Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Lựa chọn bài tập nâng cao hiệu quả kĩ thuật phát cầu thấp chân chính diện cho nam học sinh khối 11 trường THPT ngô gia tự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 60 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT



ĐỖ TRƢỜNG AN


LỰA CHỌN BÀI TẬP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ KĨ THUẬT PHÁT CẦU
THẤP CHÂN CHÍNH DIỆN CHO NAM
HỌC SINH KHỐI 11 TRƢỜNG
THPT NGÔ GIA TỰ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP GDTC

Hƣớng dẫn khoa học


Th.s TRẦN VĂN TIÊN


HÀ NỘI - 2015

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đã thực hiện quá trình làm khóa luận một cách khoa học,
chính xác và trung thực. Toàn bộ những vấn đề đưa ra và bàn luận trong đề tài
đều là những vấn đề mang tính thời sự, cấp thiết và đúng thực tế với những


điều kiện khách quan của trường trung học phổ thông Ngô Gia Tự và từ trước
tới nay chưa có ai nghiên cứu.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Sinh viên


Đỗ Trƣờng An







CÁC TỪ VIẾT TẮT

CT-TW : Chỉ thị - Trung ương
GDTC : Giáo dục thể chất
HLV : Huấn luyện viên
Nxb : Nhà xuất bản
TDTT : Thể dục thể thao
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
VĐV : Vận động viên
Đơn vị đo lường:
cm : Centimét
m : Mét















MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác GDTC trong trường học 3
1.2. Đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi học sinh THPT 4
1.3. Bài tập TDTT - phương tiện chủ yếu và chuyên biệt của GDTC 8
1.4. Vai trò của các yếu tố kĩ thuật trong môn Đá cầu 11
1.5. Khái niệm, lí luận về phát cầu 12
1.6. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả phát cầu 14
CHƢƠNG 2. NHIỆM VỤ - PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN
CỨU 16
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu 16
2.2. Phương pháp nghiên cứu 16
2.3. Tổ chức nghiên cứu 20
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 22
3.1.Thực trạng công tác nghiên cứu giảng dạy kĩ thuật phát cầu thấp
chân chính diện trong môn Đá cầu đối với học sinh trường THPT Ngô Gia Tự 22

3.2. Ứng dụng và đánh giá bài tập nâng cao hiệu quả kĩ thuật phát cầu thấp
chân chính diện cho nam học sinh khối 11 trường THPT Ngô Gia Tự 29
3.3. Tổ chức thực nghiệm 39
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO





DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 3.1. Quan điểm của việc giảng dạy kĩ thuật và thực trạng của việc sử
dụng các bài tập phát triển kĩ thuật đá cầu cho học sinh. 23
Bảng 3.2. Kết quả phỏng vấn quan điểm việc sử dụng các bài tập giảng
dạy và hoàn thiện kĩ thuật phát cầu thấp chân chính diện. 25
Bảng 3.3. Kết quả phỏng vấn học sinh về kĩ thuật thường được sử dụng trong
phát cầu. 27
Bảng 3.4. Kết quả kiểm tra phát cầu thấp chân chính diện của 50 em học sinh
nam khối 11 trường THPT Ngô Gia Tự. 28
Bảng 3.5. Kết quả phỏng vấn lựa chọn bài tập nhằm nâng cao hiệu quả kĩ
thuật phát cầu thấp chân chính diện. 32
Bảng 3.6. So sánh kết quả kiểm tra hiệu quả phát cầu thấp chân chính diện trước
thực nghiệm của 2 nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng 41
Bảng 3.7. Kế hoạch giảng dạy trong 6 tuần (12 giáo án). 43
Bảng 3.8. So sánh hiệu quả của kĩ thuật phát cầu thấp chân chính diện của hai
nhóm thực nghiệm và đối chứng sau thực nghiệm 44
Biểu đồ 1: So sánh hiệu quả phát cầu thấp chân chính diện của hai nhóm thực
nghiệm trước thực nghiệm và nhóm đối chứng. 42
Biểu đồ 2: So sánh hiệu quả phát cầu thấp chân chính diện của hai nhóm đối

chứng và thực nghiệm sau thực nghiệm 45
1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Giáo dục thể chất là một bộ phận của nền giáo dục quốc gia, là một bộ
phận trong hệ thống giáo dục. Giáo dục sức khỏe cho thế hệ trẻ là một trong
những vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, góp phần không
nhỏ cho sự phát triển của đất nước. Do đó phát triển thể chất cho các học sinh
các trường học nói chung và các học sinh trường THPT nói riêng là nhiệm vụ
quan trọng của GDTC. Để thực hiện mục tiêu GDTC đến năm 2025 đó là:
“Xây dựng và bước đầu hoàn thiện GDTC trong học đường từ cấp mầm non
lên cấp đại học, thực hiện việc dạy thể dục một cách nghiêm túc, đảm bảo cho
mỗi học sinh đều thực hiện chế độ GDTC bắt buộc trong nhà trường góp
phần phát triển hài hòa thể chất nâng cao sức khỏe và thể lực phục vụ yêu
cầu học tập, lao động sẵn sàng bảo vệ tổ quốc ''[1]. Với mục đích giáo dục
con người Việt Nam một cách toàn diện: có phẩm chất đạo đức, có tri thức, có
sức khỏe và chuyên môn giỏi để lao động, xây dựng và bảo vệ thành quả xã
hội chủ nghĩa.
Công tác GDTC cho học sinh thực sự chiếm một vị trí quan trọng nhằm
trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về thể dục, để từ đó tự nâng cao
sức khỏe. Đồng thời giáo dục tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái giúp đỡ
lẫn nhau trong học tập và cuộc sống. Để đạt được mục đích mà giáo dục đặt
ra trong quá trình giáo dục thể chất cho học sinh người ta sử dụng tổ hợp
nhiều phương pháp, biện pháp, phương tiện giúp cho việc tiếp thu kĩ thuật
động tác nâng cao thành tích và sức khỏe.
Theo chương trình học Thể dục ở trường THPT ngày nay, môn Đá cầu
đã được đưa vào giảng dạy cho học sinh ở khối 10, 11 và 12. Việc tham gia
tập luyện và thi đấu đá cầu có tác dụng rất lớn trong việc tăng cường sức khỏe
2
tăng tuần hoàn máu và sự trao đổi không khí của cơ thể làm cho cơ thể bớt

mệt mỏi, căng thẳng và được nhiều bạn trẻ yêu thích.
Cũng như nhiều môn thể thao khác, trong thi đấu đá cầu đòi hỏi người
chơi phải có được các tố chất thể lực như: sức nhanh, sức mạnh, sức bền, sự
mềm dẻo khéo léo và khả năng phối hợp vận động.
Trong các kĩ thuật của đá cầu thì phát cầu là kĩ thuật cơ bản. Ngoài mục
đích đưa cầu vào cuộc đấu, phát cầu còn là một trong những kĩ thuật tấn công
để giành điểm trực tiếp hay gián tiếp. Kĩ thuật này được thực hiện ở khu vực
phát cầu, phía sau đường biên ngang cuối sân.
Tuy học môn đá cầu nhìn bên ngoài trông rất đơn giản nhưng thực tế để
thực hiện được tốt các kĩ thuật đòi hỏi người tập cần chịu khó siêng năng
không ngừng quan sát học tập, để hoàn thiện các kĩ thuật của cá nhân.
Qua thực tế khi quan sát giờ học thể dục có nội dung đá cầu của học
sinh khối 11 trường THPT Ngô Gia Tự học tập và thi đấu chúng tôi thấy
nhiều em có thể tâng, đỡ, chuyền cầu tốt. Tuy nhiên phát cầu còn nhiều hạn
chế, chưa chính xác và hiệu quả còn thấp. Vậy nguyên nhân nào đã dẫn đến
hiện tượng đó. Cần phải khắc phục như thế nào?
Hiện nay đã có rất nhiều nhà khoa học lựa chọn đá cầu là hướng nghiên
cứu. Song chưa có tác giả nào đi sâu vào nghiên cứu những giải pháp nâng
cao hiệu quả kĩ thuật phát cầu thấp chân chính diện cho nam học sinh khối 11
trường THPT Ngô Gia Tự.
Xuất phát từ những lí do trên để góp phần nâng cao hiệu quả của công
tác GDTC cho học sinh trường THPT Ngô Gia Tự chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Lựa chọn bài tập nâng cao hiệu quả kĩ thuật phát cầu thấp chân
chính diện cho nam học sinh khối 11 trƣờng THPT Ngô Gia Tự”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Là tìm ra bài tập phù hợp với điều
kiện và thực tế giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả kĩ thuật phát cầu thấp chân
chính diện cho nam học sinh khối 11 trường THPT Ngô Gia Tự.
3
Giả thuyết khoa học: Nếu lựa chọn ứng dụng và đánh giá được đúng
các bài tập đưa ra, thì sẽ làm nâng cao hiệu quả kĩ thuật phát cầu thấp chân

chính diện cho nam học sinh khối 11 trường THPT Ngô Gia Tự, góp phần
nâng cao chất lượng TDTT của học sinh và tăng thành tích trong học tập và
thi đấu cho các em.





















4
CHƢƠNG 1:
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về công tác GDTC trong
trƣờng học

Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, thời kì công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, mọi mặt trong đời sống xã hội đều có những thay đổi rõ rệt. Để có
được sự thay đổi đó Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm sát sao đưa ra những
đường lối, chính sách phù hợp đối với những vấn đề của xã hội. Công tác
GDTC trong trường học cũng không nằm ngoài sự quan tâm đó.
Chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/3/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khóa VII) đã nêu: “Giao trách nhiệm cho Bộ Giáo dục - Đào tạo và Tổng
cục TDTT thường xuyên phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác GDTC, cải tiến
chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên
TDTT cho trường học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất
và kinh phí để thực hiện việc giảng dạy và học Thể dục bắt buộc ở tất cả các
trường học, làm cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của
hầu hết học sinh, sinh viên qua đó phát hiện và tuyển chọn được nhiều tài
năng thể thao cho quốc gia ”. [1]
Ngày 21/10/2002 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị
17/CT-TW về phát triển TDTT đến năm 2010 đã nêu rõ phương hướng và
nhiệm vụ, giải pháp thực hiện việc đẩy mạnh phong trào TDTT rộng khắp
trong cả nước. Với thể thao trường học Chỉ thị nêu : “ Đẩy mạnh hoạt động
TDTT ở trường học tiến tới đảm bảo mỗi trường đều có giáo viên Thể dục
chuyên trách và lớp học đúng tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao chất lượng
GDTC xem đây là một tiêu chí xét công nhận trường chuẩn quốc gia ”

. [2]
5
Nhà nước coi trọng TDTT trường học nhằm phát triển và hoàn thiện
thể chất cho tầng lớp thanh niên, thiếu niên, nhi đồng. GDTC là nội dung giáo
dục bắt buộc đối với học sinh, sinh viên được thực hiện trong hệ thống giáo
dục quốc dân từ Mầm non đến Đại học. Nhà nước khuyến khích và tạo điều
kiện cho học sinh được tập luyện TDTT phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và
điều kiện từng nơi. GDTC là một bộ phận quan trọng để thực hiện mục tiêu

giáo dục toàn diện, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
1.2. Đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi học sinh THPT
1.2.1. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh THPT
1.2.1.1. Đặc điểm tâm lí chung
Lứa tuổi này, tâm lí học sinh có nhiều thay đổi đáng kể. Các em đang
trong giai đoạn chuyển giao từ trẻ con sang người lớn. Các em đã có được
những kiến thức nhất định, đã có khả năng tư duy trừu tượng, logic, đã biết
phân tích vấn đề và tổng hợp vấn đề một cách chặt chẽ, có căn cứ và nhất
quán.
Trong lứa tuổi này tính cách và tình cảm của các em được hình thành
và thể hiện ra bên ngoài, những phẩm chất nhân cách được bộc lộ rõ ( lòng
yêu lao động, tính cần cù, dũng cảm ) những quan hệ nhiều mặt của nhân
cách được thể hiện như tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm, nghĩa
vụ
Tuy nhiên ở tuổi mới lớn do chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc
sống, tự đánh giá về một vấn đề nào đó của các em không tránh khỏi sự vội
vàng, cảm tính, không tránh được sai lầm khi tự đánh giá. Các em cần được
sự giáo dục, giúp đỡ một cách khoa học, khéo léo của nhà trường, gia đình
để hình thành được một biểu tượng khách quan về nhân cách của mình.
6
1.2.1.2. Đặc điểm tâm lí trong học tập và sự phát triển trí tuệ của học sinh
THPT
Trong lứa tuổi này nội dung và tính chất hoạt động học tập của các em
khác rất nhiều so với hoạt động học tập của học sinh THCS. Hoạt động học
tập của các em đòi hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ cao hơn
nhiều, đồng thời cũng đòi hỏi muốn nắm được chương trình một cách sâu sắc
thì cần thiết phải tư duy lí luận.
Ý thức và thái độ học tập trong giai đoạn này của các em ngày càng

phát triển. Thái độ của các em đối với các môn học trở nên có lựa chọn hơn,
các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng
nghề nghiệp. Lúc này có ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức
sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học, rồi mới đến động cơ cụ thể khác.
Nhưng thái độ học tập ở một số không ít các em là : Các em rất tích cực học
một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề nghiệp còn những môn
khác thì chỉ học qua loa lấy điểm trung bình. Giáo viên cần làm cho các em
hiểu được ý nghĩa chức năng của giáo dục phổ thông với mỗi một giáo dục
chuyên ngành.
Thái độ học tập có ý thức đã thúc đẩy sự phát triển tính chủ định của
các quá trình nhận thức vào năng lực điều khiển bản thân của các em trong
quá trình học tập.
Đối với đặc điểm của sự phát triển trí tuệ lứa tuổi học sinh THPT:Ở lứa
tuổi này, tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức,
tri thức có mục đích đã đạt tới mức rất cao quan sát trở nên có mục đích, có
hệ thống và toàn diện hơn. Tuy vậy, quan sát của học sinh cần có sự chỉ đạo
của giáo viên để hướng vào nhiệm vụ nhất định và có hiệu quả. Ở lứa tuổi
này, học sinh có khả năng ghi nhớ một cách hệ thống, logic trừu tượng, ghi
nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt.
7
Mặc dù vậy về mặt trí tuệ các em cần được người giáo viên hướng dẫn
chỉ bảo để tiếp tục hoàn thiện.
1.2.2. Đặc điểm sinh lí lứa tuổi THPT
1.2.2.1. Đặc điểm sinh lí chung
Đối với học sinh lứa tuổi THPT, cơ thể các em đã phát triển tương đối
hoàn chỉnh, các bộ phận của cơ thể vẫn tiếp tục lớn lên nhưng chậm dần. Các
hệ cơ quan trong cơ thể đã đi vào ổn định, khả năng hoạt động và tập luyện
TDTT được nâng lên rõ rệt, trong giai đoạn này các em có thể áp dụng các bài
tập luyện để phát triển sức nhanh, sức mạnh, sức bền một cách có hiệu quả.
Đây là giai đoạn hoàn thiện kĩ thuật của rất nhiều môn thể thao mà các em tập

luyện và đạt đến trình độ cao.
1.2.2.2. Hệ thần kinh
Ở lứa tuổi học sinh THPT, hệ thần kinh tiếp tục được phát triển và đi
đến hoàn thiện, kích thước não và hành tủy đạt đến mức của người trưởng
thành. Các em đã có khả năng nhận định, phân tích và tổng hợp vấn đề một
cách logic, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành nhanh chóng
phản xạ có điều kiện. Đây là điều kiện thuận lợi để các em nhanh chóng tiếp
thu và hoàn thiện kĩ thuật động tác.
Lứa tuổi này học sinh có thể tiếp thu được kĩ thuật động tác một cách
rất nhanh, tuy nhiên nếu bài tập đưa ra không gây được hứng thú hoặc đơn
điệu đối với học sinh thì các em sẽ tập luyện không nỗ lực và chóng gây nên
cảm giác mệt mỏi. Do đó, cần phải có những hình thức tập luyện đa dạng, phù
hợp, gây được hứng thú cho học sinh. Giáo viên và HLV cần chú ý đến đặc
điểm cơ thể của từng cá nhân, từng học sinh để có thể đưa ra bài tập, cách tập
luyện phù hợp nhất và cá biệt đối với học sinh đó.


8
1.2.2.3. Hệ vận động (hệ xương - cơ)
- Hệ xương: Đối với học sinh lứa tuổi THPT, ở đa số các em hệ xương
đã phát triển tương đối và hoàn thiện và bắt đầu giảm tốc độ phát triển. Đối
với các em nữ mỗi năm cao thêm khoảng 1 - 3cm. Do hệ xương đã phát triển
tương đối hoàn thiện nên các em có thể tập luyện các bài tập có khối lượng và
cường độ vận động tương đối lớn mà không tạo ra sự phát triển lệch lạc của
cơ thể.
- Hệ cơ: Ở lứa tuổi học sinh THPT, hệ cơ phát triển chậm hơn so với hệ
xương. Và sự phát triển của cơ phụ thuộc rất nhiều vào mức độ phát triển của
xương. Cùng với lứa tuổi, khối lượng cơ tăng lên dần. Tuy nhiên, sự tăng
trưởng cơ xảy ra không đều, phát triển với nhịp điệu nhanh nhất là cơ chân,
chậm nhất là cơ tay, các cơ duỗi phát triển nhanh hơn các cơ co. Giai đoạn

này có thể áp dụng các bài tập phát triển sức mạnh để góp phần thúc đẩy sự
phát triển của các cơ.
1.2.2.4. Hệ tuần hoàn
Ở lứa tuổi học sinh THPT, hệ tuần hoàn đang phát triển và đi đến hoàn
thiện khả năng hồi phục sau những hoạt động thể lực nặng nhanh hơn lứa tuổi
trước đó. Sau vận động mạch đập và huyết áp hồi phục tương đối nhanh
chóng. Lứa tuổi này có thể áp dụng các bài tập đòi hỏi sự giai sức và những
bài tập có khối lượng và cường độ vận động tương đối lớn. Tuy vậy, giáo viên
và HLV cần đưa ra các bài tập phù hợp cần có thời khóa biểu hợp lí để không
gây ra sự quá tải đối với học sinh, cần thường xuyên kiểm tra, theo dõi sức
khỏe của học sinh.
1.2.2.5. Hệ hô hấp
Ở lứa tuổi học sinh THPT, hệ hô hấp đã phát triển tương đối hoàn
thiện, tần số hô hấp giảm so với lứa tuổi trước, khả năng hấp thụ ôxi lớn,
dung tích sống và thông khí phổi tăng lên. Vòng ngực trung bình của nam từ
9
67 - 72 cm, của nữ từ 69 - 74 cm. Tuy nhiên, ở lứa tuổi này các cơ hô hấp vẫn
còn yếu, sự co dãn của lồng ngực còn nhỏ. Vì vậy, trong tập luyện cần thở sâu
và chú ý thở bằng ngực. Các bài tập bơi, chạy cự li trung bình, chạy việt dã có
tác dụng rất tốt đến sự phát triển của hệ hô hấp.
1.3. Bài tập TDTT - phƣơng tiện chủ yếu và chuyên biệt của GDTC
1.3.1. Khái niệm bài tập TDTT
Bài tập TDTT là những hoạt động vận động chuyên biệt do con người
sáng tạo ra một cách có ý thức, có chủ đích phù hợp với các quy luật GDTC.
Người ta dùng chúng để giải quyết những nhiệm vụ GDTC, đáp ứng những
yêu cầu phát triển thể chất và tinh thần của con người.
Trong đời sống hàng ngày, sự vận động của cơ thể con người rất đa
dạng: đi, chạy, mang vác vật nặng và rất nhiều loại hình lao động chân tay
khác trong các động tác tự nhiên đó nhiều động tác đã trở thành nội dung
của các bài tập TDTT. Tất nhiên, hình thức và nội dung của chúng đã thay đổi

nhiều để phù hợp với các quy luật và đáp ứng được các yêu cầu mục tiêu của
GDTC. Các bài tập TDTT là những hoạt động vận động nhằm tác động đến
chính bản thân của con người và hoàn toàn bị chi phối bởi những quy luật
phát triển thể chất và tinh thần cũng như những mục tiêu và nguyên tắc của
GDTC.
1.3.2. Nội dung và hình thức của bài tập TDTT
Nội dung: Bài tập TDTT bao gồm các thành phần tạo nên bài tập đó và
các quá trình cơ bản xảy ra trong cơ thể do việc thực hiện bài tập đó tạo nên.
Khi nhìn từ góc độ sư phạm, xem xét nội dung bài tập TDTT là xem
xét đến tác dụng tổng hợp của các bài tập đó đối với việc phát triển năng lực
vận động của cơ thể và sự hình thành các kĩ năng, kĩ xảo vận động, cũng như
sự tác động đến hành vi, nhân cách người tập.
10
Nhìn về góc độ sinh lí học: Nội dung bài tập TDTT là những biến đổi
trong hoạt động chức năng của cơ thể khi thực hiện bài tập, làm cho cơ thể
chuyển sang một mức hoạt động cao hơn so với lúc yên tĩnh, nhờ vậy mà có
thể hoàn thiện được những khả năng, chức phận của cơ thể.
Hình thức của bài tập TDTT: Là cấu trúc hay tổ chức bên trong và bên
ngoài của nó. Hình thức bài tập phụ thuộc vào đặc điểm nội dung của nó.
Cấu trúc bên trong của bài tập thể hiện mối quan hệ và sự phối hợp, tác
động lẫn nhau giữa các quá trình khác nhau của hoạt động chức năng của cơ
thể trong lúc thực hiện bài tập. Cấu trúc bên ngoài của bài tập TDTT là hình
dáng có thể nhìn thấy nó thể hiện đặc trưng ở quan hệ giữa các thông số
không gian, thời gian và lực của các động tác tạo thành bài tập.
Hình thức và nội dung của bài tập TDTT liên quan hữu cơ với nhau,
trong đó nội dung là mặt quyết định.
1.3.3. Kĩ thuật của bài tập TDTT
Kĩ thuật của bài tập TDTT là cách thức sắp xếp tổ chức và thực hiện hệ
thống các động tác để giải quyết nhiệm vụ vận động, hoặc nói ngắn gọn hơn
đó là những cách thức để giải quyết nhiệm vụ vận động.

Mỗi loại hình bài tập có những yêu cầu chuyên biệt về mặt kĩ thuật thể
thao. Xét theo các yêu cầu chuyên biệt đó có thể phân chia các môn thể thao
thành 3 nhóm:
- Nhóm thứ nhất: Gồm các môn thể thao có quy định chặt chẽ, các cách
thức thực hiện động tác như các môn : Thể dục dụng cụ, Thể dục nghệ thuật,
Nhảy cầu và một số môn võ thuật biểu diễn
- Nhóm thứ hai: Phần lớn gồm các môn vận động có chu kì, trong đó kĩ
thuật phụ thuộc vào yêu cầu đạt thành tích ở mức tối đa như các môn : Điền
kinh, Bơi lội, Cử tạ, Đua xe đạp
11
- Nhóm thứ ba: Gồm tất cả các môn thi đấu đối kháng và các môn
bóng. Kĩ thuật trong các môn này đòi hỏi sự biến hóa, ứng dụng vào các tình
huống điều kiện cụ thể, điều kiện đối thủ thay đổi và các điều kiện khác.
1.3.4. Những yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả bài tập TDTT
Khi thực hiện các bài tập TDTT, trong cơ thể con người diễn ra những
biến đổi sinh lí, tâm hóa, sinh hóa phức tạp dẫn đến sự biến đổi của các cơ
quan vận động và cơ quan nội tạng. Nhà Sư phạm, HLV cần nắm chắc các
nhân tố chung nhất đảm bảo thực hiện đúng nhất những nguyên tắc và
phương pháp sư phạm trong tập luyện, ngoài ra cần chú ý đến các nhân tố
sau:
- Đặc điểm cá nhân người tập
- Đặc điểm của bài tập
- Đặc điểm của môi trường thực tiện bài tập
- Sử dụng tác dụng tự nhiên của thiên nhiên và các yếu tố vệ sinh
1.3.5. Phân loại các bài tập TDTT
Hiện nay có nhiều cách phân loại bài tập TDTT khác nhau. Để đáp ứng
được yêu cầu về mặt sư phạm, dựa vào những dấu hiệu khách quan của bài
tập, để dự kiến kết quả giáo dục, rèn luyện có thể đạt được sau khi áp dụng
vào các bài tập đó mà người ta sử dụng cách phân loại dựa trên đặc điểm của
chế độ hoạt động cơ bắp và cách đánh giá kết quả cuối cùng của bài tập. Cụ

thể các bài tập được chia thành các nhóm sau đây :
- Các môn sức mạnh - tốc độ cần có cường độ hay công suất gắng sức
cơ bắp tối đa như: Chạy cự li ngắn. Nhảy cao, Nhảy xa, Ném, Đẩy
- Các môn sức bền trong các bài tập có chu kì như: Chạy cự li trung
bình và dài, Đi bộ, Bơi lội, Đua xe đạp
- Các môn đòi hỏi năng lực phối hợp vận động như: Thể dục dụng cụ,
Thể dục nghệ thuật, Nhảy cầu, Trượt băng nghệ thuật
12
- Các môn đòi hỏi biểu hiện tổng hợp các yếu tố vận động trong điều
kiện, các tình huống và hình thức vận động luôn thay đổi như tất cả các môn
đối kháng cá nhân, các môn bóng.
1.4. Vai trò của các yếu tố kĩ thuật trong môn đá cầu
Trong thi đấu các môn thể thao nói chung và môn Đá cầu nói riêng,
muốn có thành tích môn Đá cầu VĐV phải được chuẩn bị đầy đủ về tâm lí,
thể lực và chiến thuật. Do vậy, công tác huấn luyện phải được tiến hành trên
cơ sở các quy luật, các nguyên tắc và các phương pháp đã được nghiên cứu và
thử nghiệm qua thực tế.
Trong môn đá cầu, các kỹ thuật rất đa dạng phong phú. Các kĩ thuật
được hoàn thiện ơ mức độ kĩ xảo ( tự động hóa), kỹ thuật là yếu tố quan trọng
và có ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố khác.
Khi đá cầu đòi hỏi người tập phải có sự phối hợp vận động của toàn
thân như: Di chuyển, tâng cầu, đỡ cầu, đá cầu tấn công, chuyền cầu, cứu cầu
Hai chân phải nhanh nhẹn, hoạt động tích cực, mắt phải tập trung quan
sát, phán đoán đường cầu trên toàn sân để đưa ra quyết định khi tiếp xúc với
cầu bằng kĩ thuật nào để có hiệu quả nhất.
Khi thực hiện các kĩ thuật đá cầu đòi hỏi sự chính xác rất cao, vì đế quả
cầu nhỏ, tốc độ bay của quả cầu lại rất nhanh, do đó chỉ cần mắc sai sót là bị
mất điểm. Chính vì vậy, ở đây kĩ thuật được xem là yếu tố quan trọng và nó
quyết định đến thành tích của người tập, của VĐV.
Trong thi đấu đá cầu, ngoài thi đấu đơn còn có thi đấu đôi, thi đấu ba

người nên đòi hỏi các VĐV phải biết phối hợp ăn ý với nhau, mỗi người cần
phải có khả năng bao quát, xử lí các tình huống hết sức nhạy cảm, chính xác,
thông minh, đem lại tự tin cho đồng đội. Để có được điều đó mỗi người phải
có kĩ thuật tốt, biết phối hợp với đồng đội và có chiến thuật hợp lí lúc thi đấu.
13
Trong quá trình tập luyện thi đấu, người tập không ngừng hình thành và
củng cố kĩ thuật động tác, các phản xạ có điều kiện, nhằm tăng cường khả
năng phối hợp giữa hệ thần kinh trung ương với các cơ quan vận động, các cơ
quan nội tạng trong cơ thể để xây dựng các kĩ năng, kĩ thuật động tác tiến tới
hình thành kĩ xảo động tác. Để đạt được điều này người tập phải tiến hành tập
luyện thường xuyên, liên tục, có hệ thống, khoa học và hợp lí.
1.5. Cở sở khoa học về phát cầu
Phát cầu là một kĩ thuật nằm trong nhóm kĩ thuật tấn công, được thực
hiện ở cuối sân trong khu vực phát cầu nhằm đưa cầu vào cuộc. Phát cầu còn
có thể giành được điểm trực tiếp hoặc làm cho đối phương rơi vào thế bị động
trong phòng thủ và gặp khó khăn trong tổ chức tấn công nếu đối thủ có trình
độ điêu luyện về kĩ thuật phát cầu (điểm rơi của quả phát cầu theo ý muốn).
Trong kĩ thuật phát cầu căn cứ vào vị trí của mu bàn chân khi tiếp xúc
với cầu và tư thế cơ thể khi phát cầu, có thể chia kĩ thuật phát cầu thành 4 loại
sau:
- Phát cầu thấp chân chính diện
- Phát cầu thấp chân nghiêng mình
- Phát cầu cao chân chính diện
- Phát cầu cao chân nghiêng mình
Trong các kĩ thuật phát cầu thì “ Phát cầu thấp chân chính diện ” là kĩ
thuật được sử dụng nhiều nhất trong thi đấu và tập luyện để đưa cầu vào cuộc.
 Tư thế chuẩn bị:
VĐV đứng ở tư thế chân trước chân sau (chân phát cầu để phía sau).
Bàn chân trước đặt vuông góc với đường biên ngang, mũi bàn chân cách
đường biên ngang 20 cm và mép ngoài của bàn chân cách đường giới hạn khu

vực phát cầu khoảng 20 cm. Mũi bàn chân sau chống xuống đất và hơi xoay
ra phía ngoài sao cho trục của hai bàn chân hợp thành một góc khoảng 45° và
14
hai gót chân cách nhau khoảng 40 cm. Lúc này trọng tâm cơ thể dồn vào chân
trước, thân người hơi khom. Tay cùng bên với chân phía sau gập ở khuỷu tay,
để bàn tay ngửa trước bụng, ngón trỏ và ngón giữa để ở phía dưới đế cầu, còn
ngón cái đặt lên trên đế cầu. Tay còn lại để thả lỏng tự nhiên mắt quan sát đối
phương.
 Thực hiện kĩ thuật:
Sau khi có hiệu lệnh của trọng tài, tay tung cầu lên cao ngang hoặc trên
tầm ngực, điểm cầu rơi cách điểm dọi của cơ thể khoảng 40-50cm ( tùy theo
chiều dài của chân người đá cầu). Sau khi tung cầu lên trọng tâm hoàn toàn
được chuyển sang chân trụ, chân đá cầu thực hiện động tác từ sau ra trước, từ
dưới lên. Động tác bắt đầu là dùng sức của đùi để lăng chân, lúc này cẳng
chân được gấp ở phía sau đùi, khi đùi lăng qua điểm dọi của cơ thể và trục
dọc của đùi tạo với phương thẳng đứng một góc khoảng 35-40° thì lúc này
chuyển động của đùi được dừng lại, đồng thời cẳng chân được lăng về trước
hơi lên, mũi bàn chân duỗi thẳng tiếp xúc với cầu bằng mu bàn chân ở thời
điểm cầu cách mặt sân khoảng 30-40 cm. Khi tiếp xúc cầu thì mặt phẳng của
mu bàn chân hướng về hướng phát cầu và khi chạm cầu thì chân dừng lại đột
ngột, thân người hơi lao về trước.
 Kết thúc:
Khi cầu rời chân, chân đá cầu bước về trước chạy vào sân chuẩn bị cho
động tác tiếp theo.
Từ phân tích trên về thực hiện kĩ thuật phát cầu chúng ta thấy:
- Phát cầu là kĩ thuật đòi hỏi sự phối hợp vận động kết hợp của nhiều
bộ phận cơ thể một cách nhịp nhàng.
- Phát cầu không tiêu hao thể lực nhiều trong thi đấu, nếu phát cầu tốt
sẽ đem lại hiệu quả rõ rệt, tạo thuận lợi cho người phát cầu trực tiếp ghi điểm
hoặc gây khó khăn cho đối phương, phá vỡ chiến thuật của đối thủ.

15
- Phát cầu là kĩ thuật mang tính cá nhân rõ rệt, sau khi phát cầu xong
người phát phải nhanh chóng di chuyển về vị trí trung tâm sân (nếu là thi đấu
đơn) hoặc vị trí của mình để đỡ quả trả phát cầu hoặc tấn công của đối
phương đá sang.
- Phát cầu là một kĩ thuật đơn giản nhưng rất quan trọng trong tập luyện
và thi đấu Đá cầu. Vì vây, khi tham gia tập luyện đòi hỏi người tập phải thực
hiện và hoàn thiện được động tác này.
1.6. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả phát cầu
1.6.1. Các yếu tố kĩ thuật
Yếu tố kĩ thuật là yếu tố đặc biệt quan trọng trong hiệu quả phát cầu.
Để có thể thực hiện đúng kĩ thuật và đạt được hiệu quả đòi hỏi người chơi,
VĐV phải có được kĩ thuật cơ bản tốt và tránh được các sai lầm khi phát cầu:
- Phát cầu không qua lưới
- Phát cầu ra ngoài sân
- Phát cầu sẽ dẫn tới đối thủ có thể ghi điểm hoặc trả giao cầu khó, dẫn
tới gây lúng túng cho người phát cầu.
- Phát cầu chân chạm vạch cuối sân
Để tránh được những sai lầm trên người tập, VĐV cần phải được tập
luyện đúng phương pháp, bài bản và được lặp lại nhiều lần, động tác được
thực hiện một cách thuần thục, đúng nhịp điệu và động tác dần được tự động
hóa thành kĩ xảo của VĐV.
1.6.2. Các yếu tố thể lực
Trong tập luyện và thi đấu Đá cầu, yếu tố thể lực là một yếu tố hết sức
quan trọng, do trong trận đấu đá cầu mỗi VĐV đều phải thực hiện những kĩ
thuật di chuyển, đá cầu, tấn công, phòng thủ Đòi hỏi phải có thể lực để thực
hiện các động tác đó. Thể lực chính là nền tảng cho việc thực hiện các kĩ thuật
và mọi hành vi chiến thuật.
16
Trong một trận Đá cầu thường diễn ra rất căng thẳng, VĐV phải sử

dụng nhiều kĩ thuật. Chính vì vậy, khi gần kết thúc trận đấu hay hiệp đấu
VĐV thường rất mệt mỏi. Trong lúc này do thể lực bị giảm sút, VĐV cần chú
ý hết sức tập trung vào quả phát cầu để không bị đối phương gây khó khăn
cho người phát cầu. Sau khi phát cầu cần phải di chuyển nhanh vào vị trí
trung tâm hay vị trí thích hợp để đón, đỡ quả trả giao cầu của đối phương.
1.6.3. Các yếu tố tâm lí
Thông qua tập luyện, thi đấu TDTT nói chung và đặc biệt là môn Đá
cầu nói riêng, đòi hỏi người tập phải có sự nỗ lực khổ luyện, có ý chí, có nghị
lực, có quyết tâm cao thì mới mong có kết quả tốt. Bởi đặc thù của môn Đá
cầu trong thi đấu mang tính đối kháng rất cao, nhất là trong thi đấu đá đơn.
Muốn giành được thắng lợi trong thi đấu, trước tiên người tập phải thắng
được chính bản thân mình bằng sự cần cù, chịu khó, linh hoạt, sáng tạo, khắc
phục khó khăn, trong sinh hoạt với đồng đội phải đoàn kết, tương trợ lẫn nhau
trong tập luyện cũng như trong thi đấu.
Tâm lí có ảnh hưởng trực tiếp đến quả phát cầu, người phát cầu ngoài
việc nắm chắc được kĩ thuật, có thể lực, cũng như có niềm tin vào quả phát
cầu của mình, phải tạo niềm tin cho đồng đội. Phải đề ra được chiến thuật cho
quả phát cầu, không bị đối phương gây sức ép hoặc run sợ trước đối phương.
Như vậy, ngoài các yếu tố khác yếu tố tâm lí cũng là yếu tố hết sức
quan trọng khi thực hiện phát cầu trong những tình huống trên sân khi trận
đấu diến ra căng thẳng, điểm số bám sát nhau và ở những điểm cuối của hiệp
đấu. Sự căng thẳng lúc này là áp lực lớn đối với người phát cầu, cần tạo được
sự bình tĩnh, ổn định về tâm lí, tránh được những giao động từ đối phương
hay khán giả, từ đó thực hiện tốt quả phát cầu và giành được chiến thắng cuối
cùng.

17
CHƢƠNG 2
NHIỆM VỤ - PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU


2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giải
quyết hai nhiệm vụ sau:
Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng thực hiện kĩ thuật phát cầu thấp chân
chính diện cho nam học sinh khối 11 trường THPT Ngô Gia Tự.
Nhiệm vụ 2: Lựa chọn ứng dụng và đánh giá bài tập nâng cao kĩ thuật
phát cầu thấp chân chính diện cho nam học sinh khối 11 trường THPT Ngô
Gia Tự.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu là phương pháp không thể
thiếu được trong các đề tài nghiên cứu. Nó được sử dụng rộng rãi trong các
công trình nghiên cứu lí luận sư phạm nhằm tiếp thu những nguồn thông tin
khoa học hiện có trong và ngoài nước. Phân tích các văn bản pháp quy, sách
báo, tạp chí khoa học đá cầu, chương trình môn học giảng dạy, lí luận giáo
dục thể chất, giáo trình môn học đá cầu và phân phối chương trình tự chọn
của Đá cầu.
Vì vậy, trong nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng phương pháp này
nhằm tham khảo, tổng hợp, hệ thống hóa các nguồn kiến thức có liên quan đến
lĩnh vực nghiên cứu. Các kiến thức tài liệu chung và chuyên môn liên quan đến
giảng dạy kĩ thuật phát cầu thấp chân chính diện trong môn Đá cầu. Đồng thời
thông qua phương pháp này chúng tôi sẽ có thêm cơ sở lựa chọn, ứng dụng và
kiểm chứng được hiệu quả của các bài tập nâng cao hiệu quả của kĩ thuật phát
cầu cho nam học sinh khối 11 trường THPT Ngô Gia Tự.
18
2.2.2. Phƣơng pháp quan sát sƣ phạm
Quan sát sư phạm là phương pháp thu thập thông tin về quá trình giáo
dục trên cơ sở tự giác trực tiếp các hoạt động sư phạm cho ta những tài liệu
sống về thực tiễn giáo dục để có thể khái quát rút ra những quy luật nhằm chỉ
đạo quá trình tổ chức giáo dục thế hệ trẻ tốt hơn. Ở đề tài này trong quan sát

sư phạm chúng tôi sử dụng các hình thức:
- Quan sát trực tiếp giờ dạy thể dục, việc tập luyện và thi đấu của nam
học sinh khối 11 trường THPT Ngô Gia Tự từ đó có nhận định đánh giá trực
tiếp, chú ý đến các kĩ thuật phát cầu và nhất là kĩ thuật phát cầu thấp chân
chính diện các em sử dụng.
- Quan sát đo đạc (sử dụng mật độ tập luyện của học sinh và các
phương pháp giảng dạy của giáo viên).
2.2.3. Phƣơng pháp phỏng vấn tọa đàm
Phương pháp này được chúng tôi sử dụng nhằm thu thập và trao đổi
những thông tin có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu. Từ đó rút ra những nhận
xét và kết luận chính xác khách quan có độ tin cậy. Và bổ sung thêm các dữ
liệu cần thiết, loại bỏ những vấn đề chưa phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi xác
định hiện trạng vấn đề nghiên cứu. Đối tượng được chúng tôi phỏng vấn là các
giáo viên có chuyên môn về Đá cầu, nam học sinh khối 11 trường THPT Ngô
Gia Tự và các đối tượng khác. Và đặc biệt chúng tôi đã có buổi thảo luận với tổ
Thể dục của trường THPT Ngô Gia Tự về nội dung của đề tài này:
- Tính hợp lí và hiệu quả của các bài tập bổ trợ cho môn học Đá cầu
- Tác dụng về giáo dục tính tự giác tích cực tập luyện của học sinh
- Tăng phần sinh động của giờ học thể dục
2.2.4. Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm
Thực nghiệm là phương pháp đặc biệt cho phép tác động lên đối tượng
nghiên cứu một cách chủ động, can thiệp có ý thức vào quá trình diễn biến tự
19
nhiên để hướng quá trình ấy diễn ra theo mục đích mong muốn của người
nghiên cứu.
Thực tế lí luận đã nêu ở trên chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm để
đánh giá kiểm định tính khả thi của các bài tập bổ trợ cho môn đá cầu. Loại
trừ các yếu tố ngoại lai. Với mục đích thử nghiệm hiệu quả các bài tập mang
tính dự thảo.
Để đánh giá khách quan các bài tập bổ trợ cho môn học đá cầu chúng

tôi tiến hành thực nghiệm so sánh trên 2 nhóm đối tượng là nam học sinh khối
11 trường THPT Ngô Gia Tự được lựa chọn ngẫu nhiên làm nhóm thực
nghiệm và nhóm đối chứng.
Nhóm A (là nhóm đối chứng) gồm 15 em học sinh tập theo các bài tập
do giáo viên trường THPT Ngô Gia Tự giảng dạy theo kế hoạch của nhà
trường.
Nhóm B (là nhóm thực nghiệm) gồm 15 em học sinh tập theo các bài
tập do chúng tôi biên soạn.
Thời gian và điều kiện tập luyện của cả 2 nhóm là như nhau, chương
trình thực nghiệm được tiến hành trong 6 tuần.
2.2.5. Phƣơng pháp kiểm tra sƣ phạm
Chúng tôi sử dụng phương pháp này ở trước và sau giai đoạn thực
nghiệm sư phạm. Các bài tập được chúng tôi lựa chọn là những bài tập có ý
nghĩa thống nhất cao, đánh giá được khả năng tiếp thu kĩ thuật và hiệu quả
các bài tập mang lại đối với học sinh.
2.2.6. Phƣơng pháp toán học thống kê
Sau khi thu thập được số liệu chúng tôi đã sử dụng phương pháp toán
học thống kê để xử lí và tính toán những số liệu trong quá trình nghiên cứu.
Cụ thể là một số công thức sau:
20
- Giá trị trung bình:
1
n
i
i
x
x
n





- Phương sai và độ lệch chuẩn:

1n
XX
n
1i
2
A
_
A
2














(n<30)

 




n
i
Ai
XX
1
2


- So sánh 2 số trung bình quan sát:

22
AB
AB
AB
xx
t
nn




(với n
A
, n
B
< 30 hoặc 1
trong 2 số này < 30 )



Trong đó:
X
: Là giá trị trung bình.

A
X
: Là giá trị trung của nhóm đối chứng.

B
X
: Là giá trị trung bình của nhóm thực nghiệm.

,
AB
nn
: Là số người của 2 nhóm
i
x
: Là giá trị khảo sát của i
n : Là số cá thể lấy mẫu.




×