồm: Lư hương, hai chân đèn, lục bình cắm hoa và một ống bằng gỗ hoặc
đồng dùng đựng nhang. Lư dùng đốt (xông) trầm hương mà bà con quen gọi là lư hương,
phần lớn được đúc bằng đồng, số ít được chạm khắc bằng đá hay gỗ quý, được đặt ngay
trung tâm của bàn thờ. Lư hương được đặt vững chãi, không xéo, không nghiêng, chênh
lệch… bởi đó là điều tối kỵ. Hình dáng của lư hương cũng rất đa dạng, phổ biến là lư
đồng mắt cua, lư mắt tre, trong Nam lại có loại lư mà bà con quen gọi là lư hương trái
bần (do giống hình dáng của trái bần). Tuy nhiên, do trầm hương là thứ đắt tiền, gia đình
khá giả mới có khả năng mua còn phần đông những gia đình xưa thường chỉ trưng bày lư
hương cho đẹp chứ rất hiếm xông hương. Bà con thay vào đó là hai cái vùa hương để
cắm nhang. Hai bên lư hương là hai chân đèn mà theo nhà văn Sơn Nam là tượng trưng
cho âm – dương cân xứng, giao hòa. Người xưa rất chú trọng đến khoảng cách giữa hai
chân đèn và lư hương phải thật đều nhau. Một bên phía trong chân đèn là cái bình dùng
cắm hoa tươi. Tuy nhiên, do một số vùng quê rất khó kiếm được hoa tươi nên bà con
thường trưng vài nhánh trường sinh (một loài cây thủy sinh) vừa tiện lợi mà lại ý nghĩa.
Một bên bàn thờ là một ống cây, thường là ống tre dùng để đựng nhang. Có một vật
ngoài “ngũ sự” nhưng lại rất quan trọng trên mỗi bàn thờ đó chính là cây đèn dầu hột vịt
(ống khói chắn gió có hình quả trứng vịt), vặn lửa nhỏ “liu riu” (còn gọi là chong đèn),
vừa để tiện đốt nhang và cũng để giữ lửa. Trên bàn thờ thường có dĩa trái cây, người
Nam bộ quan niệm dĩa trái cây này không cần đắt tiền, hoa mỹ mà chỉ là cây nhà lá
vườn, “sản vật” của gia đình dâng lên ông bà. Bàn thờ luôn được trang hoàng, lau chùi

dọn dẹp thường xuyên. Lọ đựng hương: đặt bên phải bàn thờ, làm bằng gốm… Tùy theo
kinh tế của gia chủ mà có những vật thờ khác nhau nhưng nhất thiết trên ban thờ phải
đảm bảo 05 yếu tố: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Đỉnh đồng, đôi hạc, giá nến đồng,
tượng trưng cho Kim. Bàn thờ, ngai hay bài vị tượng trưng cho Mộc. Rượu, chai nước,
chén nước thờ tượng trưng cho Thủy. Ngọn đèn dầu hoặc nến thờ trên ban thờ và là
13
hương khi thắp lên tượng trưng cho Hỏa. Còn bát hương làm từ đất sét nung lên, hay
sành sứ có nghĩa là Thổ.
Cách bày trí bàn thờ của người miền Nam
3. Nguyên nhân của sự khác biệt về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
Trên mảnh đất hình chữ S này, đi từ vùng này sang vùng khác đều có sự khác biệt
nhất định trong suy nghĩ, văn hóa, phong cách sống, tập quán… Và sự khác biệt ấy càng
rõ nét hơn ở hai miền Nam- Bắc.
Tại miền Nam, nền văn hóa phương Tây đã vào theo cùng với bước chân thực dân
Pháp.Nên văn hóa có sự giao thoa và ảnh hưởng lớn của nền văn minh phương Tây, con
người miền Nam cũng dần đồng hóa những nếp văn hóa xưa cũ thành đơn giản, hiện đại
hơn. Họ thay những cái phức tạp thành cái đơn giản, và trong phong tục thờ cúng tổ tiên
cũng như vậy.
Trong khi miền Bắc không chịu ảnh hưởng nhiều của phương Tây, mà lại mang ảnh
hưởng nhiều của văn hóa Trung Hoa, những hình thức cúng tế được xây dựng lâu đời, từ
thuở ngàn năm Bắc thuộc có ảnh hưởng lớn đến phong tục thờ cúng của miền Bắc.
Mặt khác cũng thế nói, nguồn gốc của những sự khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của hai miền Nam – Bắc cũng hình thành nên do tác động của sự khác biệt điều kiện
địa lý giữa hai miền. Chính sự tác động của khí hậu làm cho những thực phẩm đặc trưng
của hai miền có sự khác biệt, làm cho mâm cỗ cúng cũng có khác nhau giữa hai miền.
14
C. KẾT LUẬN:
Trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, nền văn hóa Việt đã chứng kiến bao sự đổi
thay mạnh mẽ trong quá trình giao lưu và tiếp nhận các nền văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng
từ bên ngoài. Nhưng trong quá trình “ nội sinh hóa các yếu tố ngoại sinh” ấy, người dân

Việt Nam vẫn gìn giữ được những nét văn hóa độc đáo, riêng có, điển hình chính là tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc.
Có thể nói, thờ cúng tổ tiên là một phong tục truyền thống của dân tộc, dù đó
không phải là điều bắt buộc song đó lại là thứ "luật bất thành vǎn" của người Việt tồn tại
qua bao thế hệ. Thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của người dân Việt.
Với nội dung bình dị, giàu tính thực tiễn, không cực đoan như nhiều tôn giáo khác
nên tục thờ cúng tổ tiên đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc
làm người, mang ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng trong xã hội truyền thống, củng
cố khối đoàn kết cộng đồng. Thờ cúng tổ tiên, ông bà đã trở thành tín ngưỡng gốc xuyên
suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó là sợi dây liên kết để góp phần cột chặt tính thống
nhất toàn dân tộc và cũng là cội nguồn của các phong tục, tín ngưỡng khác.
Từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chính là sự kết tinh và phát triển các giá trị đạo đức,
văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam.Những giá trị ấy góp phần bồi đắp
lòng yêu nước thương nòi, đạo lý uống nước nhớ nguồn, có trước có sau; xây dựng đời
sống tinh thần phong phú trong thời đại mới.Không gì khác, chính từ những giá trị đó đã
làm nên sức sống trường tồn của dân tộc Việt Nam trước bao biến cố của lịch sử mấy
ngàn năm dựng nước và giữ nước.
15
NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN :
1. Phạm Thị Thu Huyền
2. Huỳnh Thị Phương Kiều
3. Mai Thị Hồng Lạt
4. Nguyễn Thị Ngọc Linh
5. Nguyễn Thị Ánh Ly
6. Võ Trần Mỹ Hương
7. Mai Thị Phương Mai
8. Thúy Mỹ
9. Phạm Thị Kiều Oanh
10.Vũ Thị Quỳnh Nga
16

TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Tài liệu bài giảng “các tôn giáo ở Việt Nam” của cô Lê Thị Thu Hiền
2. Tài liệu “Thuần phong mỹ tục Việt Nam” _ Sơn Nam, NXB Đồng Tháp, 1994.
3. Từ điển bách khoa mở Wiki
4. Tạp chí nghiên cứu Văn hóa ( Trường ĐH Văn Hóa Hà Nội ) huc.edu.vn
5. Website />6. Website www.vanhoahoc.vn
7. Website />8. Website www.chungta.com
17

×