Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Phân tích bài thơ hữu cảm của nguyễn bỉnh khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.94 KB, 3 trang )

Phân tích bài thơ Hữu cảm của Nguyễn Bỉnh
Khiêm
October 27, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THCS - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Em hãy dựa vào bản phiên âm, bản dịch nghĩa
và bản dịch thơ Văn học 9(tập 1, trang 38-40) để phân
tích bài thơ “Hữu cảm”(Có cảm xúc) của Nguyễn Bỉnh
Khiêm
Ra đời sau Nguyễn Trãi hơn một trăm năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kế thừa được những truyển thống
văn học tốt đẹp của nhà yêu nước vĩ đại ấy, mặt khác lại phản ánh tâm trạng của cả một tầng lớp trí
thức dân tộc phải sống trong buổi suy vi, loạn lạc của chế độ phong kiến.
Sống gần suốt thế kỉ thứ XVI (1491-1585), đỗ trạng nguyên, học vấn uyên thâm, đức trọng, tài cao, có
uy vọng lớn đối với cả một thởi đại. Quán Trung Tân, Am Bạch Ván, “Bạch Vân Quốc ngữ thỉ tập “ và
“Bạch Vân Am thi tập” … là những di sản tinh thần vô cùng cao đẹp của Trạng Trình để lại cho đất
nước, quê hương. Ông được nhân dân thời bấy giờ coi như ông thầy của cả một thời đại và tôn là Tuyết
Giang phu tử.
Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm còn lại trên dưới nghìn bài vừa bằng chữ Hán, vừa bằng chữ Nôm. Thơ
ông hàm chứa tinh yêu nước thương dân, thâm trầm tính triết lí. giàu giá trị tố cáo hiện thực lên án
chiến tranh phi nghĩa và thói đời đen bạc.
“Hữu cảm” (Có cảm xúc) là bài thơ chữ Hán trong tập “Bạch Vân Am thi tập”. Bài thơ xuất hiện trong
lúc các phe phái phong kiến (Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn), đánh giết lẫn nhau để tranh giành quyền vị, gây
ra bao cảnh đau thương chết chóc cho dân lành! “Hữu cảm” đã thể hiện một niềm ưu ái sâu nặng với
đời và dân tộc.
Hai câu đầu giọng thơ đầy căm giận lên án lũ “nghịch tặc” đã hoành hành ngang ngược, xâm phạm vào
cả kinh đô. Chiến tranh bùng nổ, nội chiến bùng nổ, đất nước bị rơi vào thảm họa, nhân dân ta tan tác
điêu linh. Trước biến cố ấy nhà vua và triều đình trải qua thử thách năng nề: “Chúa lo, thần nhục” là bi
kịch của một triều đại phong kiến. Nhà thơ chia sẻ với họ, ông thốt lên: “Vua tôi lo lắng xiết bao tình!”
Bốn câu thơ trong phần thực và luận, Nguyễn Bỉnh Khiêm phê phán gay gắt chiến tranh phong kiến và
biểu lộ tấm lòng thương yêu nhân dân. Ông đã đứng trên lập trường nhân dân, vì sự sống và hạnh phúc
của nhân dân mà lên án các tập đoàn phong kiến đã đánh nhau, giành giật nhau quyền vị.
Bài thơ đã phản ánh một xã hội loạn lạc và niềm ưu ái sâu nặng của Trạng Trình
Hai câu 3, 4 nối lên niềm mong đợi của dân trong cảnh loạn lạc. Họ cầu mong người đến cứu sống. Từ


câu cổ ngữ, một văn liệu: “Hề ngã hậu, hậu lai kỳ tô”, ông rút ngắn lại thành hai chữ “hê tô”, để biểu
đạt ý nguyện dân lành thời loạn lạc: “Chờ vua ta đến, vua ta đến sẽ cứu sống ta”. Nỗi chờ đợi của nhân
dân không phải là ngày một ngày hai mà đã uất kết từ lâu lắm rồi. Nội chiến diễn ra triền miên trong
nhiều thập kỷ của thế kỉ XVI. “Điếu phạt” nghĩa là dấy quân trừng phạt kẻ có tội. Đó là hành động
chính nghĩa được nhân dân ta hưởng ứng, ca ngợi. Hành động “Điếu phạt” ấy tựa như trận mưa gặp
thời. “Trận mưa gặp thời” làm cho cỏ cây tươi tốt, lòng người nở hoa, thời tiết mát mẻ. Dấy quân đánh
kẻ có tội để cứu vãn “đế kinh”, để vãn hồi hoà bình. Nguyên Bỉnh Khiêm đã vận dụng văn liệu cổ
Trung Hoa để nói lên ý nguyện nhân dân buôi loạn lạc một cách hàm súc:
“Hề tô cửu uất thương sinh vọng
Điếu phạt thùy hưng thời vũ binh “
(Mong mưa, chan chứa lòng dân vọng
Trừ bạo, tưng bừng đạo nghĩa binh)
Hai câu 5, 6 nói về lòng dán, tình dân. Cả một vùng rộng lớn, bốn biển, trời cao. Khắp cả nước, đông
đảo nhân dân theo về, hướng về người đã cứu vót họ, mang lại hạnh phúc hoà bình cho họ. “Nhật trùng
minh” (trời lại sáng) là một hình ảnh mang nghĩa tượng trưng cho cảnh đất nước thanh hình. Câu thơ
chữ Hán cũng như câu thơ dịch vang lên một giọng điêu rộn rịp, vui tươi:
“Bốn bể vui theo người đạo đức,
Khắp nơi lại thấy cảnh thanh bình”
Điểu đó cho ta thấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất thương dân, thấu hiểu nỗi đau thương của nhân dân trong
nội chiến bao nhiêu lại đổng cảm với lòng khát khao được sổng yên vui, hạnh phúc trong hoà bình của
họ bấy nhiêu! Có không ít bài thơ của Trạng Trình cho thấy ông đứng về phía nhân dân để lên án chiến
tranh phi nghĩa. Cả đất nước là bãi chiến trường:
“Khắp nơi chợ nào cũng máu chảy thành sông, xương chất như núi.”
(“Ngụ ý” – thơ chữ Hán)
Niềm thương xót nhân dân điêu linh gắn liền với thái độ căm ghét những kẻ tham tàn, dã man đã gây ra
nội chiến:
“Rất đáng ghét việc can qua đầy dẫy trước mắt,
Nhân dân trốn chạy muốn tìm nơi an toàn.
Khốn đốn trôi giạt, bồng bế nhau đi, thương thay không nơi yên thân”
(“Hữu cảm” – thơ chữ Hán)

Trở lại hai câu kết của bài thơ “Có cảm xúc”. Cái yêu cái ghét của nhà thơ được thể hiện trực tiếp. Ông
ca ngợi và khẳng định: Nhân giả – người có nhân nghĩa, biết thương yêu nhân dân là vô địch. Câu thơ
như một châm ngôn, như một chân lí được đúc kết: “Cổ lai, nhân giả tri vô địch!” Người có nhân là
người chiến thắng vì được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Câu thơ cuối bài như một lời trách móc, ám chỉ
bọn vua chúa thời bấy giờ: “Việc gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh!” Đằng sau câu thơ là tất cả
thái độ căm ghét và khinh bỉ bọn người tranh giành quyền lực gây ra cảnh chém giết, núi xương sông
máu, coi thường tính mạng và tài sản của nhân dân.
“Hữu cảm” là một bài thơ trữ tình có tính nhân dân sâu sắc. Qaa bài thơ này, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề
cập tới một vấn đề mới, chưa hề có trong nền văn học nước nhà trước đó: ấy là sự phê phán gay gắt
chiến tranh, đổng thời cũng biểu hiện một tình cảm truyền thống: tấm lòng yêu thứơng nhân dân. Một
mặt, ông lên án bọn “nghịch tặc” tham lam, độc ác chỉ “khư khư thích chiến tranh”, mặt khác ông đề
cao nhân giả”, ca ngợi họ mang lại yên vui cho nhân dân. Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ rõ: hòa bình hạnh
phúc là khát vọng của nhân dân. Ai được nhân dân đội ơn sâu, được nhân dân theo về, ủng hộ, người
ấy là “nhân giả vô địch”.
Một giọng thơ nghiêm trang, một lối sử dụng ngôn ngữ trang trọng, văn liệu cổ được vận dụng để viết
nên những câu thơ hàm súc, mang tư tường, tình cảm sâu sắc. Bài thơ đã phản ánh một xã hội loạn lạc
và niềm ưu ái sâu nặng của Trạng Trình đối
Read more: />khiem/#ixzz3mXlJ40AQ

×