Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích bài thơ ngụ hứng ở quán trung tân của nguyễn bỉnh khiê1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.57 KB, 4 trang )

Phân tích bài thơ Ngụ hứng ở quán Trung Tân của
Nguyễn Bỉnh Khiêm
October 27, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THCS - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Phân tích bài thơ “Ngụ hứng ở quán Trung Tân”
của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Học giỏi,
đỗ Trạng nguyên. Ông có câu thơ: “Văn khôi tam thượng tiếu tài sơ” nghĩa là 3 lần đỗ đầu vẫn cười
mình tài tầm thường. Làm quan dưới triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê đựng am Bạch
Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường dạy học, có
nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ… Ông đức trọng
tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, vua nhà Mạc truy phong là
Trình Quốc Công.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc
trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, hàm chứa chất triết lí, giáo huấn, thương đân, lo đời, ghét chiến
tranh. Những câu thơ viết về thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong
“Bạch Vân quốc ngữ thi tập” và trên 1.000 bài thơ chữ Hán trong “Bạch Vân Am thi tập”.
Năm Nhâm Dần (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm thoái quan về sống giữa xóm làng quê hương. Mùa thụ
năm ấy, ông cùng các bô lão dựng quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường
nghỉ chân. Trong “'Bài bia ở quán Trung Tàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:
“Có người hỏi ta rằng: “Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì? Ta trả lời rằng: “Trung có nghĩa là
đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điêu thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không,
phải là trung vậy; tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đáng đậu là
bến mê vậy”…
Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề “Trung Tân ngu hứng”. Bài thơ thứ nhất này gồm 24
câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc- thực-sắc…) làm âm vận chủ đạo. Bài
thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là
phép đối.
Hai câu đầu nói lên vị trí quán Trung Tân:
“Sông ngòi vòng tây bắc
Làng xóm bọc tây nam “
Quán ở giữa xóm làng đồng vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong “Bài bia ở quán Trung


Tân “, tác giả chơ biết rất cụ thể: … “bến Trung Tân, trông sang phía Đông nhìn Đông Hải, ngoảnh
sang phía Tây nhìn Tây Kinh; bên Nam, trông sang Ngu Khê, thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia
cái nọ quanh dực vào nhau; bên Bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang, thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc
tả hữu; một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp
nập đi qua chốn này”.
“Chí thiện “ là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở đời
Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông Trạng sau khi đã thoát vòng
danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chữ nhàn là một con người thanh bạch. Câu
thơ “xe ngựa bụi không đền” mang tính hàm nghĩa sâu sắc.
Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình, cảnh
vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, ung dung tự tại chan hòa giữa
thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ… lòng càng thêm “tiêu dao, khoan khoái “. Từng cặp câu
song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong
bản dịch đều thế:
“Hoa, trúc tay tự giồng
Gậy, dép bén mùi hoa
Chén, cốc ánh sắc hồng
Rửa nghiên, cá nuốt mực
Pha trà, chim lánh khói.
Ngâm thơ thừa tiêu dao
Uống rượu thêm khoan khoái”.
Nguyên Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống
giữa thiên nhiên. Một cuộc đờí thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có như Trạrg Trình ?
Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín,
Sách được câu thần dạ những ngong”.
(Bài 111)
“Trà sen, sáng đãi người đưa khát
Rượu thánh, hôm mời khách uống say”,
(Bài 140)
“Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép

Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyên
(“Ngụ ý” – thơ dịch)
Giọng thơ biến hóa pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về “vụng” và “xảo”. Cấu trúc vần thơ
liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ
ai ?
“Người xảo thì ta vụng.
Ấy vụng thế mà hay!
Ta vụng, người thì xảo,
Ấy xảo thế mà gay ! “
Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói 1 về 2 loại người
trong xã hội xưa nay. Có bài thơ, ông nói về khôn, dại trong thiên hạ:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao… “
Nơi vắng vẻ là sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành giật.
Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đáng trọng, có kẻ đáng khinh!
Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần, nhà thơ tại tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện lợi danh ở đời
và tâm thế kẻ sĩ:
“Chen chúc lợi danh đà chán ngắt,
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao !
Đám phồn hoa trót bước chân vào,
Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết”.
(“Thoát vòng danh lợi”)
Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn
lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lí và nhân sinh:
“Đường đời rất gập ghềnh… Lòng người rất hiểm nghèo”. Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy
nghìn năm, mấy trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:
“Quân tử biết răn mình,
Chí thiện làm mẫu mực”. .
“Chí thiện “ là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở đời. Biết sống đẹp và hướng thiện cũng là chí thiện.
Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì

thế ông mới được ngợi ca là Ông thầy của cả một thời đại.
Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vần còn có bức đại tự sơn son thiếp vàng với 4 chữ: “Như nhật
trung thiên” – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hổ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên: “Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng”, phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Đó cũng là chí thiện
vậy. Bài học về “chí thiện” vẫn nhiều mợi mẻ đối với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là
gương sáng muôn đời được ngợi ca.
Read more: />nguyen-binh-khiem/#ixzz3mXlZOEPh

×