Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Chính sách tiền tệ và phương thức vận hành các chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam - 4 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.34 KB, 8 trang )

Với hiệp định thương mại Việt Mỹ và những nội dung trong cam kết AFTA lĩnh
vực ngân hàng Việt Nam đang từng bước xoá bỏ những khác biệt trong trong chính
sách giữa các NHVN và ngân hàng nước ngoài. Vì vậy chính sách ngoại hối, tỷ giá,
Việt Nam cũng cần phải có những bước thay đổi phù hợp.
Để thực hiện mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức ổn định 7-9%/năm, Việt
Nam cần có những chính sách kinh tế nói chung và những chính sách tỷ giá nói
riêng hợp lý, ổn định tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài
góp phần quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, duy trì
tỷ giá hối đoái phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường đồng thời không ngừng
nâng cao uy tín của Đồng Việt Nam nhằm từng bước làm cho Đồng Việt Nam trở
thành đồng tiền tự do chuyển đổi, góp phần ngăn chặn tình trạng đô la hoá trong
nền kinh tế, tỷ giá hối đoái cần được điều hành một cách linh hoạt, phù hợp với
cung cầu ngoại tệ nhằm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng dự trữ
ngoại tệ cho đất nước, không để xảy ra những biến động lớn gây ảnh hưởng xấu đến
nền kinh tế xã hội.
Cơ chế điều hành TGHĐ hiện nay là không ấn định một cách cứng nhắc bằng mệnh
lệnh hành chính, chênh lệch nhiều với tỷ giá thực tế giao dịch trên thị trường mà là
tỷ giá thực tế hình thành khách quan trên thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Thay thế việc quản lý mang tính hành chính của NHNN bằng một cơ chế mềm dẻo
hơn, ít mang tính áp đặt hơn, dựa vào công cụ kinh tế là chính nhưng không buông
lỏng, thả nổi tỷ giá một cách tuỳ tiện. Cụ thể:
Lấy tỷ giá thực tế bình quân trên thị trường liên ngân hàng làm căn cứ xác định giá
mua bán ngoại tệ giữa ngân hàng với ngân hàng, giữa ngân hàng với doanh nghiệp
và dân cư.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Các NHTM xác định giá mua bán cụ thể trong phạm vi nhất định so với giá thực tế
giao dịch bình quân thị trường liên ngân hàng của ngày gần nhất. Trước đó (hiện
nay là +/- 0,25%) và vì vậy đã hạn chế thấp nhất những tác động của việc kích giá
tăng đột biến, gây ảnh hưởng xấu về Kinh tế - xã hội.
So với cơ chế trước đây thì cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay là một bước chuyển đổi
khá căn bản về phương thức điều hành. Cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay là sự


chuyển đổi từ cơ chế tỷ giá cố định do NHNN quy định và chỉ được điều chỉnh
trong những tình huống hết sức cấp thiết sang một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, phản
ứng nhạy bén hơn với cung cầu thị trường nhưng vẫn được quản lý khá chặt chẽ.
Cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay đã làm cho thị trường ngoại tệ của Việt Nam sôi
động lên với doanh số giao dịch cao trên cả thị trường liên ngân hàng và thị trường
ngoại tệ nói chung. Lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường đã tăng lên đáng kể,
mức cung ngoại tệ dồi dào và đáp ứng được các nhu cầu về ngoại tệ của nền kinh tế.
Tỷ giá trên thị trường tự do cũng luôn bám sát tỷ giá của thị trường chính thức.
Lòng tin đối với Đồng Việt Nam đã được nâng cao. Thị trường ngoại tệ trong nước
đã được ổn định và chính mối tương quan giữa cung cầu ngoại tệ đã thực sự quyết
định mức tỷ giá tạo nên tính ổn định của thị trường. Cơ chế điều hành tỷ giá hối
đoái hiện nay là một bước tiến tích cực góp phần quan trọng đối với quá trình phát
triển kinh tế xã hội, đồng thời nó là một tất yếu khách quan trong quá trình đổi mới
đất nước. Tuy nhiên thị trường ngoại hối Việt Nam vẫn còn những điểm chưa được:
thị trường ngoại hối Việt Nam chưa thực sự phát triển, các giao dịch hối đoái chủ
yếu vẫn là giao ngay đơn thuần, khối lượng giao dịch ngoại tệ chưa cao, tình trạng
đầu cơ găm giữ ngoại tệ còn khá phổ biến. Việc đánh giá cung cầu ngoại tệ rất khó
khăn trong khi khả năng can thiệp và phối hợp các công cụ chính sách còn nhiều
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hạn chế. Hệ thống thanh toán chưa phát triển, hiện tượng sử dụng đô la trong thanh
toán còn phổ biến dẫn tới những ảnh hưởng khó lường đối với tỷ giá hối đoái. Khối
lượng ngoại tệ trôi nổi ngoài hệ thống ngân hàng chưa được kiểm soát còn rất lớn.
Bên cạnh đó các hệ thống văn bản hướng dẫn còn chồng chéo gây khó khăn trong
việc cân đối cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế để làm cơ sở hoạch định chính sách
tỷ giá. Tóm lại môi trường để ổn định tỷ giá hối đoái ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều
khó khăn, để ổn định thì cần có những giải pháp cụ thể.
3. Công cụ dự trữ bắt buộc
Là công cụ hổ trợ, công cụ gián tiếp được chính thức thực hiện năm 1992. Kể từ
thời điểm đó đến nay, công cụ dự trữ bắt buộc đã không ngừng được đổi mới và
hoàn thiện. Ban đầu theo quy định của Thống đốc NHNN năm 1992 tiền dự trữ bắt

buộc được duy trì tại một tài khoản riêng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% trên toàn
bộ tiền gởi ở các TCTD. Theo đó, vai trò của công cụ dự trữ bắt buộc là để bảo đảm
khả năng thanh toán và kiển soát cung ứng tiền tệ nhưng lại hạn chế NHNN dự báo
nhu cầu tăng giảm dự trữ của các NHTM và vốn của các NHTM không được sử
dụng một cách linh hoạt. Chính vì vậy, để khắc phục các hạn chế trên, năm 1995
công cụ dự trữ bắt buộc đã được đổi mới với một số quy định chủ yếu như: tiền gửi
dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán được thống nhất vào một tài khoản, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc là 10% áp dụng cho các loại tiền gửi dưới 1 năm và trong cơ cấu trên
dự trữ bắt buộc có 70% phải gửi tại NHNN và các TCTD phải thường xuyên duy trì
đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc phải gửi tại NHNN (duy trì hằng ngày). Với những
đổi mới này NHNN có thể dự báo nhu cầu dự trữ của các TCTD thông qua theo dõi
mức dự trữ vượt. Tuy nhiên, việc khống chế theo ngày cộng với sự phát triển của thị
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trường tiền tệ còn ở mức độ thấp khiến cho công cụ này trở nên cứng nhắc, các
TCTD luôn để vượt hạn chế khả năng sử dụng vốn hiệu quả của các TCTD.
Bước đổi mới đáng kể nêu trên gắn liền với sự ra đời của hai luật ngân hàng. Từ
năm 1999, công cụ dự trữ bắt buộc bắt đầu được áp dụng mở rộng. Với cách tính dự
trữ bắt buộc mới, các TCTD có thể điều hành vốn linh hoạt hơn trước đây. Đồng
thời NHNN có thể dự đoán được nhu cầu dự trữ của các NHTM, tăng khả năng
kiểm soát tiền tệ của NHNN. Thêm vào đó, năm 1999, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được
điều chỉnh ngày càng linh hoạt phù hợp với mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ.
Nếu so sánh các lần tăng giãm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các mức lạm phát và lãi suất
qua các năm ta sẽ thấy, thời kỳ có lạm phát cao hay lãi suất cao cũng là lúc tỷ lệ
DTBB được quy định ở mức cao. Điều này cho thấy đã có sự phối hợp vân dụng
công cụ tỷ lệ DTBB với các công cụ khác của CSTT trong điều hành kinh tế vĩ mô
của Nhà nước. Điều này rất dể thấy trong diển biến của tỷ lệ DTBB trong năm
1999, đây là năm mà Chính phủ mở rộng tiền tệ để kích cầu, lãi suất trần được điều
chỉnh giảm 4 lần thì tỷ lệ DTBB cũng giảm 3 lần.
Đến năm 2000, việc điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ đã
có tác dụng hạn chế dòng chuyển đổi từ đồng VND sang đồng USD, khắc phục tình

trạng khan hiếm VND của các TCTD, hạn chế phần nào hiện tượng đô la hóa trong
tài sản của hệ thống ngân hàng, góp phần thực hiện mục tiêu CSTT. Tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với tiền gởi nội tệ vẫn được giử nguyên ở mức thấp nhất trong hơn hai
năm qua, 2% đối với NHNN0 & PTNT VN và 3% với các TCTD đô thị khác. Tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ được điều chỉnh giảm từ 12% xuống còn
8% thực hiện từ tháng 4 - 2002. Tiếp đến, trước diển biến FED cắt giảm 05%/năm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
lãi suất chủ đạo đối với USD, NHNN cũng quyết định giảm tỷ lệ DTBB tiền gửi
USD xuống còn 5% thực hiện từ tháng 12/2002.
4. Công cụ tái chiết khấu, tái cấp vốn
Lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu là công cụ khá nhạy cảm trong quá trình điều
hành khối lượng tiền tệ và đã được Nhà nước cho phép sử dụng tại điều 41, 43 pháp
lệnh NHNNVN nay là điều 17 luật NHNNVN. Tuy nhiên, thực tế nước ta do chưa
có các công cụ truyền thống trực tiếp để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu.
Do đó việc chiết khấu đang được thực hiện dựa trwn các chứng từ do NHTM đã cho
vay nhưng chưa đến hạn các doanh nghiệp phải trả nợ. Căn cứ vào các chứng từ đó,
NHNN cho các NHTM vay lại những khoản nợ mà NHTM đã cho các doanh
nghiệp vay. Bên cạnh phương pháp tái chiết khấu này NHNN còn thực hiện phương
thức mua lại các dự án đã được ngân hànNHTG thẩm định trước khi đầu tư nhưng
không đủ nguồn vốn.
Cũng do chưa có những công cụ nghiệp vụ để thực hiện công cụ lãi suất tái chiết
khấu nên NHNNVN đã sử dụng hình thức cho vay cầm cố. Hình thức này được
thực hiện bằng cách các NHTM, các TCTD đem một số loại giấy tờ có giá trị đến
NHNN làm vật thế chấp để vay tiền. Loại tín dụng này nhằm giải quyết khó khăn
rài chính tạm thời cho các NHTM.
Trong giai đoạn trước 3/1997, NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn theo lãi suất cho
vay trên từng khế ước xin tái cấp vốn, chính vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang
tính bị động, lãi suất tái cấp vốn có sự phân biệt giữa các ngân hàng. Kể từ 3/1997,
cùng với việ hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái cấp vốn đã được xác định một
cách độc lạp, tái cấp vốn đã thực sự trở thành công cụ tiền tệ được NHNN quan tâm

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trong việc điều tiết cung ứng tiền. Cứ mỗi lần thay đổi lãi suất trần thì lập tức
NHNN cũng điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn một cách tương ứng.
Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2000 nhằm khuyến khích các TCTD mở rộng tín
dụng, NHNN đã hai lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5 xuống 0,4% / tháng, đồng
thời NHNN cũng giảm lãi suất tái chiết khấu hai lần từ 0,45 xuống còn 0,35% /
tháng nhằm tạo tín hiệu cho các TCTD tăng lãi suất huy động. Ngày 02/11/2000
NHNN đã tăng lãi suất tái cấp vốn lêm 0,5% / tháng và tăng lãi suất tái chiết khấu
lên 0,45%/ tháng.
Để hổ trợ cho các công cụ khác và thực hiên việc nới lỏng CSTT đồng thời hạn chế
xu hướng bất lợi, tháng 5/2001, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn và
lãi suất tái chiết khấu. Mặt khác, NHNN đã thay đổi cơ chế tái cấp vốn dưới hình
thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố tiïn phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác nhằm cung ứng thêm vốn ngắn hạn và phương tiện
thanh toán cho các NHTM, thay cho việc thế chấp chứng từ, thế chấp hồ sơ tín dụng
và cho vay chỉ định trước đây. Song trong thực tế mới chỉ có NHTM quốc doanh
được vay còn các NHTM cổ phần và cho nhánh Ngân hàng nước ngoài vẩn đứng
ngoài cuộc.
Như vậy, trong những năm 1999, năm 2000 và đầu năm 2001, lãi suất tái cấp vốn
liên tục được điều chỉnh nhằm thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ phục vụ cho
mục đích kích cầu nền kinh tế. Lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn đã được
NHNN áp dụng phù hợp với diễn biến trên thị trường tiền tệ, có tác dụng tốt trong
điều hòa cung cầu vốn trên thị trường. Nhìn chung đứng trên giác độ lãi suất có thể
thấy tiền tệ vốn ở nước ta trong năm 2002 đã sôi động hẳn lên. Điều đó trước hết là
do nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng lên, tiếp theo là do sự phát triển của thị trường
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
bất động sản và cuối cùng là co nhiều tổ chức phi ngân hàng tham gia cạnh trnah
tích cực trên thị trường vốn.
Những hạn chế của công cụ lãi suất chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu ở nước ta là
tất yếu trong thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường. Chiết khấu và tái chiết

khấu là hoạt động tín dụng gián tiếp của Ngân hàng nhằm điều khiển khối lượng
tiền phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế sau khi có hoạt động tín dụng trực tiếp tức
là sau hành vi Tín dụng Thương mại giữa các doanh nghiệp.
Việc chiết khấu và tái chiết khấu theo phương thức sử dụng công cụ : kỳ phiếu, tín
phiếu vẫn mang dáng dấp kiểu tín dụng trực tiếp. Yêu cầu việc tái chiết khấu là
cần có khoảng cách thời gian và không gian với cho vay trực tiếp để tạo ra “sóng
bằng phẳng” làm giảm sự “mấp mô” của giá cả. Mặt khác, trên thực tế thời gian qua
việc mua lại các dự án và cho vay cầm cố thực hiên rất ít vì những công cụ thực
hiện vẫn chưa đáp ứng và chưa thích hợp.
5. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Trong quá trình áp dụng công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt
buộc thì sau một quá trình chuẩn bị, ngày 12/7/2000 NHNN đã chính thức khai
trương nghiệp vụ thị trường mở. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình
đổi mới điều hành chính sách tiền tệ theo hướng từ sử dụng công cụ trực tiếp sang
công cụ gián tiếp, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng phát triển kinh tế của
đất nước.
Trên cơ sở dự báo vốn khả dụng của các NHTM, NHNN đã chủ động điều hành thị
trường mở để thu tiền về hoặc bơm tiền ra lưu thông trên cơ sở cung cầu vốn của thị
trường, trong đó chủ yếu là chào mua nhằm tạo điều kiện cho các TCTD có thể mở
rộng đầu tư tín dụng. Tuy chỉ mới hoạt động được có ba năm nhưng công cụ nghiệp
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
vụ thị trường mở đã tỏ ra có hiệu quả trong việc điều hành Chính sách tiền tệ, chất
lượng đã nâng lên rõ rệt. Việc dự báo vốn khả dụng của NHNN ngày càng sát với
nhu cầu mua và bán của thị trường.
Đến đầu năm 2002, có 21 TCTD tham gia thị trường trong đó có 4 NHTM nhà
nước, 10 NHTM cổ phần, 1 ngân hàng liên doanh, 4 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, 1 công ty tài chính và Quỹ tín dụng trung ương.
Từ 7/2000 đến đầu tháng 12/2001, NHNN đã tổ chức được 64 phiên đấu thầu
nghiệp vụ thị trường mở, với tổng doanh số giao dịch là 5.636 tỷ đồng, trong đó có
24 phiên thực hiện đấu thầu lãi suất, 40 phiên đấu thầu khối lượng. Trong năm

2000, NHNN tổ chức giao dịch 10 ngày 1 phiên từ năm 2001 tổ chức giao dịch mỗi
tuần 1 phiên, tạo điều kiện cho các TCTD chủ động thường xuyên tiếp cận với thị
trường khi có nhu cầu. Thời hạn thanh toán và giao nhận các giấy tờ có giá ngắn
hạn giữa các TCTD trước đây là 2 ngày từ cuối năm 2001 rút xuống 1 ngày. Tổng
khối lượng giấy tờ có giá NHNN đã mua lại trị giá 4.466 tỷ đồng NHNN bán ra
1.170 tỷ đồng. Lãi suất hình thành trên thị trường mở bám sát lãi suất thị trường.
Lãi suất trong năm 2001 dao động trong khoảng từ 4,9%-5,3%/năm. Đặc biệt với
việc NHNN thông qua thị trường mở cung ứng hơn 5000 tỷ đồng cho các TCTD đã
góp phần thực hiện chủ trương kích cầu của chính phủ.
Trong năm 2002, bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch là mua có kỳ
hạn và bán hẳn, NHNN đã tổ chức được 85 phiên thị trường thị trường mở, gấp 1,3
lần số phiên của hai năm trước đó với tổng khối lượng giao dịch 9.145 tỷ đồng,
bằng 232,48% so với năm 2001. Thông qua đó NHNN cung ứng thêm vốn cho nền
kinh tế, hoặc rút bớt tiền từ lưu thông về tạo điều kiện cho các NHTM tham gia có
hiệu quả thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Cụ thể:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×