Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Nguyễn du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc đặc biệt là ẩn dụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.17 KB, 4 trang )

Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ
của văn học dân tộc đặc biệt là ẩn dụ
October 30, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THCS - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Giáo sư Đặng Thanh Lê có viết: “'Nguyễn Du có
biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân
tộc, đặc biệt là ẩn dụ? Hãy phân tích một số câu, một số
đoạn trong Truyện Kiều để làm sáng tỏ nhận xét trên.
“Truyện Kiều” của thi hàơ dân tộc Nguyễn Du là kiệt tác trong nền văn học cổ Việt Nam. Tuy mượn đề
tài, cốt truyện từ “Kim-Vân-Kiều Truyện” của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) nhưng áng thơ dài
3254 câu thơ lục bát này đậm đà bản sắc đân tộc, chứa chan một tình nhân ái bao la “rung động đất
trời” (Tố Hữu).
Về phương diện nghệ thuật, truyện thơ này là mẫu mực và đỉnh cao về ngôn ngữ thi ca và xây dựng
nhân vật. Đọc “Truyện Kiều”, ta cảm nhận một cách sâu sắc . “Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các
biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ mà giáo sư Đặng Thanh Lê đã nhận xét.
Khi tả cảnh cũng như lúc tả người, tả tình, với cá tính sáng tạo của một thiên tài, Nguyễn Du đã vận
dụng nhiều biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt tả ẩn dụ làm cho câu thơ, đoạn thơ đầy hình
tượng và biểu cảm.
1. Nguyễn Du có biệt tài về vận dụng biện pháp tu từ của văn học dân tộc
a. Mùa xuân về tưng bừng trong ngày hội “Đạp Thanh” của tuổi trẻ. Ba chị em Kiều cũng “sắm sửa bộ
hành chơi xuân”. Khắp các ngả đường, dòng người trây hội kéo dài vô tận:
“Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.”
Đằng biện pháp tu từ hoán dụ (ngựa xe, áo quần), so sánh (… như nước … như nêm) và đối (2 vế câu 8
đối nhau) nhà thơ đã tái hiện cảnh trẩy hội mùa xuân tấp nập, đông vui, rộn ràng của giai nhân, tài tử.
b. Đây là hai câu tỏ tình của chàng Kim:
“Tiện đây xin một hai điều,
Đài sen soi đến dấu bèo cho chăng?”
“Dấu bèo” (ẩn dụ) chỉ kẻ tầm thường, thấp hèn. Kim Trọng khiêm tốn, nhún mình. “Đài sen” (ẩn dụ)
chỉ con người cao quý, được trân trọng. “Đài sen soi đến…” (nhân hóa): lời tỏ tình tế nhị. Chàng Kim
hào hoa, đa tình biểu lộ một tâm tình say đắm người đẹp, bày tỏ một tấm lòng khao khát yêu đương.
Cách tỏ tình vừa hoa mỹ vừa truyền cảm.


c. “Trước lầu Ngưng Bích” là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong “Truyện Kiều. Tác giả vận dụng
tài tình các biên pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ,… để viết nên những vần thơ tuyệt diệu. Điệp
ngữ “Buồn trông” đứng ở đầu câu sáu, láy lại bốn lần liên tiếp, khơi gợi nỗi sầu thương nặng trĩu, triển
miên, day dứt trong lòng Kiều. Cửa bể chiều hôm hoang vắng, xa lạ, mịt mờ với con thuyển và cánh
buồm, ngọn nước mới sa và hoa trôi man mác, nội cỏ dầu dầu và chân mây, mặt đất,… gió cuốn và ầm
ầm tiếng sóng – là những hình ảnh ẩn dụ và hoán dụ đặc tả một kiếp người lưu lạc đang lênh đênh, trôi
dạt trên dòng đời vô định đầy bão tố, với tâm trạng sợ hãi, cô đơn và tuyệt vọng. Ngoại cảnh hòa hợp
với tâm cảnh:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
2. Nguyễn Du có biệt tài… đặc biệt là ẩn dụ
Ẩn dụ là lối ví ngầm. Xưa nay, đoạn thơ tả tài sắc hai chị em Kiều vẫn được nhiều người tán thưởng.
Bức chân dung “hai ả tố nga” vô cùng xinh đẹp, một vẻ đẹp thanh tân, tuyệt mĩ:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.”
Thúy Kiều và Thúy Vân cốt cách, yểu điệu như “mai”, tinh thần trắng trong như “tuyết”; từ dáng vẻ,
dung nhan đến tâm hồn đều kiều diễm “mười phân vẹn mười”. Hai hình ảnh ẩn dụ “Mai cốt cách, tuyết
tinh thần” là những nét vẽ tài hoa, có giá trị thẩm mỹ tinh tế.
Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ đặc biệt là ẩn dụ
Bốn câu thơ tiếp theo tả sắc đẹp Thúy Vân. Gương mặt đầy đặn xinh tươi như vầng trăng rằm, lông
mày thanh tú xinh xắn như “mày ngài”, miệng cười tươi như “hoa”, tiếng nói trong như “ngọc”, tóc
mềm bóng đẹp hơn “mây”, da trắng mịn hơn “tuyết”. Trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết,… tiêu biểu cho vẻ
đẹp của thiên nhiên được ví với gương mặt, nụ cười, giọng nói, mái tóc, màu da … của giai nhân. Cách
miêu tả ấy tuy mang tính chất ước lệ, nhưng ngòi bút “thần” của Tố Như đã viết nên những cảu thơ có

hình ảnh ẩn dụ hấp dẫn lạ thường:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang.
Mây thua nước tốc, tuyết nhường màu da.”
Nếu Vân là một giai nhân thì Kiều là một giai nhân tuyệt thế, mặn mà, sắc sảo tài sắc vẹn toàn. Nguyễn
Du đã sử dụng biện pháp ẩn dụ – nhân hóa gợi tả vẻ đẹp mộng mơ của Thúy Kiều. Mắt nàng trong như
nước mùa thu. Lông mày xinh xắn như dáng núi mùa xuân… Sắc đẹp ấy làm cho hoa phải “ghen”, liễu
phải “hờn”:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Những câu thơ, những hình ảnh ẩn dụ – nhân hốa ấy là bông hoa nghệ thuật tươi thắm mãi với thời
gian tỏa hương vào hồn người. Nó còn thể hiện tấm lòng ưu ái của nhà thơ đối với cái đẹp trong nhân
gian.
Nguyễn Du không những đã tiếp thu thi liệu, điển tích của văn học Trung Hoa mà còn học tập dân ca,
ca dao, học lời ăn tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai nơi đồng nội để sáng tạo nên vần thơ đặc
sắc.
“Hạt mưa” là hình ảnh so sánh ẩn dụ trong ca dao, dân ca nói về thân phận, số phận của người con gái
ngày xưa: “Thân em như hạt mưa sa, Hạt rơi đài các, hạt ra ruộng cày'“… Trước cảnh gia biến, nàng
Kiều nghĩ và hành động:
“Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân. “
“Hạt mưa, tấc cỏ, ba xuân” là những hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trung, nói ít mà gợi nhiều,
hàm súc, hình tượng và truyền cảm. Kiều là một thiếu nữ giàu đức hi sinh, hiếu thảo, quyết bán mình
chuộc cha khỏi vòng tù tội.
Nghệ thuật của Truyện Kiêu” là đa dạng, phong phú, đặc sắc độc đáo. Những câu Kiều vừa trích dẫn ở
trên đã khẳng định nhận xét”của giáo sư Đặng Thanh Lê là đúng đắn.
Ứớc lệ và tượng trưng là đặc điểm của thi pháp cổ. Lúc tả cảnh, tả người, tả tình… Nguyễn Du cũng sừ
dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng nhưng với cá tính sáng tạo của một nghệ sĩ thiên tài, câu thơ Kiều
đầy nhạc điệu, hình ảnh “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”, rất sống động và tinh tế. Đặc biệt là

những câu Kiều mang hình ảnh ẩn dụ đã in sâu vào tâm trí mỗi chúng ta: “Tiếng thương như tiếng mẹ
ru những ngày…” (Tố Hữu)
“Truyện Kiều” đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam. Tên tuổi thi hào dân tộc Nguyễn Du sống mãi
trong tâm hồn của nhân dân ta với bao tình cảm kính phục, tự hào
Read more: />van-hoc-dan-toc-dac-biet-la-an-du/#ixzz3mXpb5P61

×