Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

thực hiện tiêu bản mô động vật: thực quản, ruột non, ruột già, gan, dạ dày tuyến và dạ dày cơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 51 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y





TRƯƠNG THỊ THANH MAI




THỰC HIỆN TIÊU BẢN MÔ ĐỘNG VẬT:
THỰC QUẢN, RUỘT NON, RUỘT GIÀ,
GAN, DẠ DÀY TUYẾN VÀ DẠ DÀY CƠ




Luận văn tốt nghiệp
Ngành: THÚ Y










Cần Thơ, 2013



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y




Luận văn tốt nghiệp
Ngành: THÚ Y




THỰC HIỆN TIÊU BẢN MÔ ĐỘNG VẬT:
THỰC QUẢN, RUỘT NON, RUỘT GIÀ,
GAN, DẠ DÀY TUYẾN VÀ DẠ DÀY CƠ






Cán bộ hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. LÊ HOÀNG SĨ TRƯƠNG THỊ THANH MAI
MSSV: 3092625

Lớp: Thú Y K35








Cần Thơ, 2013

i
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
Đề tài: “Thực hiện tiêu bản mô động vật: thực quản, ruột non, ruột
già, gan, dạ dày tuyến và dạ dày cơ”.
Sinh viên thực hiện: Trương Thị Thanh Mai, lớp Thú Y K35.
Địa điểm: phòng thí nghiệm Mô Động Vật, Bộ môn Thú Y, khoa Nông
Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, trường Đại học Cần Thơ.
Thời gian thực hiện: từ tháng 9 năm 2013 đến tháng 11 năm 2013.



Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2013 Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2013
Duyệt Bộ Môn Duyệt Cán Bộ Hướng Dẫn



Lê Hoàng Sĩ


Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2013
Duyệt Khoa Nông Nghiệp & SHƯD






ii
LỜI CẢM TẠ
Qua những năm tháng học tập, ngoài sự phấn đấu của bản thân tôi luôn
nhận được sự động viên giúp đỡ của mọi người, giờ đây tôi đã hoàn thành luận
văn tốt nghiệp. Tôi xin:
Thành kính biết ơn!
Cha mẹ - người đã sinh thành, dưỡng dục, không quản ngại khó khăn nuôi
tôi khôn lớn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cũng như động viên tôi trong suốt thời
gian qua.
Xin chân thành biết ơn!
Thầy Lê Hoàng Sĩ và thầy Trần Hiền Nhơn đã dành thời gian quý báu, tận
tình dìu dắt, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm luận văn tốt nghiệp.
Cô Nguyễn Thu Tâm, cố vấn học tập đã luôn nhắc nhở và động viên tôi
trong suốt thời gian học tập tại trường.
Quý Thầy, Cô Bộ môn Thú Y và Bộ môn Chăn Nuôi đã tận tình truyền đạt
những kiến thức và kinh nghiệm vô cùng quý báu với tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Tất cả bạn bè lớp Thú Y khóa 35 đã luôn bên tôi suốt những năm tháng
trên giảng đường Đại học.
Cuối cùng, tôi xin nói lời cảm ơn đến Hội Đồng đã dành thời gian đọc và
xem xét đề tài tốt nghiệp này.


Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2013
Trương Thị Thanh Mai


iii
MỤC LỤC
Trang duyệt i
Lời cảm tạ ii
Mục lục iii
Danh mục hình v
Tóm lược vi
Chương 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN 2
2.1 Tổng quan về phương pháp thực hiện tiêu bản hiển vi 2
2.2 Cấu tạo vi thể chung của ống tiêu hóa 7
2.3 Cấu tạo vi thể thực quản, ruột non, ruột già và gan thỏ 8
2.3.1 Thực quản (Esophagus) 8
2.3.2 Ruột non (Small intestine) 9
2.3.3 Ruột già (Large intestine) 11
2.3.4 Gan (Liver) 11
2.4 Cấu tạo vi thể dạ dày của gia cầm và thủy cầm 14
2.4.1 Dạ dày tuyến (Proventriulus or Glandular Stomach) 14
2.4.2 Dạ dày cơ (Gizzard of Muscular Stomach) 15
Chương 3 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
3.1 Phương Pháp 16
3.1.1 Địa điểm thực hiện 16
3.1.2 Dụng cụ, trang thiết bị, hóa chất 16
3.2 Phương Pháp Tiến Hành 16
3.2.1 Lấy mẫu 16

3.2.2 Cố định mẫu 16
3.2.3 Lấy mẫu nhỏ 17
3.2.4 Rửa mẫu 17
3.2.5 Khử nước 18
3.2.6 Tẩm dung môi trung gian 18
3.2.7 Tẩm paraffin 18
3.2.8 Đúc khuôn. 19
iv
3.2.9 Cắt mẫu 20
3.2.10 Tải và hấp mẫu 21
3.2.11 Nhuộm mẫu 22
3.2.12 Dán lamelle và dán nhãn 23
3.3 Tiêu chuẩn đánh giá tiêu bản 24
Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 25
4.1 Thực quản 26
4.2 Ruột non 28
4.3 Ruột già 29
4.4 Gan 32
4.5 Dạ dày tuyến 34
4.6 Dạ dày cơ 35
4.7 Ưu điểm và khuyết điểm 37
4.7.1 Ưu điểm 37
4.7.2 Khuyết điểm 37
4.7.3 Khắc phục 37
Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 39
5.1 Kết luận 39
5.2. Đề nghị 39
Tài liệu tham khảo 40
Phụ chương 41


v
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Khuôn Leuckart 20
Hình 2. Máy cắt vi mẫu 20
Hình 3. Sơ đồ quy trình nhuộm mẫu 22
Hình 4. Tiêu bản vi thể của thực quản (X10) 25
Hình 5. Tiêu bản vi thể của thực quản (X40) 26
Hình 6. Tiêu bản vi thể của tá tràng (X10) 27
Hình 7. Tiêu bản vi thể của không-hồi tràng (X10) 28
Hình 8. Tiêu bản vi thể của không-hồi tràng (X40) 28
Hình 9. Tiêu bản vi thể của tá tràng (X40) 29
Hình 10. Tiêu bản vi thể của ruột già (X10) 30
Hình 11. Tiêu bản vi thể của ruột già (X40) 31
Hình 12. Tiêu bản vi thể của gan (X10) 31
Hình 13. Tiêu bản vi thể của gan (X40) 32
Hình 14. Tiêu bản vi thể của gan (X40) 32
Hình 15. Tiêu bản vi thể của dạ dày tuyến (X4) 33
Hình 16. Tiêu bản vi thể của dạ dày tuyến (X10) 34
Hình 17. Tiêu bản vi thể của dạ dày tuyến (X40) 34
Hình 18. Tiêu bản vi thể của dạ dày cơ (X10) 35
Hình 19. Tiêu bản vi thể của dạ dày cơ (X40) 36







vi
TÓM LƯỢC

Với đề tài “thực hiện tiêu bản mô động vật: thực quản, ruột non, ruột già,
gan, dạ dày tuyến và dạ dày cơ” nhằm tạo ra tiêu bản vi thể. Những tiêu bản vi
thể này có thể quan sát được ở mức tế bào. Trong thời gian thực hiện từ tháng 9
đến tháng 11 năm 2013, tại phòng thí nghiệm mô động vật, khoa Nông Nghiệp &
SHƯD, Đại học Cần Thơ, tôi đã thực hiện được 328 lame chọn ra 244 lame tiêu
bản hoàn chỉnh. Trong đó có 31 tiêu bản thực quản, 42 tiêu bản ruột già, 42 tiêu
bản ruột non, 55 tiêu bản gan, 44 tiêu bản dạ dày tuyến và 30 tiêu bản dạ dày cơ.
Qua đó, tôi nắm được quy trình thực hiện và rút ra được một số đặc điểm riêng
của từng mẫu so với quy trình chung. Tìm ra thứ tự thời gian cố định mẫu thích
hợp cho từng loại tổ chức như sau: gan, thực quản, dạ dày tuyến thời gian cố định
mẫu trong 24 giờ; ruột già, ruột non, dạ dày cơ thời gian cố định mẫu lâu hơn
khoảng 36-48 giờ.
1
Chương 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh vật có thể hoạt động một cách linh hoạt là nhờ sự phối hợp nhịp
nhàng của các hệ cơ quan trong cơ thể. Trong đó, mỗi hệ cơ quan trong cơ thể có
cấu tạo và chức năng khác nhau nên mỗi cơ quan có cấu trúc khác nhau.
Trong ngành Y nói chung cũng như ngành Thú Y nói riêng việc tìm hiểu
mức độ gây hại bên trong cũng như những sinh lý bất thường trong cơ thể thì
việc nghiên cứu ở mức độ cấp tế bào là rất quan trọng. Để nghiên cứu sự bất
thường của mô bệnh thì trước tiên phải nắm rõ được cấu trúc của mô bình
thường.
Xuất phát từ những lý do trên và được sự phân công của bộ môn Thú Y,
khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, trường Đại học Cần Thơ, tôi tiến
hành thực hiện đề tài: “Thực hiện tiêu bản mô động vật: thực quản, ruột non,
ruột già, gan, dạ dày tuyến và dạ dày cơ”.
Mục tiêu đề tài nhằm:
 Đọc và mô tả về mặt tổ chức học các tiêu bản đã thực hiện bao gồm: thực
quản, ruột non, ruột già, gan trên ống tiêu hóa thỏ và dạ dày tuyến, dạ dày cơ của

vịt.
 Thực hiện những tiêu bản hiển vi có chất lượng phục vụ cho học tập, giảng
dạy và nghiên cứu.










2
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Tổng quan về phương pháp thực hiện tiêu bản hiển vi
Muốn nghiên cứu về cấu trúc của tế bào và mô thì kính hiển vi không thể
thiếu. Muốn sử dụng kính hiển vi thì ta phải có những tiêu bản (thiết đồ hoặc
phiến đồ) có độ dày thích hợp cho phép quan sát dưới kính hiển vi.
Có nhiều phương pháp làm tiêu bản để nghiên cứu trong đó phương pháp
làm tiêu bản hiển vi cố định và nhuộm màu là phương pháp phổ biến dùng trong
xét nghiệm mẫu bệnh so với mẫu đối chứng.
Phương pháp làm tiêu bản cố định và nhuộm màu
Thực hiện tiêu bản hiển vi cố định bằng phương pháp tiêu bản cắt lát và
nhuộm kép bằng Hematoxylin và Eosin Y. Phương pháp này nhằm tạo được
những mảnh cắt mỏng, trong suốt của mô ở cơ quan, cho phép quan sát được
dưới kính hiển vi. Thêm vào đó tiêu bản sẽ được nhuộm bằng các thuốc nhuộm
đặc hiệu, các phần của tiêu bản có màu khác nhau giúp cho việc quan sát dễ dàng.
Tiêu bản hiển vi cố định thực hiện theo phương pháp này phải qua nhiều

giai đoạn. Phải thực hiện tốt tất cả các giai đoạn mới đảm bảo thu được tiêu bản
có chất lượng, nếu một trong những giai đoạn nào đó thực hiện không tốt thì tiêu
bản thu được sẽ không đạt chất lượng.
Tóm lược quy trình thực hiện như sau:
 Lấy mẫu
Trong phương pháp này, lấy mẫu là bước đầu tiên có mục đích là lấy tế
bào, mô của cơ quan ở cơ thể sống hay đã chết. Bước lấy mẫu này có ý nghĩa rất
to lớn. Vì vậy khi thực hiện phải hết sức tuân thủ một số quy tắc sau:
- Mẫu phải tươi.
- Động tác lấy mẫu phải nhẹ nhàng, tránh gây những biến đổi do tác nhân
cơ học.
- Không dùng kẹp phẫu tích kẹp vào vùng cần nghiên cứu, không bóp
mạnh, không rửa mẫu.
- Khi cắt phải dùng dao sắc và cắt theo một hướng (đối với những mẫu
lớn).
3
- Khi cắt xong phải cố định ngay để tránh hiện tượng hoại tử sau khi chết
của tế bào (Phạm Phan Địch và Trịnh Bình, 1998).
 Cố định mẫu
Mô được gọi là cố định tốt khi tế bào cấu tạo nên mô vẫn giữ nguyên hình
dáng, đồng thời vẫn giữ được mối liên quan tương hỗ trong tế bào và trong mô
giống như khi còn sống.
Dung dịch cố định có tác dụng ngăn cản sự hoại tử sau khi tế bào đã chết,
dung dịch cố định tốt là dung dịch có tác dụng nhanh mà ít gây sự thay đổi cấu
trúc (Phạm Phan Địch và Trịnh Bình, 1998).
Mẫu sau khi lấy phải cố định ngay để tránh tình trạng bị thoái hóa, hoại tử
hay biến dạng do một số phản ứng sinh hóa của những enzyme nội bào hay điều
kiện bên ngoài tự nhiên tác động như vi sinh vật. Có nhiều cách cố định mẫu: tác
nhân vật lý (sức nóng, làm khô, đóng băng,…), tác nhân hóa học (formol, acid
acetic, rượu,…).

Một số loại thuốc cố định:
- Thuốc cố định khoáng chất: acid osmic, acid chromic (CrO
3
) và các
thuốc cố định muối khoáng.
- Thuốc cố định hữu cơ: bao gồm các acid hữu cơ như acid acetic, acid
piric và các chất khử oxy như: methylic, ethylic, formaldehyde.
- Các dung dịch cố định hỗn hợp: dung dịch Bouin, dung dịch Duboscq-
Brasil, dung dịch Carnoy, dung dịch Branca…
Việc chọn thuốc cố định và phương pháp cố định phụ thuộc vào bản chất
mô cần cố định, mục đích cần nghiên cứu, tính chất thuốc cố định.
Thời gian cố định phụ thuộc vào từng loại mô và từng loại thuốc cố định
trên nguyên tắc kéo dài thời gian cố định tốt hơn là rút ngắn (trừ một số thuốc làm
giòn mô).
Nguyên tắc cố định mẫu
- Mẫu phải được cố định ngay sau khi lấy
- Không được làm dập, nát mẫu
- Mẫu không được cắt quá dài
4
- Dung dịch dung để cố định phải đạt đúng nồng độ, thể tích dung dịch cố
định gấp 30-60 lần thể tích mẫu.
Việc rửa mô sau khi cố định là công việc rất quan trọng. Trên nguyên tắc
sau khi cố định phải làm cho mô mất chất cố định càng sớm càng tốt, vì những
chất cố định có ảnh hưởng đến việc nhuộm và bảo quản tiêu bản. Các chất cố
định khác nhau có cách rửa mô khác nhau. Có thể rửa ngang với thời gian cố định
nếu rửa bằng nước. Các dung dịch cố định có chrome rửa với hỗn hợp dung dịch
cồn và Iod (Phạm Phan Địch và Trịnh Bình, 1998)
 Khử nước
Mục đích của việc khử nước là rút hết nước trong mẫu mà không làm mô
hoặc tế bào bị thay đổi về cấu tạo và vị trí. Mẫu sau khi cố định, rửa nước kỹ rồi

chuyển sang ngâm trong lọ cồn 70
°
, tiếp tục ngâm trong các loại cồn có nồng độ
cao dần đến cồn nguyên chất. Thời gian khử nước tùy theo độ dày của mẫu.
Muốn biết mẫu đã khử hết nước chưa, người ta cho xylen vào lọ đựng mẫu
đã rút cồn. Nếu xylen vẫn trong, điều này chứng tỏ sự khử nước tốt, nếu xylen hơi
có vẩn đục (màu trắng sữa) thì phải khử nước lại bằng cồn tuyệt đối (Phạm Phan
Địch và Trịnh Bình, 1998).
 Tẩm dung môi trung gian của paraffin
Mục đích là dùng một dung môi của paraffin để đẩy cồn trong mô sau khi
rút hết nước ra (vì paraffin cũng không tan trong cồn). Dung dịch được sử dụng
phải vừa hòa tan trong cồn vừa hòa tan được paraffin. Các dung dịch thường dùng
là benzene, toluene, xylen, chloroform.
 Tẩm paraffin
Mục đích công đoạn này giúp cắt mẫu thành những lát cắt mỏng, có thể
quan sát được dưới kính hiển vi vì lát cắt càng mỏng thì số lớp tế bào càng ít giúp
chúng ta quan sát cấu trúc tổ chức dễ dàng hơn. Do đó, ta cần phải tẩm paraffin vì
sự cố định mẫu chỉ mới giết chết tế bào và giữ cho những thành phần của nó bất
động trong tình trạng tĩnh. Nếu mẫu cố định xong mang đi cắt mỏng ngay thì mối
liên quan giữa những tế bào và tổ chức cũng như cơ cấu của tế bào cũng sẽ bị
thay đổi biến dạng do tác động của lưỡi dao. Vì vậy, cần phải có một chất làm
nền cho mẫu, vừa như cái khuôn giữ vững mẫu vừa thâm nhập được vào các
khoảng gian bào giữ cho thành phần tế bào cũng như tổ chức được yên vị trí khi
cắt mỏng.
5

Trước hết cần chọn loại paraffin tốt và thích hợp. Paraffin chỉ có thể ngấm
vào mẫu và loại xylen ra khi nó ở trạng thái lỏng. Người ta khử dung môi trung
gian bằng cách chuyển mẫu lần lượt vào những lọ có paraffin tinh khiết.
Thời gian tẩm lâu hay mau là tùy vào kích thước và tính chất của mẫu: nếu

mẫu nhỏ và lỏng lẻo thì tẩm 2-3 giờ, nếu to và cứng thì tẩm 24-36 giờ.
 Đúc khuôn
Người ta đổ paraffin lỏng đã lọc (paraffin tinh khiết) vào khuôn. Nhúng
ngay mẫu vào paraffin đang lỏng này. Dùng kẹp đã được làm nóng để định hướng
mẫu theo ý muốn. Sau vài phút paraffin sẽ đông lại và giữ mẫu ở nguyên vị trí.
Khi lớp vỏ paraffin đã đủ cứng, làm ướt cả khuôn trong nước lạnh và chú ý đừng
làm rạn vỡ màng mỏng paraffin bên trên. Khoảng 20-30 phút sau paraffin sẽ cứng
lại và thuần nhất toàn bộ. Cần tránh làm lạnh ngay khi paraffin còn lỏng. Không
được cắt mảnh ngay mà phải đợi đến 24 giờ sau (Vũ Công Hòe, 1975).
 Cắt lát mỏng
Mục đích là cắt thành những lát thật mỏng để có thể quan sát dưới kính
hiển vi.
Quy trình cắt khối paraffin gồm các bước
Cắt khối mẫu sao cho chỉ còn lại khoảng 2-3 mm paraffin quanh mẫu. Gọt
khối mẫu sao cho hai cạnh trên và dưới song song nhau.
Gắn khối mẫu đã gọt vào khối gỗ bằng cách làm nóng khối gỗ mang khối
mẫu và đồng thời làm nóng phần đáy khối mẫu, gắn mặt đáy của khối mẫu và
khối gỗ, chỉnh cho khối mẫu song song với khối gỗ.
Đặt lưỡi dao vào máy, khóa thật chặc, chỉnh độ nghiêng của lưỡi dao
khoảng 15-20
0
so với mặt của paraffin.
Cắt mẫu: việc cắt mẫu có thể bắt đầu ở độ dày từ 10-12µm. Sau khi dây
mẫu đã ổn định thì chỉnh lại độ dày khoảng 6-7µm. Nếu việc tẩm paraffin tốt,
lưỡi dao sắc và nhiệt độ phòng cắt thích hợp các lát cắt sẽ dính vào nhau thành
những dải băng.
Tốc độ của tay quay vừa phải, không quá nhanh cũng không quá chậm
nhưng phải dứt khoát (Vũ Công Hòe, 1975).
6


 Tải tiêu bản lên lame
Để tải tiêu bản lên lame có thể dùng nhiều loại dung dịch: nước cất, dung
dịch lòng trắng trứng pha với glycerin theo tỷ lệ 1:1. Trước khi dán tiêu bản lên
lame phải làm tiêu bản dãn ra bằng cách đặt dải băng lên chậu nước nóng ấm
khoảng 40
°
C. Sau đó, đưa lame xuống phía dưới để vớt tiêu bản được chọn lên và
mang đi hấp ở 60
°
C trong 30 phút (Phạm Phan Địch và Trịnh Bình, 1998).
 Nhuộm mẫu
Ở tế bào sống, các thành phần cấu tạo tế bào và mô có chỉ số chiết quang
gần giống nhau nên khó phân biệt dưới kính hiển vi quang học. Vì vậy, việc
nhuộm màu làm cho các thành phần này bắt màu khác nhau, tạo được sự tương
phản giúp ta dễ quan sát.
Về phương diện mô học người ta chia thuốc nhuộm thành hai nhóm: thuốc
nhuộm tự nhiên và thuốc nhuộm nhân tạo.
Thuốc nhuộm tự nhiên là những loại được chiết xuất từ động vật hoặc thực
vật như Carmine hay Hematoxyline.
Thuốc nhuộm nhân tạo chia làm 3 nhóm: các chất base, các chất acid, các
chất màu trung tính.
Có nhiều phương pháp nhuộm màu
- Sự nhuộm màu tăng, giảm dần
Nhuộm màu tăng dần được tiến hành bằng cách ngâm tiêu bản trong dung
dịch nhuộm màu cho đến lúc tiêu bản nhuộm bắt màu vừa đủ.
Nhuộm màu giảm dần là nhuộm cho đến khi tế bào hoặc mô bắt màu thật
thấm rồi sau đó tẩy màu ở tiêu bản cho đến khi màu vừa ý.
- Sự nhuộm màu nối tiếp, đồng thời
Nhuộm màu nối tiếp là phương pháp nhuộm tiêu bản bằng cách chuyển
tiêu bản qua các dung dịch thuốc nhuộm theo một trình tự.

Nhuộm màu đồng thời được thực hiện bằng cách pha tất cả các thuốc cần
nhuộm thành một dung dịch và nhuộm màu một lần (chú ý: các thuốc sử dụng
phải phù hợp với nhau, không chống nhau. Những thuốc tham gia vào dung dịch
phải có tác dụng với bào tương và nhân cùng một thời gian).
7

- Nhuộm màu trực tiếp, gián tiếp
Nhuộm màu trực tiếp là phương pháp nhuộm được tiến hành khi thuốc
nhuộm có khả năng trực tiếp nhuộm vào tế bào và mô, không cần phải qua khâu
làm ăn màu.
Nhuộm màu gián tiếp được tiến hành bằng cách trước khi nhuộm phải
ngâm tiêu bản vào dung dịch làm ăn màu, sau đó ngâm vào dung dịch thuốc
nhuộm.
- Nhuộm màu khác: một số thuốc nhuộm khi bắt vào tế bào và mô có màu
khác với màu của dung dịch thuốc nhuộm như Toluidin có màu xanh lơ, khi
nhuộm chất này sẽ có màu đỏ còn cấu trúc có màu xanh lơ (Phạm Phan Địch và
Trịnh Bình, 1998).
 Dán lamelle -Dán nhãn
Trước khi dán cần phải khử nước và khử cồn thật kỹ. Khi dán lamelle cần
thực hiện nhanh để tránh sự xâm nhập của hơi nước trong không khí vào mô.
Đánh số hiệu ghi rõ thông tin về tiêu bản hiển vi vừa hoàn thành (Phạm
Phan Địch và Trịnh Bình, 1998).
2.2 Cấu tạo vi thể chung của ống tiêu hóa
Về mặt đại thể, hệ thống ống tiêu hóa bao gồm các thành phần: miệng,
hầu, thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già và hậu môn. Đoạn ống từ thực quản
xuống ruột già gọi là ống tiêu hóa chính thức, ống tiêu hóa chính thức gồm nhiều
đoạn, mỗi đoạn có một chức năng riêng. Vì vậy mỗi đoạn có một cấu trúc rất đặc
biệt phù hợp với chức năng của nó. Ngoài những cấu trúc đặc biệt riêng của mỗi
đoạn, toàn bộ đoạn ống tiêu hóa chính thức có cấu trúc cơ bản giống nhau.
Thành ống tiêu hóa đi từ trong ra ngoài có 3 lớp áo: lớp áo trong, lớp áo

giữa, lớp áo ngoài.
Lớp áo trong (Tunica mucosa)
Lót trong lòng ống tiêu hóa là niêm mạc có nhiều tế bào tiết chất nhờn, đi
từ trong ra ngoài gồm có 4 lớp:
- Lớp biểu mô: do tổ chức biểu mô hình thành. Biểu mô lợp bề mặt niêm
mạc thay đổi tùy thuộc chức năng của từng đoạn: biểu mô phủ kép lát không sừng
hóa ở miệng, thực quản và hậu môn; biểu mô đơn trụ ở dạ dày và ruột.
8
- Lớp đệm: là tổ chức liên kết nằm dưới biểu mô. Ở vài đoạn ống tiêu hóa
lớp đệm bị chia thành hai phần bởi cơ niêm. Trong lớp đệm có chứa tuyến như
tuyến dạ dày, tuyến ruột,…
- Lớp cơ niêm: là tổ chức cơ trơn, khi co bóp làm niêm mạc gấp lại. Cấu
tạo chung gồm hai lớp cơ trơn: cơ vòng phía trong và cơ dọc phía ngoài. Riêng
thực quản chỉ có lớp cơ trơn họp lại thành bó và chạy theo chiều dọc.
- Lớp hạ niêm mạc: là tổ chức liên kết, lớp này rất phát triển. Đây là nơi cư
trú của mạch quản có nhiều đám rối thần kinh để điều tiết mạch quản cũng như
biểu mô. Ngoài ra, lớp hạ niêm mạc còn chứa tuyến như: tuyến nhờn thực quản,
tuyến tá tràng,…
Lớp áo giữa (Tunica muscularie)
Do tổ chức cơ hình thành gọi là lớp áo cơ. Đoạn từ dạ dày trở về miệng đa
số là cơ vân, còn từ dạ dày trở xuống đa số là cơ trơn. Áo này được chia làm hai
lớp: lớp cơ vòng phía trong và cơ dọc phía ngoài.
Lớp áo ngoài (Tunica serosa)
Là một màng bọc tạo bởi mô liên kết thưa.
2.3 Cấu tạo vi thể thực quản, ruột non, ruột già và gan thỏ
2.3.1 Thực quản (Esophagus)
Thực quản là ống thông từ yết hầu tới dạ dày. Chia làm 3 phần:
- Phần cổ là phần từ yết hầu tới cửa vào lồng ngực. Đoạn trước nằm trên
khí quản đến khoảng 1/3 phía sau lệch dần sang bên trái của khí quản.
- Phần ngực là phần từ cửa lồng ngực đến cơ hoành, nằm chen giữa hai lá

phổi.
- Phần bụng là phần từ cơ hoành đến dạ dày, đoạn này ngắn và chạy ngang
qua khuyết thực quản của gan.
Thực quản có nhiệm vụ chuyển thức ăn từ miệng xuống dạ dày. Ở đó
không có quá trình tiêu hóa thức ăn vì không có tuyến tiêu hóa.
Cấu trúc bên trong của thực quản từ trong ra ngoài thành thực quản gồm 4
lớp áo đồng tâm: lớp niêm mạc, lớp hạ niêm mạc, lớp cơ và lớp vỏ ngoài.


9
Lớp niêm mạc
Lớp niêm mạc thực quản có độ dày 500-800 µm, được chia thành 3 lớp:
- Lớp biểu mô: biểu mô thực quản là biểu mô phủ kép lát không sừng hóa.
- Lớp đệm: là một lớp được tạo thành bởi mô liên kết thưa trong đó có
những sợi keo nhỏ, lưới sợi chun mỏng, những tế bào liên kết. Trong lớp đệm còn
có những tuyến thực quản-vị. Tuyến thực quản-vị là những tuyến ngoại tiết kiểu
ống phân nhánh, cong queo.
- Lớp cơ niêm: được cấu tạo bởi những sợi cơ trơn dài, nằm riêng rẽ, tới
gần dạ dày thì những bó đó mới sát lại nhau (Nguyễn Xuân Hoạt và Phạm Đức
Lộ,1980).
Lớp hạ niêm mạc
Được tạo bởi mô liên kết lỏng lẻo, trong tầng dưới niêm mạc ở thực quản có
nhiều tuyến thực quản chính thức. Tuyến thực quản chính thức là những tuyến
giống với tuyến nước bọt nhỏ và nhầy (Trương Đình Kiệt và Phan Chiến Thắng,
1991).
Lớp cơ
Một phần tư trên là cơ vân tiếp với các cơ ở hầu. Ở phần tư tiếp theo, cơ
trơn xuất hiện cùng với cơ vân, dần dần nhiều lên và chiếm đa số, đến hai phần tư
dưới thực quản chỉ còn cơ trơn nối tiếp với dạ dày.
Lớp vỏ ngoài

Diện tích mặt ngoài của thành thực quản được nối với những phần xung
quanh bởi mô liên kết thưa, tạo thành lớp vỏ ngoài.
2.3.2 Ruột non (Small intestine)
Ruột non giữ vai trò quan trọng trong việc tiêu hóa thức ăn. Đồng thời là
nơi hấp thu chủ yếu các chất dinh dưỡng từ thức ăn đưa vào. Những chức năng
này phản ánh rõ trên cấu tạo của ruột non. Nó có tuyến tiết dịch tiêu hóa và các
phần hấp thu đặc biệt như nếp gấp, lông nhung và riềm hút.
Lông nhung là những cấu trúc nhỏ hình ngón tay và lồi lên khỏi mặt niêm
mạc. Số lượng lông nhung ở tá tràng nhiều hơn so với không tràng và hồi tràng.
Lông nhung làm tăng diện tích bề mặt của ruột non lên 10 lần và cách nhau bởi
những rãnh hẹp.
10
Vi nhung là sự biến đổi phần đỉnh của màng nguyên chất của tế bào biểu
mô phủ trên bề mặt lông nhung, chúng giúp gia tăng diện tích hấp thu của ruột
non lên 20 lần.
Lớp niêm mạc
Lớp biểu mô: biểu mô phủ lông nhung ruột thuộc loại biểu mô phủ đơn
trụ, có riềm hút và được cấu tạo bởi ba loại tế bào:
- Những tế bào mâm khía (tế bào hấp thu): tế bào hình trụ, nhân bầu dục,
đỉnh tế bào có những khía dọc do bào tương tạo thành gọi là những vi nhung. Vi
nhung dài 1-1.5 µm và có đường kính 0.1 µm.
- Tế bào đài: nằm xen giữa những tế bào mâm khía. Đây là những tế bào
phần giữa phình to, hai đầu thon lại.
- Tế bào ưa crôm và ưa bạc: có dạng một cái chai, đáy nằm trên đáy của
biểu mô. Thường gặp tế bào này ở phần đỉnh lông nhung.
Lớp đệm: được cấu tạo bởi tổ chức liên kết có nhiều lưới sợi, đại thực bào,
lâm ba cầu. Ngoài ra, trong lớp đệm còn có nang kín lâm ba chiếm cả chiều cao
niêm mạc và xuống cả phần dưới niêm mạc. Một vài nơi nang kín lâm ba tập họp
lại thành mảng rộng gọi là mảng Payer.
Lớp cơ niêm: cấu tạo bởi tổ chức cơ trơn gồm lớp cơ vòng bên trong và lớp

cơ dọc bên ngoài.
Lớp hạ niêm mạc
Là tổ chức liên kết mềm chứa nhiều mạch quản, thần kinh và nang kín lâm
ba.
Trong lớp đệm và tầng dưới niêm mạc ruột non có hai loại tuyến: tuyến
Lieberkihn và tuyến Brunner. Tuyến Lieberkiin là tuyến ống đơn, thành của tuyến
được cấu tạo từ tế bào hấp thu, tế bào đài và tế bào nội tiết đường ruột được thấy
ở tất cả các đoạn ruột và nằm trong niêm mạc. Tuyến Brunner thì chỉ thấy ở tá
tràng và ở đó nó có cả ở tầng niêm mạc và tầng dưới niêm mạc (Trương Đình
Kiệt và Phan Chiến Thắng, 1991).
Lớp áo cơ
Cấu tạo lớp áo cơ là tổ chức cơ trơn. Lớp cơ vòng phía trong dày, lớp cơ
dọc phía ngoài mỏng. Giữa hai lớp có tổ chức liên kết thần kinh và mạch quản.

11
Lớp áo ngoài
Lớp áo ngoài là tổ chức liên kết.
2.3.3 Ruột già (Large intestine)
Ruột già chia thành các phần: manh tràng, kết tràng, trực tràng. Chức năng
chủ yếu của ruột già là hấp thu nước và thu nhận những chất cặn bã hoặc không
tiêu hóa được chuyển tới từ ruột non. Sau đó những chất này kết lại thành phân để
thải ra ngoài.
Chức năng ruột già thay đổi tùy loài gia súc. Đối với loài ăn thịt, sự tiêu
hóa xảy ra chủ yếu ở ruột non do đó ruột già chỉ hấp thu nước và hình thành phân.
Ruột già có khả năng hấp thu rất kém vì nhung mao kém phát triển hoặc không
phát triển, trừ ở thú non. Đối với ngựa, thỏ, chuột lang thì manh tràng thay dạ cỏ
để tiêu hóa cellulose. Ngoài ra ruột già còn lên men sinh acid béo thấp và các khí
CO
2
, CH

4
, H
2
S… Ở ruột già còn nhiều loại vi khuẩn, có loại vi khuẩn tổng hợp
được vitamin B, K…(Nguyễn Xuân Hoạt và Phạm Đức Lộ, 1980).
Ruột già có cấu tạo khác ruột non ở một số điểm như sau:
- Ruột già không có tuyến Brunner, có tuyến ruột nhưng tuyến ruột không
có tế bào Paneth, các tuyến này chủ yếu hấp thụ nước và tiết ra một số men không
đáng kể.
- Lông nhung chỉ có ở thời kỳ phôi thai, còn thời kỳ trưởng thành thì
không có.
- Có tuyến tế bào hình đài, nhất là ở tuyến ruột và nang kín lâm ba.
- Áo cơ là lớp cơ trơn gồm hai lớp cơ vòng bên trong và cơ dọc bên ngoài.
Nhưng lớp cơ dọc ngoài sợi cơ tập trung thành từng bó chạy theo chiều dọc,
tương đối dày, còn các chỗ khác chỉ còn lại một số ít sợi rải rác. Ở thỏ, lớp cơ
vòng thường thắt lại từng đoạn.
- Các mạch quản và thần kinh thì đơn giản vì ruột già không có lông
nhung, tuyến ruột thẳng (Nguyễn Xuân Hoạt và Phạm Đức Lộ, 1980).
2.3.4 Gan (Liver)
Gan là một tuyến lớn nhất trong cơ thể, trong đó chỉ có một loại tế bào
biểu mô gọi là tế bào gan. Gan đảm nhận cùng lúc hai nhiệm vụ
Ngoại tiết: tiết dịch mật để tiêu hóa mỡ.
12
Nội tiết: gan tiết chất heparin chống đông máu, dự trữ sắt cho quá trình tạo
máu, sản sinh ure tham gia vào chức năng bài tiết,…
Gan được bao bọc bởi một màng liên kết, màng này phân vách vào gan
chia gan thành nhiều thùy và tiểu thùy.
Mỗi tiểu thùy gan là một khối hình đa diện, những tiểu thùy ngăn cách
nhau bởi vách liên kết mỏng gọi là khoảng Kiernan. Mô liên kết này càng dày thì
làm cho ranh giới giữa các tiểu thùy càng rõ (ở heo). Tiểu thùy khó thấy ở ngựa,

bò, mèo, thỏ. Trong mỗi tiểu thùy các tế bào gan xếp thành dãy tế bào gọi là bè
Remark. Các bè lại đan chéo với nhau tạo thành lưới. Giữa các mắc lưới của tiểu
thùy là những mao mạch chạy khúc khuỷu, những mao mạch này sẽ tập trung lại
đổ vào một tĩnh mạch nằm giữa tiểu thùy gọi là tĩnh mạch trung tâm hay tĩnh
mạch cửa tiểu thùy. Đây là một nhánh của tĩnh mạch trên gan. Ngoài ra, giữa mặt
bên của hai tế bào gan nằm sát nhau có một khe tròn gọi là vi quản mật. Các vi
quản mật không có vách. Mật do các tế bào tiết ra đổ vào các ống dẫn mật nằm ở
vách liên kết rồi tích trữ ở túi mật (ngoại trừ ngựa, chuột, bồ câu không có túi
mật) (Lâm Thị Thu Hương, 2005).
Tế bào gan
Hình đa diện 6-8 mặt, đường kính 20-30µ. Hai mặt tiếp xúc mao mạch đối
diện nhau. Những mặt còn lại tiếp xúc với tế bào khác. Có 1-2 nhân nằm giữa tế
bào, đường kính 9-12µ, có thể thấy rõ hạt nhân thường nằm giữa tế bào. Hình thái
của tế bào thay đổi tùy theo trạng thái cơ năng như sau: khi tiếp nhận thức ăn thì
nó lớn lên trở thành tròn, bào tương xuất hiện các hạt glycogen to, nhỏ. Các hạt
này sau đó bị phân giải đưa sang hệ thống máu. Nếu thức ăn không tiếp tục thì
sau một vài ngày, nhất là khi có hoạt động cơ vân mạnh sẽ thấy glycogen biến hết
đi.
Tế bào Kupffer
Tế bào có dạng hình sao, nhân tròn, bầu dục hay hình thoi. Bào tương chứa
ít tiểu vật, lưới nội bào có hạt lysosome và ferritin.
Bám vào nội mạc mao quản bởi các nhánh của tế bào. Xuất hiện nhiều ở
những nơi mao quản chia nhánh.
Có nhiệm vụ thực bào và có khả năng kích thích các tế bào nội mạc biến
thành đại thực bào.

13

Mao quản gan
Mao quản máu: là khe hở giữa bè Remark, chạy khúc khuỷu trong tiểu

thùy. Thành mao mạch mỏng trong suốt, bên trong lòng mao mạch có tế bào
Kupffer.
Mao quản mật: nằm giữa hai mặt tế bào sát nhau, là một khe tròn không có
thành. Dịch mật chảy ra chu vi của tiểu thùy và sau đó đổ vào ống dẫn mật gan
thùy có thành ống.
Mạch quản ở gan
Gan tiếp nhận máu từ tĩnh mạch cửa và động mạch gan. Tĩnh mạch cửa
mang máu từ dạ dày, ruột về tim; động mạch gan mang máu nhiều oxy đến cung
cấp cho các hoạt động của tổ chức gan. Mao quản sinh ra do sự phân nhánh của
mạch quản hợp lại với nhau làm thành lưới chung. Máu ở gan ra theo tĩnh mạch
gan.
Tĩnh mạch gian thùy và tĩnh mạch giữa tiểu thùy: tĩnh mạch cửa xuyên vào
trong gan, qua rốn gan phân nhánh đi về các tiểu thùy hình thành các tĩnh mạch
gian thùy. Tĩnh mạch gian thùy phân nhiều mao mạch nhỏ đi vào trong tiểu thùy
tạo thành một lưới mao mạch nhỏ. Lưới này lại đổ chung vào tĩnh mạch giữa tiểu
thùy. Như vậy, ở tiểu thùy máu chảy từ chu vi vào trung tâm. Máu ở tĩnh mạch
giữa tiểu thùy chảy về đáy của tiểu thùy rồi qua tĩnh mạch tập hợp lại. Sau đó,
máu đổ về tĩnh mạch gan.
Động mạch gian thùy: động mạch gan đi đến rốn gan rồi vào trong chia
nhánh như tĩnh mạch cửa, hình thành các động mạch gian thùy lớn nhỏ. Động
mạch gian thùy lại phát nhánh đi vào tiểu thùy để nối với các mao quản. Như vây,
máu của động mạch gan và tĩnh mạch cửa đến lưới mao mạch thì hòa chung với
nhau.
Ống dẫn mật và túi mật
Ống dẫn mật
Ống dẫn mật có cấu tạo ba lớp: lớp niêm mạc, lớp cơ và lớp ngoài.
- Niêm mạc: có nhiều nếp gấp cấu tạo nên tế bào biểu mô phủ đơn trụ. Xen
kẽ có tế bào hình đài đối với loài nhai lại; lớp đệm có nhiều sợi chun chứa tuyến
ống tiết chất nhờn và một ít nước.
14

- Lớp cơ: là cơ trơn gồm cơ vòng nằm phía trong, cơ dọc nằm phía ngoài.
- Lớp ngoài: là tổ chức liên kết.
Túi mật
Cấu tạo thành gồm ba lớp:
- Lớp áo trong: niêm mạc có nhiều nếp gấp, cấu tạo là tế bào biểu mô phủ
đơn trụ, dưới lớp biểu mô có nang kín lâm ba.
- Lớp áo cơ: là tổ chức cơ trơn vòng trong, lớp cơ ngoài sắp xếp hỗn loạn.
- Lớp ngoài: là tổ chức liên kết.
2.4 Cấu tạo vi thể dạ dày của gia cầm và thủy cầm
Có hai phần: dạ dày tuyến và dạ dày cơ
2.4.1 Dạ dày tuyến (Proventriulus or Glandular Stomach)
Thon nhỏ, to hơn thực quản một ít, nằm bên trái của mặt phẳng giữa, là
một túi hình bầu dục dài.
Thành dạ dày tuyến tương đối dày, niêm mạc lót trong của dạ dày tuyến có
nhiều tuyến tiết dịch tiêu hóa. Khi thức ăn đi qua đây được tẩm dịch tiêu hóa rồi
xuống dạ dày cơ.
Chức năng: tiết dịch vị chứa mem tiêu hóa để thấm vào thức ăn.
Cấu trúc dạ dày tuyến từ trong ra ngoài gồm 3 lớp áo: lớp áo trong, lớp áo
giữa, lớp áo ngoài.
Lớp áo trong
Màng nhầy được nâng lên thành những nếp gấp và được che phủ bởi lớp
biểu mô phủ đơn trụ chứa những tế bào hình đài.
Biểu mô phủ đơn trụ bao gồm những tế bào biểu mô tiết chất nhờn, biểu
mô này lõm sâu xuống để tạo thành lỗ đổ ra vào lòng túi tuyến. Dưới biểu mô xen
với ống tuyến là tổ chức liên kết có nang kín lâm ba (Nguyễn Xuân Hoạt và Phạm
Đức Lộ, 1980).
Lớp đệm: chứa tuyến dạ dày hình ống trong đó có những tế bào hình hộp
mà bào tương có nhiều hạt tiết.
Cơ niêm: mỏng có cấu tạo bằng cơ trơn.
15

Lớp hạ niêm mạc: lớp này hoàn toàn chứa đầy mô tuyến và mô liên kết.
Những túi tuyến đơn tập hợp lại thành những thùy tuyến. Các thùy tuyến
này làm cho thành của dạ dày tuyến dày lên. Các thùy tuyến có những ống dẫn
đến bề mặt của biểu mô phủ đơn trụ.
Tổ chức liên kết: có 2 dạng là dạng phân bố lỏng lẻo giữa các thùy tuyến
và dạng khác là rắn chắc gần như bao trùm các thùy tuyến.
Lớp áo giữa
Lớp áo giữa do cơ trơn tạo thành gồm: lớp cơ dọc ở trong, lớp cơ vòng ở
giữa, lớp cơ dọc ở ngoài.
Lớp áo ngoài
Lớp áo ngoài là tổ chức liên kết.
2.4.2 Dạ dày cơ (Gizzard of Muscular Stomach)
Dạ dày cơ nối với dạ dày tuyến bởi một eo hẹp, nằm giữa vùng bụng. Dạ
dày cơ nằm giữa hai thùy của gan và một phần bên cạnh thùy trái của gan.
Dạ dày cơ giống như một khối cầu dẹp, được bao quanh giống như hai
kính lồi, lớp cơ màu đỏ nâu, dày, chắc, khỏe. Bề mặt được che phủ bởi một lớp
gân chắc, sáng bóng. Gân dày ở trung tâm và gân mỏng tại mép của dạ dày cơ.
Bên ngoài thường có lớp mỡ bao bọc.
Dạ dày cơ là nơi nghiền thức ăn nhờ cấu tạo bởi lớp cơ dày. Mặt trong có
lớp niêm mạc hóa sừng. Ngoài ra còn có sự hỗ trợ của một số ít sạn thường xuyên
có trong dạ dày cơ.
Cấu trúc vi thể dạ dày cơ từ trong ra ngoài gồm các lớp sau:
Lớp niêm mạc: là lớp biểu mô sừng hóa. Lớp này rất dày do biểu mô tuyến
nhô lên trên bề mặt làm thành. Lớp biểu mô tuyến ở dưới lớp hóa sừng gồm
những ống tuyến thẳng đứng tiết ra chất nhờn, giới hạn các ống tuyến là tổ chức
liên kết. Dưới các tuyến ống là một lớp riêng biệt có cơ trơn, tổ chức liên kết. Lớp
cuối cùng của niêm mạc là lớp gân chắc.
Lớp áo cơ: cấu tạo bằng cơ trơn dày, xen kẽ với các bó cơ trơn là các chồi
gân đâm vào.
Lớp áo ngoài: hầu như không có (Nguyễn Xuân Hoạt và Phạm Đức Lộ,

1980).
16

Chương 3
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Phương Pháp
3.1.1 Địa điểm thực hiện
Đề tài được thực hiện tại phòng Mô học, Bộ môn Thú Y, Khoa Nông
Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, Đại học Cần Thơ.
Thời gian: từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2013.
3.1.2 Dụng cụ, trang thiết bị, hóa chất
Dụng cụ: chai, lọ, phễu, lame, lamelle, dao lam, kéo, kẹp.
Máy cắt vi mẫu, kính hiển vi, tủ hấp, tủ sấy, bếp tải, bản đúc và thanh đúc
mẫu, máy ảnh kỹ thuật số.
Hóa chất:
Cồn 70
°
, 80
°
, 90
°
, 100
°
.
Thuốc nhuộm: Hematoxyline, Eosin Y.
Xylen, Formol.
Paraffin, keo Canada-Balsam.
3.2 Phương Pháp Tiến Hành
3.2.1 Lấy mẫu
Đối với thỏ: chọn thỏ trưởng thành có trọng lượng 2-3kg, khỏe mạnh, cho

nhịn ăn 24-48 giờ sau đó giết thỏ bằng cách hủy tủy. Dùng kéo giải phẫu mổ từ
hầu đến hậu môn lấy các bộ phận: thực quản, ruột non, ruột già, gan.
Đối với vịt: chọn vịt khỏe mạnh, không nhiễm bệnh, nặng khoảng 2kg, cho
vịt nhịn ăn từ 24-48 giờ, chỉ cho uống nước. Sau đó giết thỏ bằng cách hủy tủy.
Dùng kéo giải phẫu mổ xoang bụng. Lấy các mẫu gồm: dạ dày tuyến, dạ dày cơ.
3.2.2 Cố định mẫu
Cố định mẫu bằng dung dịch Formol 10%. Vì formol có những đặc tính:
- Vận tốc xuyên thấm và cố định mẫu nhanh.
17
- Không làm co mẫu, không làm mẫu cứng lại.
- Bảo quản tốt cấu trúc tế bào.
- Làm tăng sự kiềm tính của cấu trúc khi nhuộm.
Giai đoạn đầu ta ngâm nguyên các phần trên trong dung dịch formol 10%
trong 15 phút để ổn định tổ chức cho dễ cắt. Kế tiếp là vớt ra dung lưỡi lam sạch
cắt các phần mỡ, màng treo ruột.
3.2.3 Lấy mẫu nhỏ
Cách lấy mẫu như sau
Mẫu trên ống tiêu hóa thỏ:
- Thực quản: lấy một đọan thực quản sau đó cắt thành từng đoạn nhỏ
khoảng 1cm.
- Ruột non: lấy một đọan ruột non sau đó cắt thành từng đoạn nhỏ khoảng
1cm.
- Ruột già: lấy một đoạn ruột già sau đó cắt thành từng đoạn nhỏ khoảng
1cm.
- Gan: cắt mẫu gan với kích thước 0.5cm x 0.5cm x 1cm, cắt ở trung tâm
của gan để thấy được tĩnh mạch gan và ống dẫn mật.
Mẫu dạ dày vịt:
- Dạ dày tuyến: lấy ở đoạn giữa dạ dày tuyến 1cm.
- Dạ dày cơ: lấy ở nơi có cơ nhiều, chia thành hai phần cơ và phần hóa
sừng với kích thước 0.5cm x 0.5cm x 1cm.

Tiếp tục cố định mẫu trong formol 10%, thời gian cố định khoảng 24 giờ
nhưng thời gian này còn tùy thuộc vận tốc xuyên thấm, vận tốc cố định của dung
dịch, nhiệt độ môi trường, độ dày và cấu trúc mẫu…
3.2.4 Rửa mẫu
Mẫu sau khi cố định xong phải được rửa lại bằng nước sạch. Bằng cách
cho mẫu vào trong chậu nước đặt dưới vòi nước chảy nhẹ liên tục trong 2 giờ,
nhằm mục đích loại trừ tất cả formol thừa trong mẫu ra vì nếu formol sót lại sẽ
kết hợp với Hematoxyline khi nhuộm sẽ tạo ra kết tủa màu đen sậm bên ngoài tế
bào làm phai màu, mẫu không được giữ lâu.

×