Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Lựa chọn và ứng dụng bài tập phát triển sức bền trong bóng đá cho học sinh khối 11 trường THPT quỳnh côi thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 67 trang )




TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT



ĐINH PHƢƠNG NAM




LỰA CHỌN VÀ ỨNG DỤNG BÀI TẬP
PHÁT TRIỂN SỨC BỀN TRONG BÓNG
ĐÁ CHO HỌC SINH KHỐI 11 TRƢỜNG
THPT QUỲNH CÔI - THÁI BÌNH



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP GDTC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


TS. LÊ TRƢỜNG SƠN CHẤN HẢI


HÀ NỘI, 2015




LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là: Đinh Phương Nam
Sinh viên lớp K37 khoa Giáo dục Thể chất Trường ĐHSP Hà Nội 2
Tôi xin cam đoan đề tài: “Lựa chọn và ứng dụng bài tập phát triển
sức bền trong bóng đá cho học sinh khối 11 trƣờng THPT Quỳnh Côi -
Thái Bình” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, đề tài không trùng với kết
quả nghiên cứu của tác giả khác. Các kết quả nghiên cứu này mang tính thời
sự cấp thiết đúng thực tế khách quan của trường THPT Quỳnh Côi - Thái
Bình.

Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2015
Sinh viên


Đinh Phương Nam















DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VÀ CÁC KÝ HIỆU DÙNG TRONG KHÓA LUẬN

GD - ĐT

:
Giáo dục đào tạo
GDTC

:
Giáo dục thể chất
NĐC

:
Nhóm đối chiếu
NTN

:
Nhóm thực nghiệm
NXB

:
Nhà xuất bản
TD

:
Thể dục
TDTT


:
Thể dục thể thao
THPT

:
Trung học phổ thông
VĐV

:
Vận động viên
XHCN

:
Xã hội chủ nghĩa

















MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 5
1.1. Lịch sử phát triển môn Bóng đá 5
1.2. Đặc điểm của môn Bóng đá 6
1.2.1. Bóng đá là môn thể thao có tính tập thể cao 6
1.2.2. Bóng đá là môn thể thao có tính đối kháng cao 6
1.2.3. Bóng đá là môn thể thao có tính phức tạp 7
1.3. Đặc điểm của các tố chất thể lực trong bóng đá 7
1.4. Cơ sở lý luận của sức bền 8
1.5. Những vấn đề huấn luyện thể lực trong huấn luyện thể thao 10
1.6. Những điều cần chú ý khi xây dựng bài tập phát triển sức bền cho học
sinh khối 11 16
1.7. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi lớp 11 (16 - 17 tuổi) 17
1.7.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 16 - 17 17
1.7.2. Đặc điểm sinh lý của lứa tuổi 16 - 17 18
1.7.3. Đặc điểm giải phẫu của lứa tuổi 16 - 17 19
Chƣơng 2. NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
23
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu 23
2.2. Phương pháp nghiên cứu 23
2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu 23
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn 24
2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm 24
2.2.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm 24
2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 24
2.2.6. Phương pháp toán học thống kê 25

2.3. Tổ chức nghiên cứu 26
2.3.1 Thời gian nghiên cứu 26



2.3.2. Địa điểm nghiên cứu 27
2.3.3. Đối tượng nghiên cứu 27
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 28
3.1. Đánh giá thực trạng công tác GDTC và năng lực sức bền của học sinh
khối 11 trường THPT Quỳnh Côi - Thái Bình 28
3.1.1. Thực trạng công tác GDTC ở trường THPT Quỳnh Côi - Thái Bình 28
3.1.2. Thực trạng đội ngũ giáo viên TDTT trường THPT Quỳnh Côi - Thái
Bình 29
3.1.3. Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập môn GDTC
30
3.1.4. Phương pháp tổ chức quá trình giảng dạy môn học GDTC của trường
THPT Quỳnh Côi - Thái Bình 31
3.1.5. Đánh giá thực trạng sử dụng các bài tập và việc sử dụng thời gian trong
huấn luyện sức bền cho học sinh nam khối 11 trường THPT Quỳnh Côi - Thái
Bình 31
3.2. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả bài tập phát triển sức bền cho
học sinh nam khối 11 Trường THPT Quỳnh Côi - Thái Bình 34
3.2.1. Lựa chọn các bài tập nhằm phát triển sức bền cho học sinh nam khối 11
Trường THPT Quỳnh Côi - Thái Bình 34
3.2.2. Ứng dụng và đánh giá hiệu quả các bài tập phát triển sức bền cho học
sinh nam khối 11 trường THPT Quỳnh Côi - Thái Bình 41
3.2.3. Kết quả thực nghiệm 44
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC









DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng,
biểu
Diễn giải
Trang
Bảng 3.1
Thực trạng đội ngũ giáo viên trường THPT Quỳnh Côi
- Thái Bình
29
Bảng 3.2

Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học
tập môn GDTC
30
Bảng 3.3

Kết quả điều tra thực tiễn số buổi tập/tuầnvà thời gian
tập luyện/ buổi các bài tập phát triển sức bền cho học
sinh khối 11 tại một số trường THPT
32
Bảng 3.4


Thực trạng việc sử dụng bài tập phát triển sức bền
trong huấn luyện thể lực cho học sinh nam khối 11
trường THPT Quỳnh Côi - Thái Bình
34
Bảng 3.5
Kết quả phỏng vấn lựa chọn bài tập phát triển sức bền
cho học sinh nam khối 11 trường THPT Quỳnh Côi -
Thái Bình (n=30)
36
Bảng 3.6
Kết quả phỏng vấn về mức độ ưu tiên sử dụng số buổi
tập phát triển sức bền trong một tuần (n=30)
40
Bảng 3.7

Kết quả phỏng vấn về mức độ ưu tiên thời gian cho mỗi
buổi tập sức bền (n=30)
41
Bảng 3.8
Tiến trình thực nghiệm
42
Bảng 3.9

Kết quả phỏng vấn lựa chọn các test đánh giá sức bền
cho đối tượng nghiên cứu (n = 30)
43
Bảng 3.10

Kết quả kiểm tra sức bền của 2 nhóm trước thực
nghiệm (n

A
=30 VĐV, n
B
= 30 VĐV)
45
Bảng 3.11

Kết quả kiểm tra sức bền của 2 nhóm sau
thực nghiệm (n
A
=30 VĐV, n
B
= 30 VĐV)
46
Biểu đồ 3.1
Biểu đồ biểu hiện thành tích chạy xuất phát cao 100m
(s) trước và sau thực nghiệm
47
Biểu đồ 3.2
Biểu đồ biểu hiện thành tích bật xa tại chỗ của 2 nhóm
trước và sau thực nghiệm.
48
Biểu đồ 3.3
Biểu đồ thể hiện thành tích sút bóng liên tục 5 quả có đà 5m
vào cầu môn của 2 nhóm trước và sau thực nghiệm
48

1



ĐẶT VẤN ĐỀ

Cùng với sự phát triển của xã hội loài người TDTT là một bộ phận
không thể thiếu được trong nền văn hoá của mỗi dân tộc cũng như nền văn
minh của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “TDTT là một công tác
cách mạng” [3], tức là Người đã đặt TDTT ngang hàng với các công tác khác,
như công tác chính trị tư tưởng, công tác tổ chức, công tác văn hoá, giáo
dục Công tác TDTT có nhiệm vụ “nghiên cứu phương pháp và thực hành
thể dục trong toàn quốc” nhằm “tăng bổ sức khoẻ quốc dân và cải tạo nòi
giống Việt Nam”.[3]
Để tăng cường và mở rộng các hoạt động TDTT, ngay sau khi đất nước
giành được độc lập ngày 31-1-1946, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 14, thành
lập Nha Thể dục Trung ương thuộc Bộ Thanh niên, tiền thân của ngành
TDTT ngày nay. Và ngày 27-3-1946, Người ký tiếp Sắc lệnh số 33, thành lập
Nha Thể dục Trung ương thuộc Bộ Quốc gia giáo dục. Cũng trong tháng 3-
1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục”,[3]
chỉ ra mục đích, tính chất của phong trào TDTT, của nền TDTT Việt Nam
mới. Tháng 5-1946, Người đích thân phát động phong trào “Khoẻ vì nước”
Những việc làm thiết thực trên cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh
ra nền TDTT của nước Việt Nam mới. Quá trình đi lên của TDTT nước nhà là
nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng một nền TDTT phát triển, tiến bộ có tính
dân tộc, khoa học và nhân dân.
Ngày nay TDTT không những giúp con người nâng cao sức khoẻ, phát
triển thể chất, cân đối về tầm vóc cơ thể, phòng ngừa bệnh tật góp phần giáo
dục các phẩm chất nhân cách, đáp ứng nhu cầu về học tập mà còn giúp tăng
cường tình đoàn kết giữa dân tộc và tạo các mối quan hệ hữu nghị hoà hợp
giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.

2



Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của TDTT đối với sức khoẻ
nhân dân, đối với vận mệnh của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi một
người dân khoẻ mạnh tức là làm cho cả nước mạnh khoẻ” [3]. Vì vậy ngành
TDTT cần quan tâm nhiều đến GDTC trong trường học, phong trào thể thao
quần chúng và thể thao thành tích cao.
Để thực hiện tư tưởng của Người, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới việc chăm
sóc và bồi dưỡng sức khoẻ cho nhân dân, đặt biệt là thế hệ trẻ những chủ nhân
tương lai của đất nước.
Từ ngày đất nước đổi mới và hội nhập đến nay, đã có nhiều môn thể
thao phát triển sâu rộng, mạnh mẽ, trong đó có môn “Bóng Đá”.
Bóng đá là một môn thể thao được quốc tế hoá phổ biến rộng khắp trên
thế giới được mọi người yêu thích, say mê. Bóng đá là môn thể thao “vua” bởi
tính hấp dẫn, lôi cuốn và đầy bất ngờ nên đã thu hút đông đảo quần chúng tham
gia tập luyện và thi đấu vì vậy, Bóng đá đã trở thành một hiện tượng xã hội.
Những năm gần đây, bóng đá Việt Nam đã có nhiều dịp so tài với bóng
đá của các nước phát triển trên thế giới và trong khu vực qua các trận giao
hữu, vòng loại World Cup, vòng loại Châu Á, đặc biệt là AFF Cup và
Seagames. Đội tuyển của chúng ta đã giành được những thành tích đáng kể
trong khu vực như huy chương bạc Seagame 18, Tiger Cup 98 và vừa qua đã
giành được chức vô địch AFF Cup lần đầu tiên. Tuy nhiên, bóng đá Việt Nam
muốn giữ được vị thế trong khu vực và vươn ra ngoài châu lục đòi hỏi các cầu
thủ phải luôn luôn cố gắng tập luyện, nâng cao trình độ về kỹ chiến thuật đặc
biệt là nâng cao trình độ về thể lực. Bóng đá là môn thể thao phức tạp cao
mang tính chất đối kháng, mọi hoạt động được diễn ra liên tục, điều đó chứng
tỏ cầu thủ bóng đá phải là người có nền tảng thể lực tốt để có thể duy trì mọi

3



hoạt động từ đầu trận tới cuối trận. Điều đó cho thấy, thể lực chính là vấn đề
mà ban huấn luyện và đội tuyển cần phải xem xét điều chỉnh. Huấn luyện viên
cần phải lựa chọn và sử dụng những giải pháp ưu Việt nhất để phát triển toàn
diện các tố chất thể lực, trong đó sức bền là một trong những thước đo quan
trọng của việc huấn luyện thể lực trong Bóng.
Đặc biệt trong bóng đá hiện đại ngày nay trận đấu diễn ra rất quyết liệt
và với tốc độ rất nhanh, các cầu thủ phải thường xuyên va chạm với nhau
trong các tình huống tranh chấp bóng, hầu như các cầu thủ xuất sắc trên thế
giới như: Maradona, Pele, Ronaldo, Messi đều có thể lực rất tuyệt vời. Họ
thường giành phần thắng trong những tình huống tranh chấp bóng tay đôi, có
thể dẫn bóng với tốc độ nhanh vượt qua đối thủ rất dễ dàng, hay những cú sút
cầu môn mà đối phương rất khó khăn trong việc cản phá Đội tuyển Việt
Nam thường thất thế trước các đội bóng có thể lực và ngoại hình to cao như:
Đội Singapore, Hàn quốc, Trung Quốc, Brazil do không thể bứt phá tranh
cướp bóng quyết liệt trong những pha bóng quyết định, cầu thủ bị kiệt sức
cuối hiệp đấu và cuối trận đấu.
Qua quan sát phong trào bóng đá của trường THPT Quỳnh Côi - Thái
Bình chúng tôi nhận thấy các em thường xuyên tham gia tập luyện thi đấu
môn bóng đá trong giờ học chính khóa cũng như hoạt động ngoại khóa.
Nhưng vấn đề thể lực chuyên môn của các em còn yếu, nhất là tố chất sức
bền, được thể hiện qua hoạt động di chuyển nhận bóng, những động tác chạy
(tốc độ, nước rút) dẫn bóng, tranh cướp bóng, sút cầu môn của các em giảm
sút dẫn đến không thể duy trì được tốc độ của trận đấu.
Trong nhiều năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về
bóng đá ở trong và ngoài nước. Qua quá trình nghiên cứu tài liệu chúng tôi thấy
có một số đề tài nghiên cứu về bóng đá như Nguyễn Thị Tâm – K33 trường
ĐHSP Hà Nội 2 [6]


4


Tuy nhiên, các đề tài chỉ nghiên cứu tổng quát về tố chất thể lực mà
chưa có đề tài nào đề cập đến phát triển sức bền trong bóng đá.
Trên cơ sở phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Lựa chọn và ứng dụng bài tập phát triển sức bền
trong bóng đá cho học sinh khối 11 trường THPT Quỳnh Côi - Thái Bình”
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thưc trạng thể lực trong bóng đá của học sinh khối
11 trường THPT Quỳnh Côi - Thái Bình, đề tài tiến hành lựa chọn và ứng
dụng một số bài tập nhằm phát triển sức bền trong bóng đá cho học sinh khối
11 trường THPT Quỳnh Côi - Thái Bình, từ đó tạo điều kiện cho các em tập
tập luyện và thi đấu đạt kết quả cao.
* Giả thiết khoa học
Nếu lựa chọn và ứng dụng bài tập phát triển sức bền trong bóng đá tốt
thì sẽ nâng cao được thể lực chuyên môn cho học sinh khối 11 trường THPT
Quỳnh Côi - Thái Bình. Tạo điều kiện cho các em tập luyện, thi đấu tốt và đạt
thành tích cao.










5



Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lịch sử phát triển môn Bóng đá
Bóng đá, còn gọi là túc cầu, là môn thể thao đồng đội chơi giữa hai đội,
mỗi đội có 11 cầu thủ. Trò chơi dùng quả bóng chơi trên sâncỏ hình chữ
nhật với hai khung thành ở hai đầu sân.
Mục tiêu của trò chơi là ghi điểm bằng cách đưa bóng vào khung thành
của đội đối địch. Ngoài thủ môn, các cầu thủ không được cố ý
dùng tay hoặc cánh tay để chơi bóng. Đội chiến thắng là đội ghi được nhiều
điểm hơn khi kết thúc trận đấu.
Bóng đá được chơi ở đẳng cấp chuyên nghiệp trên thế giới. Hàng triệu
người đến sân vận động để xem các trận bóng có đội mà họ yêu thích, và
hàng triệu người không thể đến sân vận động thì phải xem qua tivi. Ngoài ra,
còn rất nhiều người chơi môn thể thao này ở đẳng cấp nghiệp dư.
Theo một cuộc khảo sát của FIFA, một tổ chức quản lý bóng đá, công bố
năm 2001, có hơn 240 triệu người thường chơi bóng đá ở hơn 200 quốc
gia trên thế giới. Luật chơi đơn giản và dụng cụ thi đấu ít tốn kém dẫn đến sự
phát triển mạnh mẽ của trò chơi này. Ở nhiều nước, bóng đá có vai trò quan
trọng trong cuộc sống của người hâm mộ, trong cộng đồng địa phương hay cả
quốc gia; do đó có thể nói đây là môn thể thao phổ biến nhất thế giới.
Bóng đá do người Trung Quốc phát minh ra vào thế kỷ thứ 2 trước công
nguyên và gọi môn thể thao này là "cuju", vốn là một bài tập luyện của quân
đội nhà Hán thời đó. Các binh sĩ tranh giành nhau trái bóng bằng da, tìm cách
sút vào cầu môn làm bằng vải lụa có khoét lỗ. Mãi đến năm 2004,
FIFA mới chính thức công nhận Trung Quốc là "cái nôi" của bóng đá.
Nước Anh trong suốt thời gian dài vốn được mệnh danh là "quê hương của


6


bóng đá", trên thực tế đã đóng vai trò mấu chốt trong việc tôn vinh và phát
triển môn thể thao này.
Để phục vụ cho các trận cầu, người Trung Quốc cổ đã biết chế quả
bóng đá bằng da. Trái bóng được làm đầy bằng lông hoặc tóc.
1.2. Đặc điểm của môn Bóng đá
Bóng đá là môn thể thao đối kháng trực tiếp cao, các tình huống trên
sân rất đa dạng và phúc tạp đòi hỏi phải có ý chí chiến đấu cao, sự phối hợp
thông minh của cả một tập thể, sự đa dạng phong phú hấp dẫn của bóng đá
được thể hiện 3 đặc điểm lớn sau: tính tập thể, tính đối kháng, tính phức tạp.
1.2.1. Bóng đá là môn thể thao có tính tập thể cao
Trận đấu bóng đá được tiến hành trên một sân rộng với hai đội, mỗi đội
có 11 cầu thủ. Trong một đội bóng các cầu thủ rất quan trọng, một đội bóng
hay không thể thiếu những cầu thủ xuất sắc. Tuy nhiên không có bất cứ cầu
thủ nào đủ sức vượt qua không gian rộng lớn và sự cản phá quyết liệt của đối
phương để ghi bàn thắng. Điều đó đòi hỏi cầu thủ phải biết chơi có tổ chức,
biết phối hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau trong tấn công cũng như
trong phòng thủ vì mục đích chung của toàn đội là giành chiến thắng.
1.2.2. Bóng đá là môn thể thao có tính đối kháng cao
Trong thi đấu đội nào cũng muốn giành chiến thắng. Vì vậy, các đội bóng
thường sử dụng mọi biện pháp trong khuân khổ luật cho phép để tiến hành tấn
công cũng như phòng thủ. Có thể nói trận đấu bóng đá là cuộc đấu ý chí, đấu trí,
đấu lực, đấu về trình độ kỹ chiến thuật giữa hai đội, cuộc đấu này lại được tiến
hành trong thời gian dài với sự đối kháng của các cầu thủ. Do đó có thể nói tính
chiến đấu thể hiện trong trận đấu rất cao, đội nào thể hiện sự vượt trội về mọi
mặt mới có thể làm chủ trận đấu và giành chiến thắng. Tính chiến đấu cao của
bóng đá là một trong những yếu tố quan trọng hấp dẫn mọi lứa tuổi.


7


1.2.3. Bóng đá là môn thể thao có tính phức tạp
Một đặc điểm rất đặc biệt của môn bóng đá là cầu thủ không được dùng
tay chơi bóng (trừ thủ môn trong khu vực cho phép) mà chủ yếu là dùng chân
hoặc các bộ phận khác để điều khiển quả bóng. Hai đặc tính này đã nói lên
phần nào đặc tính phức tạp của bóng đá. Chân và các bộ phận khác của cơ thể
(đầu, vai, ngực) là các bộ phận ít linh hoạt, nhưng trong bóng đá không chỉ
thực hiện chức năng vốn có của nó mà còn được dùng để thực hiện nhiệm vụ
quan trọng là điều khiển trái bóng. Một vật thể rất linh hoạt, với các yêu cầu
phức tạp.
Sự đối kháng cao trong thi đấu cũng là một yếu tố tạo nên tính phức tạp,
trong quá trình thực hiện các hoạt động luôn bị đối phương cản trở tấn công.
Trong thi đấu vô vàn tình huống xảy ra các cầu thủ phải giải quyết tức
thời, mà trong thực tế các tình huống đó diễn ra rất đa dạng và không hề lặp
lại. Đây là điều vô cùng khó khăn và đồng thời vô cùng hấp dẫn của bóng đá.
Bóng đá ngày càng phát triển, yêu cầu đối với cầu thủ ngày càng cao.
Để đáp ứng những yêu cầu đó thì trong mỗi cầu thủ phải biết vận dụng một
cách linh hoạt, sáng tạo và hợp lý các kỹ chiến thuật cả trong tấn công cũng
như trong phòng thủ.
1.3. Đặc điểm của các tố chất thể lực trong bóng đá
Bóng đá là môn thể thao phức tạp, các tình huống trên sân luôn đa dạng
nên để đáp ứng được điều đó thi đòi hỏi có sự trang bị đầy đủ các tố chất thể
lực như: sức nhanh sử dụng trong các động tác di chuyển với tốc độ cao khi
có bóng hoặc không bóng, sức mạnh trong động tác nhanh cướp bóng, sút cầu
môn… sức bền để đảm bảo thể lực trong suốt trận đấu, mềm dẻo và khéo léo
để xoay trở trong phạm vi hẹp thoát ra khỏi sự đeo bám của đối phương.
Trong đó tố chất sức bền đóng vai trò rất quan trọng và nó được coi là thước
đo cho trình độ huấn luyện thể lực.


8


1.4. Cơ sở lý luận của sức bền
Sức bền là năng lực thực hiện một hoạt động với cường độ cho trước,
hay là năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể
có thể chịu đựng được. Nói cách khác, sức bền là năng lực của cơ thể chống
lại mệt mỏi trong một hoạt động nào đó.
Như vậy khái niệm sức bền luôn luôn liên quan đến khái niệm mệt mỏi.
Khái niệm: Mệt mỏi là sự giảm sút tạm thời khả năng vận động hoặc
hoạt động do sự vận động (hoặc hoạt động) gây nên. Khi thực hiện một hoạt
động liên tục và tương đối căng thẳng nào đó thì sau một thời gian con người
sẽ thấy việc tiếp tục ngày càng khó khăn hơn. Trong một thời gian nhất định,
mặc dù khó khăn tăng lên, nhưng cường độ hoạt động vẫn được duy trì ở mức
ban đầu nhờ sự nỗ lực của ý trí. Trạng thái mệt mỏi chưa làm giảm sút khả
năng vận động đó được gọi là giai đoạn mệt mỏi có bù. Đến một thời điểm
nào đó, do mệt mỏi mà cơ thể không thể hoạt động với cường độ như trước,
khả năng vận động giảm sút tức là xuất hiện giai đoạn mệt mỏi mất bù. Như
vậy khi nói mệt mỏi là sự giảm sút tạm thời khả năng vận động thì có ngụ ý
nói đến mệt mỏi mất bù.
Tùy theo hoạt động của các hình thức hoạt động mà các dạng loại mệt
mỏi khác nhau: mệt mỏi trí óc, mệt mỏi cảm giác, mệt mỏi cảm xúc, mệt mỏi
thể lực. Trong các hoạt động TDTT, sự biểu hiện của mệt mỏi cũng đa dạng,
bao gồm các loại mệt mỏi khác nhau nói trên. Song mệt mỏi thể lực do hoạt
động cơ bắp gây nên là chính.
Vận động của con người rất đa dạng và trong mỗi dạng vận động khác
nhau thì tính chất và cơ chế của sự mệt mỏi cũng sẽ khác nhau. Căn cứ vào số
lượng nhóm cơ tham gia hoạt động, người ta phân biệt mệt mỏi chung và mệt
mỏi tương đối cục bộ. Hoạt động cục bộ không đòi hỏi sự hoạt động tích cực

của hệ thống tim - mạch và hệ thống hô hấp. Nguyên nhân chính gây mệt mỏi

9


trong hoạt động cục bộ nằm trong các khâu của hệ thần kinh - cơ trực tiếp bảo
đảm thực hiện động tác. Trong những hoạt động có hơn 2/3 số lượng cơ tham
gia thì nguyên nhân của sự mệt mỏi là chủ yếu ở các cơ quan bảo đảm năng
lượng cho hoạt động, nhất là hệ tuần hoàn và hô hấp. Vì vậy, người có sức
bền tốt trong hoạt động cục bộ nào đó chưa chắc đó phải là có sức bền tốt
trong các bài tập có tác động chung.
Khi nói đến sức bền trong hoạt động TDTT, chủ yếu người ta nói đến
sức bền trong các bài tập đòi hỏi hầu hết trong các nhóm cơ tham gia hoạt
động như chạy, bơi, đá bóng Trong các loại bài tập này, cơ chế mệt mỏi
(cũng chính là cơ chế sức bền) cũng khác nhau tùy thuộc vào cường độ tập
luyện bài tập. Cùng một loại bài tập nhưng được thực hiện với cường độ khác
nhau thì thời gian thực hiện sẽ rất khác nhau, có thể dao động từ một vài chục
giây đến một vài giờ. Thí dụ, tốc độ chạy càng lớn, thời gian duy trì tốc độ đó
càng ngắn và ngược lại. Trong một số bài tập có cường độ khác nhau thì cơ
chế mệt mỏi (cũng chính là cơ chế của sức bền) sẽ rất khác nhau.
Sức bền trong vận động thể lực bị chi phối bởi rất nhiều nhân tố. Do đó để
phát triển sức bền, phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ nhằm hoàn thiện và nâng
cao những nhân tố đó. Trong số những nhân tố chi phối sức bền phải kể đến:
- Kỹ thuật thể thao hợp lý, bảo đảm phát huy được hiệu quả và đồng
thời tiết kiệm được năng lượng trong khi vận động.
- Năng lực duy trì trong thời gian dài trạng thái hưng phấn của các
trung tâm thần kinh.
- Khả năng hoạt động cao của hệ tuần hoàn và hô hấp;
- Tính tiết kiệm của các quá trình trao đổi chất;
- Cơ thể có nguồn năng lượng lớn;

- Sự phối hợp hài hòa trong hoạt động của các chức năng sinh lý;
- Khả năng chịu đựng chống lại cảm giác mệt mỏi nhờ những nỗ lực ý chí.

10


- Nâng cao sức bền thực chất là quá trình làm cho cơ thể thích nghi dần
dần với lượng vận động ngày càng lớn. Điều này này một mặt đòi hỏi người
tập phải có ý chí kiên trì, chịu đựng những cảm giác mệt mỏi đôi khí rất nặng
nề và cảm giác nhàm chán do tính đơn điệu của bài tập. Mặt khác, đòi hỏi
phải có sự tích lũy, thích nghi dần dần và kéo dài liên tục trong nhiều năm.
- Nâng cao sức bền chung là cơ sở để nâng cao sức bền chuyên môn và
nâng cao năng lực vận động của cơ thể nói chung.
- Tập luyện có hệ thống sẽ nâng cao được sức bền một cách đáng kể.
Để đáp ứng được nhu cầu huấn luyện thể lực trong bóng đá đòi hỏi việc
sử dụng các phương pháp, các bài tập giáo dục năng lực sức bền sao cho phù
hợp. Ngày nay, người ta thường sử dụng các bài tập với lực đối kháng với mức
độ cơ năng khác nhau. Đặc điểm của những phương pháp cơ bản để giáo dục
sức bền với mức độ căng cơ tối đa có thể tạo nên bằng nhiều cách khác nhau.
- Khắc phục lực đối kháng chưa tối đa với số lần lặp lại giới hạn.
- Khắc phục lực đối kháng với tốc độ giới hạn.
- Sử dụng các bài tập với trọng lượng chưa tối đa với số lần lặp lại
giới hạn.
- Sử dụng các bài tập giới hạn và gần giới hạn.
- Sử dụng các bài tập tĩnh trong giáo dục sức bền.
- Các bài tập này ít được sử dụng vì nó đem lại hiệu quả thấp hơn so với
các bài tập trước.
Từ những bài tập nêu trên với việc sử dụng các phương pháp phù hợp
với đặc điểm của từng người, từng buổi tập và từng giai đoạn khác nhau trong
quá trình huấn luyện sẽ đem lại hiệu quả hơn trong quá trình huấn luyện.

1.5. Những vấn đề huấn luyện thể lực trong huấn luyện thể thao
Trong những bộ phận cấu thành của TDTT xã hội chủ nghĩa, thể thao
thành tích cao phản ánh nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của nhân

11


dân, đồng thời cũng phản ánh sự phát triển về kinh tế xã hội của một quốc gia.
Khát vọng vươn tới những đỉnh cao mới mở rộng khả năng của con người
thông qua thể thao thành tích cao, mở rộng giao lưu văn hoá, thắt chặt tình
hữu nghị và nâng cao uy tín giữa các dân tộc và các quốc gia với nhau. Thành
tích thể thao phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quá trình tuyển chọn, huấn luyện
và đào tạo tài năng trẻ, chế độ kinh tế chính trị xã hội
Trong những năm gần đây Việt Nam đã có những bước tăng trưởng về
kinh tế, xã hội ổn định. Nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, ngành
TDTT đặc biệt là thể thao thành tích cao của chúng ta đã đạt được những
thành tích đáng kể so với các nước trong khu vực. TDTT của nước ta luôn
đứng trong tốp 3 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Seagame lần thứ 22
năm 2003 được tổ chức tại Việt Nam là cơ hội để chúng ta khẳng định mục
tiêu đứng trong tốp 3 quốc gia trong khu vực.
Trong thể thao hiện đại bất kỳ môn thể thao nào thì công tác huấn luyện
thể lực cũng được coi là quan trọng nhất, bởi vì thể lực nói chung và thể lực
chuyên môn nói riêng là nền tảng để đạt được thành tích thể thao cao nhất.
Quá trình đào tạo, huấn luyện tốt các tố chất thể lực chung phải diễn ra
liên tục trong suốt quá trình đào tạo VĐV. Quá trình này phụ thuộc vào mục
đích của các giai đoạn huấn luyện, các chu kỳ huấn luyện trong đó tỷ lệ giữa
huấn luyện thể lực chung và huấn luyện thể lực chuyên môn phải phù hợp với
các bài tập thể lực. Các phương pháp sử dụng trong huấn luyện phải phù hợp
với quy luật của đối tượng về lứa tuổi, giới tính, trình độ chuẩn bị thể lực
chung, kỹ chiến thuật tâm lý. Thông thường các tố chất thể lực được chia làm

5 loại: sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo và khéo léo.
+ Huấn luyện thể lực chung.
Trong huấn luyện thể thao, huấn luyện thể lực chung nhằm phát triển
cho VĐV một cách toàn diện về tất cả các tố chất thể lực như: sức nhanh, sức

12


mạnh, sức bền, mềm dẻo và khéo léo. Khả năng làm việc của tất cả các cơ
quan, chức phận của cơ thể được hoàn thiện sẽ làm cho VĐV tiếp nhận được
khối lượng vận động lớn. Điều này sẽ dẫn đến mức độ phát triển cao hơn của
các tố chất thể lực. Như vậy quá trình phát triển thể lực nói chung có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng trong việc giáo dục phẩm chất tâm lý và ý chí, vì trong quá
trình thực hiện các bài tập phát triển chung VĐV đã vượt qua những khó khăn
ở những mức độ khác nhau do thực hiện các bài tập mang lại.
Nhiệm vụ cơ bản của quá trình chuẩn bị thể lực chung là phải đạt được
khả năng làm việc của các cơ quan chức phận ở mức độ cao mà không phụ
thuộc vào bất kỳ môn thể thao nào. Quá trình chuẩn bị thể lực chung cho
VĐV nhờ vào hệ thống các bài tập của các môn thể thao. Vai trò quan trọng
trong quá trình chuẩn bị thể lực chung là việc lựa chọn các bài tập cơ thể phải
phát huy một khối lượng lớn cơ bắp, các cơ quan chức phận của cơ thể tham
gia hoạt động. Tuy nhiên cũng cần lựa chọn một số bài tập nhằm phát triển
một số cơ nhất định, một số bộ phận nào đó của cơ thể để sự phát triển tổng
hợp của các bộ phận hoặc các tố chất vận động này sẽ có tác dụng làm tăng
cường khả năng thể chất nói chung của VĐV. Ngoài ra huấn luyện thể lực
chung còn củng cố được những điều còn yếu trong cơ thể, những cơ quan
chậm phát triển.
Các bài tập phát triển chung được chia làm 2 nhóm thông qua tác dụng
và hướng đích của chúng.
- Nhóm phát triển thể lực chung trực tiếp: là những bài tập có động tác

trực tiếp vào quá trình hoàn thiện tố chất cho VĐV.
- Nhóm phát triển thể lực chung gián tiếp: là những bài tập hướng tới
việc nâng cao khả năng làm việc của các cơ quan chức phận một cách gián
tiếp nhóm bài tập này có giá trị nâng cao trình độ tập luyện của VĐV.


13


+ Huấn luyện thể lực chuyên môn
Huấn luyện thể lực chuyên môn là việc hướng tới củng cố và nâng cao
khả năng làm việc của các cơ quan chức phận các tố chất vận động thích hợp
với đòi hỏi của chuyên môn thể thao lựa chọn.
Cơ sở thể lực chuyên môn được hình thành và phát triển trên cơ sở tự phát
triển thể lực chung. Như vậy huấn luyện thể lực chung là nền tảng hình thành
nên các tố chất thể lực chuyên môn sau này, quá trình huấn luyện thể lực
chuyên môn có thể thực hiện theo 2 cách đối lập với các môn thể thao không
có chu kỳ.
- Lặp lại nhiều lần các hoạt động chính đặc trưng của môn thể thao lựa chọn.
- Lặp lại nguyên vẹn các bài tập thi đấu của môn thể thao đó.
Sự lựa chọn đúng các bài tập có ý nghĩa lớn đối với các môn thể thao
không chu kỳ. Khi lựa chọn không đúng các bài tập hình thành và phát triển
các bài tập chuyên môn cơ sở dẫn đến sai lầm chuyên môn trong các cơ quan
chức phận, điều này làm ảnh hưởng đến việc phát triển thành tích của VĐV.
Giáo dục các tố chất thể lực là một vấn đề rất quan trọng trong cách
huấn luyện VĐV bao gồm: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, mềm dẻo và khéo
léo. Tuy nhiên mỗi tố chất thể lực cần phải tuân thủ các nguyên tắc riêng của
nó. Trong bóng đá thành tích của VĐV phụ thuộc rất nhiều vào tố chất thể lực
chuyên môn đặc biệt là sức bền. Chính vì vậy, sự hình thành và phát triển một
cách đầy đủ các tố chất thể lực chuyên môn đặc biệt là sức bền là điều cần

thiết. Trong đề tài này quan tâm đến “sức bền” trong tập luyện cho học sinh
khối 11 trường THPT Quỳnh Côi - Thái Bình.
* Vai trò và ý nghĩa của tố chất thể lực nói chung và sức bền nói riêng
trong bóng đá
Ngày nay, phong trào TDTT càng được quan tâm và phát triển, để đạt
được kết quả cao trong tập luyện và thi đấu với VĐV thì vấn đề thể lực bao

14


giờ cũng được quan tâm và đặt lên hàng đầu trong công tác huấn luyện
TDTT.
Để đạt được thành tích trong thi đấu thể thao thì VĐV ngoài việc trang
bị cho mình về mặt tâm lý kỹ chiến thuật thì vấn đề thể lực là yếu tố quan
trọng quyết định đến thành tích của VĐV khi khoảng cách kỹ chiến thuật
ngày càng được thu hẹp thì yếu tố thể lực sẽ quyết định đến sự thành bại trong
thi đấu.
Ngày nay, các trận bóng đã diễn ra với nhịp độ cao. Thể lực đóng vai
trò quyết định đến sự hoàn thành tốt nhiệm vụ của VĐV về kỹ chiến thuật mà
ban huấn luyện đã đề ra.
Xu hướng phát triển của bóng đá hiện đại mang tính chất tổng lực đòi
hỏi VĐV phải hoàn thành khối lượng vận động lớn như: chạy tốc độ, các kỹ
thuật sút bóng sử dụng hàng loạt các động tác kỹ thuật tranh cướp bóng với
đối phương. Nếu các cầu thủ không được trang bị thể lực tốt sẽ ảnh hưởng
đến kết quả thi đấu.
Chính vì vậy mà trong công tác huấn luyện bóng đá ngoài việc trang bị
tốt cho cầu thủ về mặt kỹ chiến thuật, các huấn luyện viên cần quan tâm đến
việc huấn luyện thể lực cho VĐV, thông qua việc huấn luyện thể lực phát triển
toàn diện các tố chất: sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khéo léo và mềm dẻo.
* Vai trò và ý nghĩa của sức bền trong bóng đá

Sức bền là một trong những tố chất quan trọng của các cầu thủ bóng đá,
là yếu tố dẫn đến sự thành công. Có thể nói bóng đá là hoạt động trong sức
bền như di chuyển không bóng rồi các động tác phức tạp như: tranh cướp, cản
phá bóng, sức mạnh cơ và căng cơ cao. Mọi hoạt động trong bóng đá đều cần
đến sức bền như: chuyền bóng, đánh đầu, sút bóng Trong một trận đấu căng
thẳng các tinh huống diễn ra trên sân đòi hỏi các cầu thủ phải thực hiện các
động tác một cách chính xác, nhanh mạnh.

15


Khi cầu thủ thực hiện kỹ thuật hầu như có sự tham gia của các nhóm cơ
tạo nên sức mạnh tổng hợp. Từ góc độ sinh cơ học thì việc gập duỗi các khớp
của cẳng chân là một đòn bẩy tốc độ khi co cơ bột phát sẽ làm cho các bộ
phận cơ thể chuyển động tác động một lực vào trái bóng làm trái bóng di
chuyển. Như vậy muốn thực hiện được kỹ thuật tốt thì đòi hỏi cầu thủ phải có
sức bền. Ngoài ra sức bền còn tạo ra tính đột phá bất ngờ trong thi đấu.
Sức bền là tố chất rất quan trọng của cầu thủ bóng đá, là một yếu tố dẫn
đến thành công. Bóng đá là môn thể thao thi đấu đồng đội có tính đối kháng
trực tiếp cao, có đặc điểm xuất phát nhanh, dừng đột ngột, bật nhảy, tạo ra sự
bất ngờ cho việc ghi bàn chuyền bóng đánh đầu, đột phá cá nhân có tính càn
lướt, ngay cả trong động tác phòng thủ cũng đòi hỏi sức bền cao. Vì vậy, có
thể nói sức bền có vai trò quan trọng để VĐV có thể thực hiện tốt các động
tác kĩ thuật trong bóng đá.
Là một tố chất quan trọng của VĐV bóng đá, sức bền tạo ra cho VĐV
đủ năng lực thực hiện ý đồ chiến thuật trong tập luyện và thi đấu, tạo ra sự bất
ngờ cho đối phương, nâng cao hiệu quả thành tích thi đấu.
Ngày nay, xu hướng phát triển bóng đá hiện đại mang tính chất tổng
lực đòi hỏi VĐV phải hoàn thành khối lượng vận động như: chạy tốc độ sử
dụng hàng loạt các động tác tranh cướp bóng với đối phương …. Vì vậy, thể

lực trong bóng đá không phải là một trạng thái thể lực bình thường, nó không
giống một số môn thể thao khác, nếu cầu thủ không có thể lực tốt sẽ không
hoàn thành nhiệm vụ được sẽ ảnh hưởng đến kế quả thi đấu của đội.
Chính lý do này trong công tác huấn luyện bóng đá, ngoài việc trang bị tốt
cho cầu thủ về mặt kỹ thuật, các huấn luyện viên cần chú trọng vấn đề thể lực,
thông qua việc huấn luyện thể lực có thể tăng cường sức khoẻ cho VĐV phát triển
toàn diện các tố chất: sức mạnh, nhanh, bền…. Nâng cao hoạt động của cơ thể.
Như vậy sức bền là một trong nhưng yếu tố quan trọng hàng đầu trong
tập luyện, thi đấu và nâng cao thành tích bóng đá. Chính vì vậy mà nhiều

16


chuyên gia, huấn luyện viên bóng đá nổi tiếng đều coi trọng sức bền cho
VĐV của mình.
1.6. Những điều cần chú ý khi xây dựng bài tập phát triển sức bền cho
học sinh khối 11
Bóng đá là môn thể thao đối kháng trực tiếp. Do vậy, mà tình huống
diễn ra liên tục trong khoảng thời gian rất ngắn, luôn thay đổi đòi hỏi các cầu
thủ phải thực hiện các động tác cũng như xử lý nhanh các tình huống xảy ra.
Vì thế việc giáo dục huấn luyện nhằm phát triển sức bền trong môn bóng đá
rất cần thiết.
Để đạt được thành tích thể thao cao, người ta phải sử dụng các phương
pháp, phương tiện khác nhau mà trước hết phải kể đến bài tập thể chất là
phương tiện quan trọng nhất nhằm nâng cao thành tích thể thao. Các bài tập
thể chất phải phù hợp với mục đích, nhiệm vụ quá trình huấn luyện và không
được sử dụng một cách tùy tiện. Các bài tập thể chất phải được sử dụng một
cách phù hợp để nâng cao thành tích cho từng môn thể thao khi thi đấu, kỹ
thuật thi đấu phải phù hợp với yêu cầu của cấu trúc thành tích lâu dài, khả
năng chịu đựng lượng vận động phải được nâng cao một cách liên tục, thành

tích thể thao phải được phát triển một cách nhanh chóng, sử dụng lượng vận
động và quãng nghỉ một cách hợp lý.
Các bài tập thể chất được sử dụng trong quá trình huấn luyện được
phân loại theo từng quan điểm khác nhau. Dựa trên cơ sở đặc điểm riêng về
lượng vận động hoặc hình thái bên ngoài của quá trình vận động tất cả các bài
tập có chênh lệch ít hoặc nhiều so với động tác thi đấu chuyên môn. Bởi vậy
việc phân loại không những cần phải chú ý đến sự khác nhau trong hình thức
và quá trình vận động mà còn phải chú ý đến sự khác nhau trong đặc điểm và
lượng vận động.

17


Theo lý luận và phương pháp huấn luyện chung, các bài tập thể chất
được chia làm 3 loại chính: Bài tập phát triển chung, bài tập chuyên môn và
các tập thi đấu.
- Các bài tập phát triển chung: Là các bài tập được rút ra từ các môn thể
thao khác nhau, các bài tập thể lực cơ bản có hoặc không có dụng cụ. Các bài tập
phát triển chung không mang các yếu tố của động tác thi đấu. Việc đánh giá quá
trình huấn luyện thể thao trong các môn thể thao khác nhau đòi hỏi phải sắp xếp
một cách chặt chẽ các bài tập huấn luyện chuyên môn và huấn luyện chung.
- Bài tập thi đấu: Là loại hình có động tác có quá trình chuyển động và
đặc điểm riêng biệt về lượng vận động phù hợp với yêu cầu thi đấu chuyên
môn của môn thể thao mà VĐV chuyên môn hoá.
Các bài tập chuyên môn chìa làm 2 nhóm
+ Nhóm 1: Gồm các bài tập có quá trình chuyển động gần giống bài tập
thi đấu nhưng đặc điểm vận động lại khác bài tập thi đấu hay chứa các yếu tố
riêng lẻ.
+ Nhóm 2: Bao gồm các bài tập của quá trình chuyển động riêng biệt,
của kỹ thuật thể thao và yêu cầu một trong nhiều nhóm cơ sở hoạt động như

khi thực hiện động tác thi đấu.
1.7. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi lớp 11 (16 - 17 tuổi)
1.7.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 16 - 17
Ở giai đoạn này các em có những bước phát triển nhảy vọt cả về thể
chất lẫn tinh thần. Biểu hiện là đã có những bước phát triển từ tuổi thơ ấu
sang tuổi trưởng thành, lứa tuổi này các em ở ngưỡng không hẳn là người lớn
cũng không hẳn là trẻ con.
Giai đoạn này các em đã hình thành những phẩm chất mới về trí tuệ,
tình cảm, đạo đức, phong cách, thái độ và các công việc được giao. Sự phát
triển của các em trong giai đoạn này tương đối phức tạp, tâm lý của các em có
biến đổi mâu thuấn với nhau xuất hiện nhiều đột biến.

18


Biểu hiện cơ bản nhất là ở tuổi dậy thì và quan trọng hơn cả là sự hình
thành và phát triển bộ máy sinh dục, các chức năng sinh lý mới xuất hiện,
tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động mạnh mẽ biểu hiện ngoài bằng các dấu hiệu
phụ như giọng nói, tính cách. Sự phát triển này phần nào ảnh hưởng đến cá tính
của các em, tình cảm rất sâu sắc, dễ bị kích động, xúc động khi khiến cho bản
thân không tự kìm chế nổi mình. Đôi khi bản chất kích động mạnh làm cho các
em dễ dẫn đến không làm chủ được bản thân. Học tập rất miệt mài hăng say
nhưng hay chán nản khi không thực hiện, hoàn thành được nhiệm vụ.
Sự phát triển thân thể của các em đột ngột như chiều cao, cân nặng, hệ
xương được cốt hoá và phát triển mạnh. Hệ thần kinh cũng dần được hoàn
thiện và phát triển. Sự mất thăng bằng giữa tim và mạch máu, dung tích của
tim cũng tăng lên gấp đôi so với lứa tuổi trước, nhưng dung tích của mạch
máu chỉ tăng lên 1,5 lần. Hệ tuần hoàn tạm thời bị rối loạn gây lên hiện tượng
thiếu máu cục bộ ở một số bộ phận trên vỏ não làm cho các em trong quá
trình tập luyện rất dễ mệt mỏi chán tập, thần kinh không ổn định, dễ xúc

động, dễ kích động làm cho các phản xạ giữa hưng phấn và ức chế không ổn
định, có lúc hưng phấn mạnh hơn, có lúc ức chế lại lấn át hưng phần làm cho
các em có nhiều khi mất tự chủ bản thân.
Cùng với sự phát triển về sức nhanh và sức mạnh trong cơ bắp khiến
trong hoạt động có nhiều động tác thừa, lóng ngóng và vụng về, sai lệch về
biên độ và kỹ thuật động tác. Đây chỉ là dấu hiệu khó khăn tạm thời của sự phát
triển. Trong quá trình học tập các em rất thích được giao công việc cụ thể, thích
được khen ngợi, biểu dương và có xu hướng bắt chước học tập người lớn.
1.7.2. Đặc điểm sinh lý của lứa tuổi 16 - 17
Đặc điểm quan trọn trong tập luyện và huấn luyện các em ở giai đoạn
này là cả một quá trình huấn luyện diễn ra trong một cơ thể đang phát triển và
trưởng thành làm cho quá trình hết sức phức tạp. Do vậy yêu cầu người huấn
luyện viên, người lập kế hoạch phải nắm được các đặc điểm sinh lý của lứa

19


tuổi. Cần có sự phối hợp hợp lý giữa lượng vận động và thi đấu và nghỉ ngơi
trong sự phát triển sinh lý của các em ở giai đoạn này.
Trong giai đoạn này khả năng vận động của các em đều tuân theo đặc
điểm lứa tuổi, việc thích nghi và ổn định ở lứa tuổi này bao giờ cũng kém hơn
so với tuổi trưởng thành, giai đoạn mệt mỏi ở các em thường xuyên xuất hiện
sớm. Chính vì vậy, nếu ta sử dụng lượng vận động cực đại sẽ không đảm bảo
cho sự thích nghi và phát triển thành tích ở các em mà làm cho các em bị cạn
kiệt năng lượng dự trữ của cơ thể dẫn đến hiện tượng rối loạn bệnh lý.
Trong giai đoạn mệt mỏi khả năng vận động và các chỉ số khác nói
riêng như tần số động tác, sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ chính xác của
động tác giảm rõ rệt so với người trưởng thành.
Sự mệt mỏi của các em diễn ra ngay cả khi các môi trường bên trong cơ
thể chỉ có sự biến đổi nhỏ. Dẫn đến quá trình hồi phục sau lượng vận động bị

ảnh hưởng như:
- Sau các bài tập yếm khí, thời gian ngắn thì sự hồi phục sau lượng vận
động nhanh hơn tuổi trưởng thành.
- Sau các bài tập kéo dài phát triển sức bền và thể hiện rõ hơn là các bài
tập lặp lại tăng dần về công suất hoặc rút ngắn quãng nghỉ thì khả năng hồi
phục sau vận động lại kém hơn tuổi trưởng thành.
Xuất phát từ những vấn đề tâm sinh lý lứa tuổi này mà trong công tác
huấn luyện các em ở giai đoạn này cần phải có sự quan tâm thích hợp và phù
hợp với lượng vận động, bài tập phải phù hợp sao cho quá trình tập luyện của
các em không có những ảnh hưởng tới sự phát triển chức năng của cơ thể.
1.7.3. Đặc điểm giải phẫu của lứa tuổi 16 - 17
* Hệ vận động
- Xương: Lứa tuổi của các em trong giai đoạn này về xương có những
bước phát triển nhảy vọt cả về chiều dài và độ dày của xương. Tính đàn hồi
có xu hướng giảm do lượng canxi, phốt pho trong xương tăng lên. Do đó

×