Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Bước đầu nghiên cứu phân loại chi vi tử (sporoxeia smith) ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 46 trang )




TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH – KTNN





BÙI THỊ LINH




BƢỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU PHÂN LOẠI
CHI VI TỬ (SPOROXEIA Smith)
Ở VIỆT NAM


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Thực vật học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Đỗ Thị Xuyến
TS. Hà Minh Tâm



Hà Nội, 2015




LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình làm khóa luận, tôi đã nhận được sự hướng dẫn và giúp
đỡ của TS. Đỗ Thị Xuyến và TS. Hà Minh Tâm. Nhân dịp này, tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến các thầy cô.
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Dương Đức Huyến cùng tập thể cán bộ
phòng Thực vật - Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi còn nhận được sự giúp đỡ của
nhiều tổ chức và cá nhân trong và ngoài trường. Nhân dịp này tôi xin trân
trọng cảm ơn Phòng Tiêu bản thực vật - Viện Dược liệu; Phòng Tiêu bản thực
vật - Trường ĐH Khoa học Tự nhiên - ĐH Quốc gia Hà Nội; Ban chủ nhiệm
khoa Sinh - KTNN - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2; đặc biệt là sự giúp
đỡ, động viên của gia đình, bạn bè trong suốt thời gian tôi học tập và nghiên
cứu.
Một lần nữa, tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội 2, ngày 10 tháng 05 năm 2015
Sinh viên


BÙI THỊ LINH







LỜI CAM ĐOAN

Để đảm bảo tính trung thực của khóa luận, tôi xin cam đoan:
Khóa luận “Bƣớc đầu nghiên cứu phân loại chi Vi tử (Sporoxeia
Smith) ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của TS. Đỗ Thị Xuyến và TS. Hà Minh Tâm. Các kết quả
trình bày trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào trước đây.

Hà Nội 2, ngày 10 tháng 05 năm 2015
Sinh viên



BÙI THỊ LINH



MỤC LỤC

Trang
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: Tổng quan tài liệu 3
Chƣơng 2: Đối tƣơng, phạm vi, thời gian và phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu 7
2.2. Phạm vi nghiên cứu 7
2.3. Thời gian nghiên cứu 7
2.4. Nội dung nghiên cứu 7

2.5. Phương pháp nghiên cứu 8
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu
3.1. Hệ thống và vị trí phân loại chi Vi tử (Sporoxeia Smith) 11
3.2. Đặc điểm phân loại chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt Nam 11
3.3. Khóa định loại các loài thuộc chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt Nam . 15
3.4. Đặc điểm phân loại các loài thuộc chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt
Nam 17
3.4.1. Sporoxeia blastifolia (Guillaum) C.Hansen 17
3.4.2. Sporoxeia ochthocharioides C. Hensen 20
3.4.3. Sporoxeia rosea (Guillaum) C.Hansen 23
3.4.4. Sporoxeia sciadophila W.W. Smith 25
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Thế giới thực vật vô cùng phong phú và đa dạng. Trên thế giới cũng
như ở Việt Nam đã có rất nhiều chuyên ngành khoa học nghiên cứu về thực
vật. Trong đó, chuyên ngành Phân loại thực vật đóng vai trò nền tảng. Việc
phân loại các cây làm sáng tỏ các mối quan hệ thân thuộc giữa chúng, không
những có tầm quan trọng về mặt lý thuyết mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn,
góp phần vào cải tạo, sử dụng những cây có lợi, hạn chế và kiểm soát các cây
có hại. Phân loại thực vật một cách chính xác sẽ cung cấp tài liệu cho nhiều
ngành khoa học khác có liên quan.
Chi Vi tử (Sporoxeia Smith), thuộc họ Mua (Melastomataceae Juss.). Ở
Việt Nam chi này tuy có số loài nhỏ, nhưng chúng đóng vai trò quan trọng
trong các hệ sinh thái rừng nguyên sinh và thứ sinh nơi chúng có mặt, các loài

này tạo thành tầng cây bụi và cỏ quyết dưới tán rừng. Tuy nhiên, cho đến nay,
việc nghiên cứu các loài thuộc chi Vi tử (Sporoxeia Smith) vẫn còn hạn chế.
Để chuẩn bị cho việc nghiên cứu một cách toàn diện về chi Vi tử ở Việt
Nam và góp phần cung cấp dữ liệu cho việc nhận biết, sử dụng các loài thuộc
chi này, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Bƣớc đầu nghiên cứu
phân loại chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt Nam”.
Mục đích nghiên cứu
Hoàn thành công trình khoa học về phân loại chi Vi tử (Sporoxeia
Smith) ở Việt Nam một cách có hệ thống, làm cơ sở cho việc nghiên cứu họ
Mua (Melastomataceae Juss.), phục vụ cho việc biên soạn Thực vật chí Việt
Nam và cho những nghiên cứu có liên quan.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học: Cung cấp tài liệu phục vụ cho việc viết Thực vật
chí Việt Nam về họ Mua (Melastomataceae); bổ sung kiến thức cho chuyên

2

ngành phân loại thực vật và cơ sở dữ liệu cho những nghiên cứu sau này về
chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài phục vụ trực tiếp cho các ngành
ứng dụng và sản xuất như lâm nghiệp, y dược, sinh thái và tài nguyên sinh
vật,…
Điểm mới của đề tài
Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam tiến hành phân loại chi Vi tử
(Sporoxeia Smith) một cách có hệ thống.
Bố cục của khóa luận: gồm 29 trang, 7 hình vẽ, 6 ảnh, 1 bản đồ, 1
bảng được chia thành các phần chính như sau: Mở đầu (2 trang), chương 1
(Tổng quan tài liệu: 4 trang), chương 2 (Đối tượng, phạm vi, thời gian và
phương pháp nghiên cứu: 4 trang), chương 3 (Kết quả nghiên cứu: 18 trang),
kết luận và kiến nghị: 1 trang), tài liệu tham khảo: 21 tài liệu; bảng tra tên

khoa học và tên Việt Nam, phụ lục.

3

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. 1. Trên thế giới
Người đầu tiên đề cập đến chi Vi tử là W. W. Smith vào năm 1917
(trong tạp chí Notes Royal Botanic Garden, Edinburgh, tập 10 trang 69), tác
giả đã đặt tên cho chi này là Sporoxeia với Typus là loài Sporoxeia
sciadophila Smith. Sau đó, nhiều tác giả cũng đề cập đến chi Sporoxeia trong
các công trình nghiên cứu như:
- Năm 1972, trong công trình “Iconographia Cormophytorum
Sinicorum Supplementum I” [12], Authors - tập thể tác giả Trung Quốc đã mô
tả được 2 loài thuộc chi Sporoxeia có ở Trung Quốc là Sporoxeia hirsuta,
Sporoxeia latifolia, và xếp chi này vào trong họ Mua (Melastomataceae). Về
sau, vào năm 1994, công trình trên được tái bản có bổ sung trong
“Iconographia Cormophytorum Sinicorum Supplementum I” [12], đã mô tả
thêm 1 loài là Sporoxeia sciadophila đưa số loài đã biết đến thời điểm đó tại
Trung Quốc là 3 loài. Trong công trình này, tác giả đã lập bản mô tả cho các
loài nhưng không có khóa định loại cho các loài này.
- Trong công trình "Flora Yunnanica" (1979) [21], tác giả C. Y. Chun
đã mô tả 3 loài thuộc chi Sporoxeia là Sporoxeia hirsuta, Sporoxeia latifolia,
Sporoxeia sciadophila có ở khu vực Hải Nam của Trung Quốc và xếp chi này
vào họ Mua (Melastomataceae). Trong công trình này tác giả đã mô tả đặc
điểm vắn tắt của chi, các loài thuộc chi, có khóa định loại đến loài và có hình
ảnh của 2 loài.
C. Chen (1984) [15], trong công trình “Flora Reipublicae Popularis
Sinicae” khi nghiên cứu hệ thực vật Trung Quốc đã mô tả 2 loài thuộc chi Vi
tử (Sporoxeia Smith) có ở vùng nghiên cứu là Sporoxeia hirsuta và Sporoxeia
latifolia và xếp chi này vào trong họ Mua (Melastomataceae). Tác giả đã mô

tả đặc điểm vắn tắt của chi, các loài thuộc chi, có khóa định loại đến loài. Đến

4

năm 2007, cũng tác giả này kết hợp với S. R. Susanne đã tái bản có bổ sung
công trình này bằng tiếng anh trong “Flora of China”, trong đó, đáng lưu ý là
việc đổi danh pháp của loài, tác giả đã gộp hai loài Sporoxeia hirsuta và
Sporoxeia latifolia thành một và đổi thành loài Sporoxeia sciadophila, bên
cạnh đó, bổ sung thêm loài Sporoxeia clavicalcarata, và cố định tổng số loài
thuộc chi này có ở Trung Quốc vẫn là 2 loài.
Carole A. Ritchie, H. Joseeph và J. Kirkbride (1992) đã đề cập đến chi
Sporoxeia trong công trình nghiên cứu "Families and Genera of
Spermatophytes Recognized by the Agricultural Research Service" [13], tác
giả cho rằng chi Sporoxeia nằm trong họ Mua (Melastomataceae).
Takhtajan (2009) [19] khi nghiên cứu về các họ thực vật có hoa trên thế
giới công trình “Flowering Plants” cũng có quan điểm xếp chi Sporoxeia
Smith vào họ Melastomataceae.
1.2. Ở Việt Nam
Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở
Việt Nam còn tương đối ít. Những năm đầu thế kỷ XX, các công trình nghiên
cứu về chi Vi tử thường đều là do người nước ngoài thực hiện. Guillaum
(1921) [16] trong công trình Thực vật chí đại cương Đông Dương (Flore
Générale de L'Indo-Chine) là người đầu tiên đã công bố cho 2 loài mà về sau
được chuyển vào chi Vi tử (Sporoxeia Smith) là Anerincleistus rosea và
Anerincleistus blastifolia. Tác giả đã xếp hai loài này vào chi Anerincleistus
Korth. cùng với loài Anerincleistus sessilifolius. Ở đây tác giả đã mô tả đặc
điểm của 2 loài này, có khoá định loại kèm theo. Tuy nhiên, tài liệu này viết
bằng tiếng Pháp, công bố cách đây gần 1 thế kỷ nên số loài đã bị thay đổi
nhiều, không có typus để đối chiếu, không có danh pháp, mẫu nghiên cứu nên
rất khó khăn trong việc nghiên cứu.


5

Về sau các công trình nghiên cứu về chi Vi tử (Sporoxeia Smith) thường
do người Việt Nam công bố như: Phạm Hoàng Hộ (1992, 2000), Nguyễn Tiến
Bân (1997), Võ Văn Chi (1997, 2012), Nguyễn Kim Đào (2003),…
Phạm Hoàng Hộ (1992) trong công trình “Cây cỏ Việt Nam” [8, 9], đã
xếp chi Vi tử vào trong họ Mua (Melastomataceae), đã mô tả vắn tắt đặc điểm
5 loài thuộc chi Vi tử (Sporoxeia) là Sporoxeia blastifolia, Sporoxeia hirsuta,
Sporoxeia ochthocharioides, Sporoxeia rosea, Sporoxeia sciadophila kèm
theo hình ảnh minh họa đơn giản, vùng phân bố của loài. Cũng tác giả này
đến năm 2000 trong cuốn "Cây cỏ Việt Nam" - công trình đã được tái bản có
bổ sung thêm một loài nữa vào chi Vi tử là Sporoxeia imparifolia nhưng chưa
ra đặc điểm gì, chưa có hình ảnh của loài. Tuy nhiên, hiện nay Sporoxeia
hirsuta được coi là tên đồng nghĩa của Sporoxeia sciadophila.
Năm 1997, trong công trình “Cẩm nang tra cứu và nhận biết họ thực vật
hạt kín ở Việt Nam” [10], Nguyễn Tiến Bân đã xếp chi Vi tử vào trong họ
Mua (Melastomataceae).
Nguyễn Kim Đào (2003) trong công trình “Danh lục các loài thực vật ở
Việt Nam” [7], tác giả đã xếp chi Vi tử (Sporoxeia) thuộc họ Mua
(Melastomataceae), đã chỉnh lý danh pháp và đưa ra danh lục 5 loài thuộc chi
Vi tử hiện biết ở Việt Nam là Sporoxeia blastifolia, Sporoxeia hirsuta,
Sporoxeia ochthocharioides, Sporoxeia rosea, Sporoxeia sciadophila. Tác giả
đã cung cấp một số dẫn liệu về vùng phân bố, dạng sống và sinh thái nhưng
chưa có bản mô tả, không có hình vẽ minh họa. Tuy nhiên, hiện nay
Sporoxeia hirsuta được coi là tên đồng nghĩa của Sporoxeia sciadophila.
Võ Văn Chi (2004) [4], trong công trình “Từ điển thực vật thông dụng”
tác giả đã mô tả đặc điểm vắn tắt của họ Mua (Melastomataceae) và xếp chi
Vi tử (Sporoxeia) thuộc họ Mua.


6

Năm 2007 trong công trình “Sách tra cứu cây cỏ Việt Nam” [5], Võ Văn
Chi đã xếp chi Vi tử (Sporoxeia) vào trong họ Mua (Melastomataceae), tác
giả đã ghi nhận 5 loài thuộc chi Vi tử (Sporoxeia) là Sporoxeia blastifolia,
Sporoxeia hirsuta, Sporoxeia ochthocharioides, Sporoxeia rosea, Sporoxeia
sciadophila kèm theo tên gọi tiếng Việt Nam của loài.
Như vậy, cho đến nay, chưa có một công trình nào được coi là đầy đủ
nhất về phân loại chi Vi tử (Sporoxeia) ở Việt Nam mặc dù công trình của
Phạm Hoàng Hộ đã đưa ra được 5 loài ở Việt Nam nhưng mới chỉ nêu tóm tắt
đặc điểm nhận biết các loài. Chính vì vậy, công trình nghiên cứu: “Bƣớc đầu
nghiên cứu phân loại chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt Nam” của chúng
tôi sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về
phân loại chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt Nam.

7

CHƢƠNG 2
ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI, THỜI GIAN, NỘI DUNG
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Các loài thuộc chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt Nam, dựa trên cơ sở
mẫu vật và tài liệu.
Tài liệu: Các tài liệu về phân loại chi Vi tử (Sporoxeia W. W. Smith)
trên thế giới và của Việt Nam, nhất là các chuyên khảo.
Mẫu vật: Các mẫu vật thực vật thuộc chi Vi tử (Sporoxeia W. W. Smith)
ở Việt Nam, hiện được lưu giữ ở các phòng tiêu bản thực vật Viện Sinh thái
và Tài nguyên Sinh vật (HN), phòng tiêu bản thực vật trường Đại học Khoa
học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội (HNU).
Tổng số mẫu nghiên cứu là 18 số hiệu với 29 tiêu bản. Việc phân tích

mẫu vật được tiến hành tại phòng tiêu bản thực vật (Viện Sinh thái và Tài
nguyên Sinh vật). Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo một số mẫu thu thập
được trong khi điều tra thực địa và các ảnh chụp mẫu vật trên internet.
2.2. Phạm vi nghiên cứu: Các loài thuộc chi Vi tử trên toàn lãnh thổ Việt
Nam.
2.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10/2014 - 4/2015
2.4. Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu các hệ thống và vị trí phân loại chi Sporoxeia Smith: Phân
tích các hệ thống phân loại chi Vi tử (Sporoxeia W. W. Smith) trên thế giới,
từ đó lựa chọn hệ thống phù hợp để sắp xếp chi và các loài thuộc chi Vi tử ở
Việt Nam.
- Xây dựng bản mô tả chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt Nam”.
- Xây dựng khoá định loại các loài thuộc chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở
Việt Nam.

8

- Xây dựng bản mô tả các loài thuộc chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt
Nam.
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu phân loại chi Vi tử (Sporoxeia Smith), chúng tôi sử
dụng phương pháp Hình thái so sánh [11]. Đây là phương pháp cổ điển nhưng
cho tới nay vẫn là phương pháp chính và phổ biến nhất trên thế giới và phù
hợp với điều kiện nghiên cứu ở nước ta. Phương pháp này dựa trên đặc điểm
cấu tạo bên ngoài các cơ quan của thực vật, quan trọng nhất là cơ quan sinh
sản vì đặc điểm của nó liên quan chặt chẽ với bộ mã di truyền và ít biến đổi
bởi tác động của môi trường. Việc so sánh dựa trên nguyên tắc chỉ so sánh các
cơ quan tương ứng với nhau trong cùng một giai đoạn phát triển (cây trưởng
thành so sánh với cây trưởng thành, nụ so sánh với nụ, hoa so sánh với
hoa, ).

Để làm tốt phương pháp nghiên cứu hình thái so sánh, cần tiến hành
đồng thời cả 2 công tác là ngoại nghiệp và nội nghiệp.
Công tác ngoại nghiệp: Được thực hiện trong các chuyến đi thực địa
nhằm thu thập mẫu vật, chụp ảnh, quan sát và ghi chép các đặc điểm của mẫu
ở trạng thái tươi, quan sát về phân bố, môi trường sống và các đặc điểm khác.
Công tác nội nghiệp: Xử lý và bảo quản mẫu vật. Việc nghiên cứu các
mẫu vật khô được tiến hành tại các phòng thí nghiệm. Tại đây, các mẫu vật
được phân tích, chụp ảnh, vẽ hình và mô tả, sau đó dựa vào các bản mô tả gốc
và mẫu vật chuẩn (nếu có), các chuyên khảo, các bộ thực vật chí (nhất là của
Việt Nam và các nước lân cận) để phân tích, so sánh và định loại.
Việc nghiên cứu phân loại chi Vi tử (Sporoxeia Smith) được tiến hành
theo các bước như sau:

9

Bước 1: Tổng hợp, phân tích các tài liệu trong và ngoài nước về chi Vi
tử (Sporoxeia W. W. Smith). Từ đó lựa chọn hệ thống phân loại phù hợp với
việc phân loại chi này ở Việt Nam.
Bước 2: Phân tích, định loại các mẫu vật thuộc chi Vi tử (Sporoxeia W.
W. Smith) hiện có.
Bước 3: Tham gia các chuyến điều tra, nghiên cứu thực địa để thu thêm
mẫu, tìm hiểu thêm về sinh thái học, sự phân bố và các thông tin có liên quan
khác.
Bước 4: Tổng hợp kết quả nghiên cứu, mô tả các đặc điểm chung của
chi, xây dựng khoá định loại, mô tả các phân chi và các loài, chỉnh lý phần
danh pháp theo luật danh pháp quốc tế và cuối cùng hoàn chỉnh các nội dung
khoa học khác của đề tài.
- Soạn thảo chi và các loài dựa theo quy ước quốc tế về soạn thảo thực
vật và quy phạm soạn thảo thực vật chí Việt Nam, thứ tự như sau:
Thứ tự soạn thảo chi: Tên khoa học chính thức kèm theo tên tác giả công

bố tên gọi, tên Việt Nam thường dùng, trích dẫn lại tên tác giả công bố tên
khoa học, năm công bố, tài liệu công bố, số trang, tài liệu chính và các tài liệu
ở Việt Nam đề cập đến, các tên đồng nghĩa (nếu có), tên Việt Nam khác (nếu
có), mô tả, loài typ của chi, ghi chú (nếu có).
Thứ tự soạn thảo loài: Tên khoa học chính thức kèm theo tên tác giả
công bố tên gọi, tên Việt Nam thường dùng, trích dẫn lại tên tác giả công bố
tên khoa học, năm công bố, tài liệu công bố, số trang, tài liệu chính và các tài
liệu ở Việt nam đề cập đến, tên đồng nghĩa gốc (nếu có), các tên đồng nghĩa
(nếu có), tên Việt Nam khác (nếu có), mô tả, địa điểm thu mẫu chuẩn (Loc.
class.), mẫu vật chuẩn (Typus) kèm theo nơi bảo quản (theo quy ước quốc tế),
sinh học và sinh thái, phân bố, mẫu nghiên cứu, giá trị sử dụng, ghi chú (nếu có).

10

- Cách mô tả: Mô tả liên tục những đặc điểm cơ bản theo nguyên tắc
truyền tin ngắn gọn, theo trình tự từ cơ quan sinh dưỡng (dạng sống, cành,
lá, ) đến cơ quan sinh sản (cụm hoa, cấu trúc của hoa, quả, hạt).
Để xây dựng bản mô tả cho một loài, chúng tôi tập hợp các số liệu đã
phân tích về loài đó sau đó so sánh với tài liệu gốc, các chuyên khảo và mẫu
typ (nếu có), từ đó xác định các tiêu chuẩn và dấu hiệu định loại cho loài. Bản
mô tả chi được xây dựng trên cơ sở tập hợp các bản mô tả của các loài trong
chi. Nếu bản mô tả này có sự khác biệt so với tài liệu gốc và các tài liệu khác
(thường do số loài trong chi ở mỗi tài liệu khác nhau), chúng tôi sẽ có những
ghi chú bổ sung.
- Xây dựng khoá định loại: Trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi lựa
chọn cách xây dựng khoá lưỡng phân kiểu zic-zắc, cách làm được tiến hành
như sau: Từ tập hợp các đặc điểm mô tả cho các taxon, chọn ra cặp các tập
hợp đặc điểm đối lập và xếp chúng vào hai nhóm (các đặc điểm được chọn
phải ổn định, dễ nhận biết và thể hiện tính chất phân biệt giữa các taxon).
Trong mỗi nhóm, lại tiếp tục chọn ra cặp đặc điểm đối lập và xếp chúng vào

hai nhóm khác, cứ tiếp tục như vậy đến khi phân biệt hết các taxon.
Danh pháp của các taxon được chỉnh lý theo luật danh pháp quốc tế hiện
hành và theo Quy phạm soạn thảo thực vật chí Việt Nam [1].





11

CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Hệ thống phân loại và vị trí chi Vi tử (Sporoxeia Smith).
Sau khi phân tích các hệ thống phân loại chi Vi tử và họ Mua, tham khảo
các công trình thực vật chí ở các nước gần Việt Nam và các công trình nghiên
cứu về họ Mua ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy như sau:
+ Về hệ thống: hệ thống từ chi phân loại trực tiếp đến các loài mà không
thông qua các phân chi (subgen.) hay nhánh (section).
+ Về vị trí: Hầu hết các tác giả đều xếp chi Vi tử vào họ Mua
(Melastomataceae Juss.).
Chính vì vậy, khi nghiên cứu chi Vi tử ở Việt Nam, tôi đã đi theo quan
điểm của hầu hết các tác giả đã nghiên cứu về chi này để xác định giới hạn và
vị trí của chi và sắp xếp các loài thuộc chi Vi tử. Trên cơ sở đó, chúng tôi
nhận thấy rằng, chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt Nam có 4 loài, được xếp
như sau:
Chi Vi tử (Sporoxeia)
Thuộc họ Mua (Melastomataceae)
Thuộc bộ Sim (Myrtales)
Thuộc lớp Hai lá mầm (Dicotyledons)
Thuộc ngành Ngọc lan (Angiospermae)

3.2. Đặc điểm phân loại chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt Nam.
SPOROXEIA Smith – VI TỬ
W.W. Smith, 1917. Notes Roy. Bot. Gard. Edinburgh 10(46): 69-70; C.
Y. Wu ex C. Chen, 1979, Fl. Yunnan. 2: 107; C. Chen, 1997, Fl. Reip. Pop.
Sin. 53(1): 193; Chen Jie, C. Chen & S. R. Susanne. 2007. Fl. China 13: 373.



12

3.2.1. Dạng sống
Cây thân bụi hay cây thân cỏ (S. ochthocharioides) hoặc hiếm khi là dây
leo (S. blastifolia). Thân có tiết diện vuông hay hơi dẹp hoặc dạng thân tròn
(S. rosea), không lông khi già nhưng có lông mịn lúc còn non.
3.2.2. Lá (hình 3.1)
Lá đơn, mọc đối, không có lá kèm; cuống có rãnh hoặc không. Phiến lá
hình bầu dục hay hình trứng (S. sciadophila); mặt trên xanh đậm hơn mặt
dưới; chóp lá nhọn; gốc lá tròn hay hình tim; mép có răng nhỏ. Gân gốc hình
chân vịt, có từ 5-7 gân, các gân gốc thường xuất phát ở gốc chạy tới ngọn
(riêng S. ochthocharioides có cặp gân gốc hai bên cách gốc khoảng 0,7-0,8
cm), các gân cấp ba thường song song, tạo thành mạng lưới, các gân thường
nổi ở mặt dưới và hằn lên ở mặt trên.


Lá có cặp gân gốc hai bên không
cách gốc S. blastifolia
Lá có cặp gân gốc hai bên cách gốc
S. ochthocharioides
Hình 3.1. Một số dạng lá
3.2.3. Cụm hoa (hình 3.2, ảnh 1)

Cụm hoa hình xim, mọc ở nách lá hoặc ở những vết sẹo của cuống lá ở
cành già; phần cuống dài hoặc ngắn hầu như không có (S. blastifolia).

13



Hình 3.2. Vị trí của cụm hoa
Ảnh 1. Vị trí của lá bắc của
cụm hoa
3.2.4. Hoa (hình 3.3, ảnh 2)
Hoa lưỡng tính. Cuống nhỏ và ngắn. Lá bắc và lá bắc con thường rụng
sớm, hình dạng trứng hay gần tròn.
- Đài hoa dính ở 1/2 của bầu, phía dưới hình thành hình chuông, hay
phễu, thường có 4 gờ tạo thành 4 mặt, phía trên có các thùy đài; thùy đài hình
trứng rộng đến gần tròn.
- Cánh hoa 4, rời nhau, xếp lợp, cánh hoa màu hồng, đỏ hoặc đỏ đậm,
thường hình trứng, đỉnh nhọn hay gần như có gai nhọn.
- Bộ nhị gồm 8 nhị rời nhau, không đều, đính trên 2 vòng xoắn; chỉ nhị
rời, có khuỷu và gấp vào trong nụ. Mào trung đới rất dị dạng, tạo 2 mấu nhỏ
tại gốc bao phấn; bao phấn điển hình có 2 ô hình mũi mác, bao phấn có phần
dưới kéo dài tạo thành tai.
- Bộ nhụy: Bầu trung, thường 4-mặt, 4 ô, mỗi ô gồm rất nhiều noãn,
đỉnh có mấu lồi dạng răng nhỏ. Vòi đơn, hình trụ mảnh; núm nhụy nhỏ, hầu
như không nhìn thấy rõ.
3.2.5. Quả và hạt (hình 3.4, ảnh 3)
Quả nang, hình trứng hoặc hình cầu, thường có 4 mặt do có 4-8 gờ nổi
dễ nhìn thấy hoặc không. Quả khi chín thường tự tách, tung các hạt ra ngoài.
Hạt nhiều, nhỏ, có nhiều mấu lồi; nội nhũ thiếu.


14

Typus: Sporoxeia sciadophila Smith
Trên thế giới chi Vi tử (Sporoxeia Smith) có khoảng 8 loài, phân bố
chủ yếu ở các nước nhiệt đới châu Á, Việt Nam hiện biết có 4 loài, phân bố
rải rác khắp cả nước.


Hình 3.3. Hoa và nhị của Vi tử
(Sporoxeia Smith)
Ảnh 2. Bộ nhị 8 cái của Vi tử
(Sporoxeia Smith)


Hình 3.4. Hình thái của quả của
Vi tử (Sporoxeia Smith)
Ảnh 3. Quả non có đài tồn tại bền





15

3.3. Khoá định loại các loài thuộc chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở Việt Nam
3.3.1. Xây dựng bảng tổ hợp so sánh các đặc điểm của chi Vi tử (Sporoxeia
Smith) ở Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu các đặc điểm hình thái của các loài thuộc chi Vi
tử (Sporoxeia Smith), chúng tôi đã lập bảng so sánh các đặc điểm khác nhau
của các loài. Chi tiết được chỉ ra ở bảng sau:

Bảng. So sánh các đặc điểm của các loài thuộc chi Vi tử (Sporoxeia Smith)
ở Việt Nam
Đặc điểm


Loài
S. bastifolia
S. ochthocharioides
S. rosea
S. sciadophila
Dạng thân cây
leo
cỏ
bụi
bụi
Chiều cao cây (m)
Dài đến 3
0,3-0,8
2-3
1-1,5
Hình dạng thân
Vuông
Vuông
Thân tròn
Vuông, có
rãnh
Thân có các nốt sần
x
0
0

0
Cuống lá có lông (x),
không lông (0)
0
0
x
x
Hình dạng phiến lá
Bầu dục
Bầu dục,
trứng
Bầu dục
trứng, gần
tròn
Lá mỏng như giấy
(x), dày (-)
x
-
x
x
Kích thước lá (cm)
7-15 x 2-5
7-9 x 4-5
9-15 x 4-5
9-15 x 6-9
Lá có lông (x), không
0
0

x


16

lông (0)
Hình dạng chóp lá
Nhọn, kéo
dài
Nhọn
Nhọn
Nhọn
Hình dạng gốc lá
Nhọn
Nhọn
tim
Tròn, tim
Chiều dài cuống lá
(cm)
1,5-3
2-3
2-4
3-7
Mép có răng mịn (x),
không có răng (0)
0
x
x
x
Số lượng gân
5
5

5
5-7
Các gân gốc xuất phát
từ gốc
x
0
x
x
Chiều dài cuống hoa
(mm)
0.1-0.2
0,5-0,8
0.5-1
3-4
Cuống hoa có lông
(x), không lông (0)
0
0
0
x
Đài hoa có mụn lồi
nhỏ (x), không có (0)
x
0
0
0
Đài hoa có lông (x),
không lông (0)
0
0

0
x
Chiều dài cánh hoa
(mm)
4-5
4-6
4-7
8-9
Bao phấn có phần
phụ (x), phần phụ ít
thấy (-)
-
x
x
x
Hình dạng quả
chuông
chuông
cầu
Trứng, cầu
Chiều dài quả (mm)
4-5
4-6
2-3
4-5

17

Qủa có các mụn nhỏ
x

0
x
0
Hạt có mụn nhỏ (x),
không có (0)

0
x
0
Ghi chú: Những đặc điểm để trống là chưa rõ thông tin.
3.3.2. Khoá định loại lưỡng phân các loài thuộc chi Vi tử (Sporoxia Smith)
ở Việt Nam
Trên cơ sở bảng so sánh, tổ hợp các đặc điểm giống và khác nhau của các loài
thuộc chi Vi tử (Sporoxia Smith), chúng tôi đã xây dựng khóa định loại theo
kiểu lưỡng phân cho các loài thuộc chi Vi tử (Sporoxia Smith) ở Việt Nam.
1A. Dây leo. Đài hoa có các mấu lồi nhỏ như mụn. 1. S. blastifolia
1B. Cây thân cỏ hoặc cây thân bụi. Đài hoa không có các mấu lồi nhỏ như
mụn.
2A. Thân có tiết diện tròn. Hạt có các mụn nhỏ. 3. S. rosea
2B. Thân có tiết diện vuông. Hạt không có các mụn nhỏ.
3A. Đế hoa không lông, đài không có lông. Cặp gân gốc bên xuất phát
cách gốc 0,6-0,8 cm. 2. S. ochthocharioides
3B. Đế hoa có lông, đài nhiều lông tơ mịn. Cặp gân gốc bên xuất phát
từ gốc. 4. S. sciadophila
3.4. Đặc điểm phân loại các loài thuộc chi Vi tử (Sporoxeia Smith) ở
Việt Nam
3.4.1. Sporoxeia blastifolia (Guillaum) C. Hansen – Vi tử leo
C. Hansen, 1934. Bull. Mus. Natl. Hist. Nat. b. 432; id. 1990,
Adansonia Sér. 4, 12(1): 40; Guill. in Lecomte. 1921. Fl. Gen. Indo-Chine, 2:
906; Phamh. 1992. Illustr. Fl. Vietn. 2(1): 97; Phamh. 2000. Illustr. Fl. Vietn.

2: 84; N. K. Dao, 2003. Checkl. Pl. Sp. Vietn. 2: 911.
- Anerincleistus blastifolius Guillaum. 1921. Not. Syst. 1921. 45.


18

Dây leo, một năm, dài đến 3 m; nhánh non không lông, vuông đến hơi
dẹp, có các nốt sần nhỏ. Lá đơn, mọc đối. Phiến lá hình bầu dục, dài 7-15 cm
x 2-5 cm, mỏng dạng giấy; chóp lá nhọn, có mũi kéo dài; gốc lá nhọn; mép
không có răng; gân gốc 5, xuất phát từ gốc, mặt dưới nổi rõ, các gân mạng dễ
nhìn thấy; không có lông. Cuống lá dài 1,5-3 cm, hình trụ, mảnh, không lông.
Cụm hoa hình xim thường rất ngắn, chỉ khoảng 2-5 mm, ở nách lá hoặc từ vết
sẹo của cuống lá sau khi rụng. Lá bắc và lá bắc con nhỏ. Hoa lưỡng tính,
cuống hoa mảnh, dài 0,1-0,2 cm, không có lông. Đài hoa hình chuông, dính
với bầu ở 1/2, dài 0,2-0,3 cm, có các mấu lồi nhỏ, phía trên mang 4 thùy đài,
không lông. Cánh hoa 4, hình trứng dài 4-5 mm. Nhị 8 cái, bằng nhau, cả nhị
dài đến 0,6-0,8 cm, chỉ nhị nhỏ như sợi chỉ, hơi dẹp, thẳng, dài như bao phấn;
bao phấn hơi cong ra bên ngoài, có phần phụ ít rõ. Bầu giữa, hình cầu, không
lông với 4 mặt; vòi nhụy đơn, dài 7-8 mm. Quả nang, hình chuông, có 4 gờ
nổi tạo thành dạng như 4 mặt, dài 4-5 mm, mang đài tồn tại bền, có mụn lồi.
Hạt nhỏ.
Loc. Class.: Vietnam, tonkin.
Sinh học và sinh thái: Cây có hoa tháng 4-7, có quả chín tháng 6-10.
Mọc rải rác trong rừng nhiệt đới thường xanh, dưới tán rừng, ưa bóng, ở độ
cao thấp.
Phân bố: mới thấy ở Hòa Bình (Mai Châu), Nghệ An (Qùy Châu, Cô
Ba). Khả năng đây là loài đặc hữu của Việt Nam.
Mẫu nghiên cứu: Loài này được ghi nhận bởi Guillaumin (1921),
Phạm Hoàng Hộ (2000), Nguyễn Kim Đào (2003). Tuy nhiên, khi nghiên cứu
các loài thuộc chi Vi tử ở Việt Nam, chúng tôi chưa tìm được mẫu vật của

loài này.


19



Hình 3.5. Sporoxeia blastifolia
1. cành mang quả; 2. cụm quả; 3. quả non
(hình vẽ theo Phạm Hoàng Hộ, 2000)
1
2
4
3

20

3.4.2. Sporoxeia ochthocharioides C. Hensen – Vi tử
C. Hensen, 1834. Bull. Mus. Natl. Hist. Nat. ser. b: 51; id. 1990.
Adansonia Sér. 4, 12(1): 40; Phamh. 1992. Illustr. Fl. Vietn. 2(1): 98; Phamh.
2000. Illustr. Fl. Vietn. 2: 85; N. T. Ban, 2003. Checkl. Pl. Sp. Vietn. 2: 911.
Cây thân cỏ, cao 30-80 cm. Thân vuông, không lông, khi già màu xám-
đen, thường không có các nốt sần. Lá đơn, mọc đối, không có lá kèm. Cuống
lá dài 2-3 cm, không lông; phiến bầu dục hay bầu dục rộng gần như xoan,
kích thước 7-9 x 4-5 cm; chóp lá và gốc lá đều nhọn; mép lá nguyên hay có
răng nhỏ, mịn khó nhận; gân gốc hình chân vịt, thường 5 gân, cặp gân gốc
bên xuất phát cách gốc 0,7-0,8 cm, gân ở mặt trên chìm, ở mặt dưới nổi rõ,
gân mạng lưới hình thang rõ; mặt trên và mặt dưới phiến lá không có lông,
mặt trên màu đậm hơn mặt dưới. Cụm hoa thường rất ngắn, chỉ khoảng 0,5-1
cm, mang ít hoa, cuống cụm hoa dài 1-2 mm. Hoa lưỡng tính; cuống hoa dài

0,5-0,8 cm, không lông. Đế hoa không lông. Đài không có mấu lồi, không
lông. Cánh hoa màu hồng đậm hay đỏ, hình gần tròn, đường kính 4-6 mm.
Nhị 8 cái, bao phấn 4 dài mm, có phần phụ như dạng tai. Bầu 4 ô. Quả nang,
hình chuông, có 4 cạnh tạo thành dạng 4 mặt, dài 0,4 - 0,6 cm, không có mụn
nhỏ, có 8 gân dễ nhìn thấy, khi chín nứt theo các đường gân mở tạo thành 8
mảnh; cuống quả dài 1-1,5 cm. Hạt nhỏ, không có mụn nhỏ.
Loc. class.: Vietnam, Tonkin.
Sinh học và sinh thái: Ra hoa tháng 5-7, có quả chín vào tháng 8-11.
Cây mọc trong rừng thường xanh, dưới bóng, ưa ẩm, ở độ cao khoảng 1200-
1500 m.
Phân bố: Loài hiếm khi gặp, mới thấy ở Lào Cai (Sa Pa). Khả năng
đây là loài đặc hữu của Việt Nam.
Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, HAL 2388 (HN).


21


Hình 3.6. Sporoxeia ochthocharioides C. Hensen
Cành mang hoa
(hình theo Phạm Hoàng Hộ, 2000)











×