Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

đồ án phát triển ứng dụng di động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT VINH
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
BỘ MÔN KỸ THUẬT MÁY TÍNH
***
ĐỒ ÁN MÔN HỌC
MÔN HỌC
PHÁT TRIỂN ỨNG DỤNG DI ĐỘNG
Tên đề tài : Tìm hiểu môi trường phát triển di động

Giáo viên hướng dẫn : ThS Trần Thanh Phong .
Nhóm sinh viên:
Lớp :
Nghệ An - 2014
TRƯỜNG ĐHSPKT VINH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KHOA C NTT Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BM KỸ THUẬT MÁY TÍNH

PHIẾU GIAO ĐỒ ÁN MÔN HỌC
MÔN HỌC: PHÁT TRIỂN ỨNG DỤNG DI ĐỘNG
Nhóm sinh viên:

Lớp: Công nghệ thông tin K3
Ngày giao đề: 13/08/2013 Ngày hoàn thành: 13/09/2013
1.Tên đề tài: " Tìm hiểu môi trường phát triển ứng dụng di động"
1.1.Yêu cầu:
1. Hệ điều hành Andorid
2. IOS 4
3. Window Phone 7
1.2. Nhiệm vụ đồ án:
2. Báo cáo và chương trình:
- Báo cáo thuyết minh(trình bày theo mẫu)


- Trình chiếu, mã nguồn: ghi vào đĩa CD để nạp.
3. Theo dõi quá trình thực hiện đồ án
Ngày
kiểm
tra
Tiến độ công việc (yêu cầu ghi
rõ các nội dung đã hoàn
thành)
Nhận xét của
GVHD
Chữ ký của
GVHD
4. Điểm hướng dẫn (điểm chữ và số)
………… ……… …… ………… ……… …… …………
………
5. Đồng ý cho bảo vệ hay không đồng ý:
………………………………………………………….… ….

TRƯỞNG BỘ MÔN GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn






Nghệ An , Ngày Tháng Năm 2014
Giáo Viên hướng dẫn
(Ký ghi rõ họ tên)
Nhận xét của giáo viên chấm







Nghệ An, Ngày Tháng Năm 2014.
Giáo Viên chấm
(Ký ghi rõ họ tên)
Mục Lục
Lời Mở Đầu 5
Chương I : Giới thiệu nền tảng hệ điều hành 6
I. Hệ Điều Hành IOS : 7
1.1 Lịch sử và hoàn cảnh ra đời : 7
1.2 Lịch sử các phiên bản của hệ điều hành iOS 7
II.Hệ điều hành Android 17
2.1 Lịch sử và hoàn cảnh ra đời : 17
2.2 Lịch sử các phiên bản của hệ điều hành Android : 19
III.Hệ Điều Hành Windows Phone 28
3.1 Lịch sử và hoàn cảnh ra đời : 28
3.2 Lịch sử các phiên bản của hệ điều hành Windows Phone : 28
Chương II : Tìm hiểu nền tảng ứng dụng và phát triển ứng dụng di động 30
2.1 Nền tảng ứng dụng iOS – iOS Application Platform 30
2.1.1 Môi trường phát triển ứng dụng iOS 30
2.2 Nền tảng ứng dụng Android – Android Application Platform 30
2.2.2 Môi trường phát triển ứng dụng Android 31
2.3 Nền tảng ứng dụng Windows Phone – Windows Phone Application Platform 32
2.3.3 Môi trường phát triển ứng dụng Windows Phone 32
Chương III : Sự lựa chọn nền tảng phát triển ứng dụng di động 34
Chương IV: Tổng Kết 36

I.Những ưu điểm,nhược điểm của Android 36
1. Ưu điểm: 36
2. Nhược điểm: 36
II.Những ưu điểm,nhược điểm của IOS 36
1. Ưu điểm : 36
2. Nhược điểm: 37
III.Những ưu điểm,nhược điểm của Windows Phone 37
1. Ưu điểm: 37
2. Nhược điểm : 37
Tài liệu tham khảo 38
Lời Mở Đầu
Với sự phát triển các ứng dụng trong môi trường công nghệ thông tin hiện nay
nói chung,đặc biệt trong môi trường di động nói riêng,ứng dụng di động không còn bị
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 5
xem nhẹ: nó đã trở thành công cụ marketing quan hệ gần gũi nhất giữa người sử
dụng/người tiêu dùng và cũng là sự phát triển được mong chờ của các công cụ hệ thống
thông tin. Vì vậy, việc tập trung phát triển tính tiện dụng và thiết kế của các ứng dụng
để không gây ảnh hưởng đến hình ảnh của thương hiệu hay gây ấn tượng xấu với người
sử dụng ngay lần kết nối đầu tiên là rất cần thiết. Các thiết bị đầu cuối di động (iPhone,
Android, Windows Phone…) có màn hình nhỏ hơn PC/Latop và có thêm nhiều tính
năng mới giúp người sử dụng đắm chìm trong môi trường riêng (camera, định vị địa lý,
gia tốc kế, màn hình cảm ứng ).
Nếu như trước kia những người sử dụng thiết bị di động được gọi là "Người
dùng di động" thì nay họ được mệnh danh là "Người truy cập Internet qua thiết bị di
động", họ liên lạc, làm việc, vui chơi giải trí mọi lúc mọi nơi và trên mọi định dạng di
động (điện thoại thông minh và máy tính bảng như Ipad).Bên canh đó,cùng hàng tỷ các
ứng dụng được tải xuống trên toàn thế giới (ios,android,windows phone…) sẽ hứa hẹn
đây là thị trường đầy tiềm năng.
Trong đồ án này chúng em nghiên cứu, tìm hiểu về môi trường phát triển ứng dụng

di động dựa trên các nền tảng Android , IOS và Window Phone. Chúng em chân thành cảm
ơn Thầy Trần Thanh Phong trong thời gian qua đã cung cấp cho chúng em những kiến
thức về các ứng dụng trên thiết bị di động. Tuy nhiên, do sự hiểu biết của chúng em về lĩnh
vực này còn hạn chế, đề án còn nhiều thiếu sót, chúng em kính mong Thầy thông cảm và
góp ý thêm.
Chúng em xin chân thành cảm ơn Thầy.
Chương I : Giới thiệu nền tảng hệ điều hành
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 6
I. Hệ Điều Hành IOS :
1.1 Lịch sử và hoàn cảnh ra đời :
IOS là hệ điều hành trên các thiết bị di động của Apple. Ban đầu hệ điều hành
này chỉ được phát triển để chạy trên iPhone (gọi là iPhone OS), nhưng sau đó nó đã
được mở rộng để chạy trên các thiết bị của Apple như iPod touch, iPad và Apple TV.
Ngày 31 tháng 5, 2011, App Store của Apple chứa khoảng 500 000 ứng dụng iOS,và
được tải về tổng cộng khoảng 15 tỷ lần. Trong quý 4 năm 2010, có khoảng 26% điện
thoại thông minh chạy hệ điều hành iOS, sau hệ điều
hành Android của Google và Symbian củaNokia.
Giao diện người dùng của iOS dựa trên cơ sở thao tác bằng tay. Người dùng có
thể tương tác với hệ điều hành này thông qua rất nhiều động tác bằng tay trên màn hình
cảm ứng của các thiết bị của Apple.
Phiên bản mới nhất của iOS là 7.1.2 ra ngày 1 tháng 7 năm 2014, dành cho tất
cả các thiết bị kể từ iPhone 4s, iPod 5, iPad 2 trở lên.
Hệ điều hành này được tiết lộ tại Hội nghị và Triển lãm Macworld diễn ra vào
tháng 1 năm 2007 và được phát hành vào tháng 9 năm đó.Khi đó, hệ điều hành này
chưa có một cái tên riêng nên chỉ đơn giản là "iPhone chạy OS X".Ban đầu, ứng dụng
bên thứ ba không được hỗ trợ. Steve Jobs đã chỉ ra rằng những nhà phát triển có thể
xây dựng các ứng dụng web mà "sẽ cư xử như những ứng dụng ban đầu trên
iPhone".Vào ngày 17 tháng 10 năm 2007, Apple thông báo một bộ phát triển phần
mềm đang được xây dựng và họ dự định sẽ đưa nó đến "tay của các nhà phát triển vào

tháng 2". Ngày 6 tháng 3 năm 2008, Apple đã phát hành bản dùng thử đầu tiên, cùng
với một cái tên mới cho hệ điều hành, đó là "iPhone OS".
Tháng 6 năm 2010, Apple đổi cái tên iPhone OS thành iOS. Nhãn hiệu "IOS" đã
được Cisco dùng để đặt tên cho hệ điều hành của mình. Để tránh các vụ kiện cáo,
Apple đã xin giấy phép sử dụng nhãn hiệu iOS từ Cisco.
1.2 Lịch sử các phiên bản của hệ điều hành iOS
iOS 1: sự ra đời của iPhone
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 7
Vào năm 2007, hầu hết các nền tảng khác như Windows Mobile, Palm OS,
Symbian hay Blackberry OS đều đang ở đỉnh cao của chúng so với một iOS non nớt.
Để rõ hơn, vào thời điểm đó iOS không hỗ trợ 3G, không hỗ trợ đa nhiệm, không cho
cài thêm phần mềm từ bên thứ 3, không cho cắt/dán văn bản, không hỗ trợ đính kèm
file trong email, tin nhắn MMS, tài khoản Mail for Exchange, màn hình chủ không tùy
biến, không hỗ trợ tethering, giấu file thư mục khỏi người dùng, không cho phép chỉnh
sửa văn bản, gọi điện bằng giọng nói
Thay vì cạnh tranh về cấu hình thì Apple lại tập trung vào trải nghiệm gốc của
người dùng, về tốc độ, sự ổn định của các ứng dụng và chỉ đưa ra 1 vài tính năng thôi
nhưng tất cả những tính năng đó đều cực kỳ tốt so với những gì đang có trên thị trường
vào năm 2007.
Ba tháng sau khi ra mắt iPhone, Apple đưa ra bản cập nhật đầu tiên iOS 1.1.1.
Bản cập nhật này gây nhiều chú ý vì nó tạo ra 1 “thói quen” mới: Apple sẽ cố gắng cập
nhật hệ điều hành cho thiết bị chừng nào họ còn có thể. Ngoài ra, 1.1.1 còn đánh dấu
sự ra đời của 1 thiết bị mới là iPod touch.
Tính năng đáng chú ý nhất của bạn 1.1.1 này là kho nhạc Music Store trên
iTunes cho phép người dùng mua ngay trên điện thoại. Ngoài ra, iPhone cũng hỗ trợ
TV out và 1 shortcut khi nhấn kép nút home, một tính năng mà Apple liên tục thay đổi
qua các phiên bản. iOS 1.1.3 sau đó bổ sung thêm khả năng sắp xếp các biểu tượng ở
màn hình chủ cũng như shortcut của các trang mà Apple gọi là Web Clips.
GVHD : ThS Trần Thanh Phong

Trang 8
iOS 2:
Tháng 7/2008, khi Apple giới thiệu iOS 2 với kho ứng dụng App Store. Các ứng
dụng trên App Store có thể được mua trực tiếp trên thiết bị hoặc qua iTunes trên máy
tính, những cách thức tương tác rất khác lạ so với các phân phối phần mềm di động
truyền thống.
App Store: Apple App Store là một kênh phân phối ứng dụng hoàn toàn khác biệt, nó
không chỉ giúp người dùng cài đặt ứng dụng trên máy tính mà còn trên chính bản thân
thiết bị. Trước khi App Store ra mắt, người ta chỉ có thể mua ứng dụng từ các trang
web hay các kho ứng dụng bên thứ 3 vốn tích hợp khá lỏng lẻo vào hệ điều hành. Đặc
biệt hơn, App Store sử dụng chung một tài khoản với kho nhạc iTunes vốn đã quá phổ
biến trước đó nên người dùng không cần phải đăng ký mới, nhập lại thông tin thẻ tín
dụng hay các thao tác phức tạp khác.
Dù vậy, App Store không phải là không có điểm yếu. Đầu tiên, chính là việc
Apple ngăn cấm người dùng cài đặt thêm phần mềm từ các kho ứng dụng khác. Việc
này có thể không quá tệ nếu như chính sách kiểm duyệt phần mềm của hãng khá hơn,
họ có thể dễ dàng loại bỏ những ứng dụng không thích trong khi phần mềm đó vẫn
hiện diện trên các kho ứng dụng đối thủ.
iOS 2.0 ra mắt cũng iPhone 3G và nó hỗ trợ thêm 1 số tính năng liên quan tới phần
cứng mới như 3G và A-GPS.
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 9
iOS 2 không phải là 1 phiên bản thật sự ổn định khi hàng loạt người dùng báo cáo về
các lỗi pin kém, treo ứng dụng hay mất thoại. Apple đã cố gắng sửa chữa bằng các bản
cập nhật 2.0.1 và 2.0.2 nhưng chúng vẫn không giải quyết triệt để cho đến khi 2.1 ra
mắt vào thàng 9 năm 2008. Bản 2.1 cũng đồng thời tăng tốc quá trình động bộ hóa với
iTunes. Bản 2.2 xuất hiện vào tháng 11 cùng năm bổ sung thêm tính năng Street View,
dẫn đường bằng cách phương tiện công cộng và đi bộ.
iOS 3
Tháng 6/2009, Apple bổ sung hàng loạt các tính năng vào hệ điều hành này. iOS

3 không thật sự có nhiều tính năng lớn nhưng những tính năng nhỏ của nó là rất nhiều.
“Cắt, copy và dán”. Trên iOS 3, Apple đã giới thiệu một phương thức mới để chúng ta
tương tác với màn hình cảm ứng tốt hơn khi thực hiện các thao tác cắt và dán. Trước
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 10
đây, việc thao tác trên màn hình cảm ứng đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các cây viết
stylus mang tính chính xác cao còn Apple đã bổ sung thêm kính lúp phóng to chữ và
thanh slider phù hợp hơn.
Ở iOS 3,hỗ trợ tin nhắn MMS, có thêm quay video, bàn phím nằm ngang, ứng
dụng ghi chú giọng nói, cho phép xóa dữ liệu trên máy từ xa, hỗ trợ bluetooth đa kênh
và đặc biệt là cho phép iPhone trở thành modem 3G cho máy tính khi kết nối qua
Bluetooth hoặc cổng USB. Một tính năng tiêu chuẩn khác của điện thoại thông minh
mà Apple cũng thêm vào là gọi điện bằng giọng nói Voice Control.
iOS 3.2: sự ra đời của iPad
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 11
Bản cập nhật 3.2 là một bản nâng cấp lớn của Apple nhằm giúp iOS hoạt động tốt hơn
với một thiết bị có độ phân giải khác lạ và màn hình lớn như iPad. Ngoài ra, phiên bản
này cũng bổ sung thêm chế độ hiển thị ngang ở màn hình chủ, menu pop-up và rất
nhiều các thay đổi khác.
Bản iOS 3.2 chỉ dành riêng cho iPad chứ không có bản cho iPhone.
iOS 4: đa nhiệm
Tháng 6/2010, mục tiêu của iOS 4 rất đơn giản: thêm các tính năng mới cho
người dùng cao cấp: đa nhiệm, tạo folder cho ứng dụng, Wi-Fi tethering, tùy chỉnh tìm
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 12
kiếm Spotlight (cho cả web và wikipedia), hợp nhất tất cả các hộp thư, hỗ trợ nhiều tài
khoản Exchange Gây chú ý nhất của iOS 4 tất nhiên chính là đa nhiệm, tính năng mà
các hệ điều hành khác đều đã hỗ trợ từ rất lâu. Tuy nhiên, Apple không trực tiếp cho
các ứng dụng chạy đa nhiệm mà chúng đều dựa trên 6 dịch vụ đa nhiệm khác nhau

nhằm duy trì tính ổn định của hệ thống, tiết kiệm pin so với các giải pháp đa nhiệm đầy
đủ. Dù vậy, lựa chọn này cũng làm Apple bị phàn nàn khá nhiều.
Đa nhiệm cũng đồng thời mang lại một chức năng mới cho nút Home, bạn sẽ nhấn nó 2
lần để gọi lên menu đa nhiệm chứa tất cả các ứng dụng đang chạy nền. Để tắt nó đi ta
sẽ nhấn giữ và bấm vào dấu X. Ngoài ra, nếu quét ngón ta sang trái ở màn hình này thì
bạn sẽ xuất hiện widget điều khiển nhạc hay tăng giảm độ sáng màn hình.
Bản cập nhật tiếp theo là iOS 4.1 ra mắt Game Center, một dạng mạng xã hội cho
những người chơi game trên nền tảng iOS. iOS 4.1 đồng thời cho người dùng thuê các
chương trình TV Show ngay trên thiết bị và bổ sung mạng xã hội âm nhạc Ping của
hãng. Camera cũng bổ sung thêm tính năng chụp ảnh HDR kết hợp 2 tấm ảnh ở 2 mức
độ phơi sáng khác nhau nhằm tại ra ảnh chất lượng cao hơn, hỗ trợ tải video full HD
trực tiếp lên YouTube.
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 13
Không chỉ dừng lại ở iPhone mà iOS 4.2.1 bổ sung đa nhiệm và folder cho iPad,
hợp nhất toàn bộ các thiết bị iOS vào 1 phiên bản hệ điều hành duy nhất. Song song đó,
iOS 4.2.1 hỗ trợ AirPlay, chức năng chia sẻ video giữa các thiết bị iOS và Apple TV và
AirPrint cho những ai cần in ấn.
iOS 4.2.5 chủ yếu hỗ trợ người dùng Verizon, kích hoạt tính năng WiFi Mobile
Hotspot. iOS 4.3 ngay sau đó đồng thời cho phép các ứng dụng bên thứ 3 hoạt động
với AirPlay, iTunes Home Sharing cho phép nghe nhạc qua mạng khi không ở nhà
đồng thời bổ sung Personal Hotspot cho các máy GSM.
iOS 5: Siri và nhiều hơn nữa
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 14
Giống như iOS 3, iOS 5 cũng bán ra cùng với 1 thiết bị nâng cấp nhẹ của
iPhone là iPhone 4S thay vì 1 phiên bản hoàn toàn mới. Và cũng tương tự bản 3, bản
nâng cấp lớn thứ 5 này có rất nhiều tính năng mới nhằm tăng cường sự cạnh tranh của
hãng trên thị trường.
Siri: Chỉ hoạt động với iPhone 4S, Siri thay thế Voice Control trong vai trò 1

“trợ lý ảo” nhằm thực hiện các mệnh lệnh người dùng đưa ra. Siri không chỉ đơn thuần
đáp ứng các câu lệnh theo khuôn mẫu mà nó sẽ lắng nghe câu hỏi của bạn và cố gắng
phản hồi như 1 người bình thường. Siri có thể tương tác với các ứng dụng trên máy
như lịch, danh bạ hay web WolframAlpha.
Siri hiện tại vẫn đang chỉ dừng lại ở bản thử nghiệm và nó luôn phải kết nối với máy
chủ mỗi khi muốn thực hiện việc gì, ngay cả soạn tin nhắn hay tạo mục lịch. Đôi khi
Siri cho ra những kết quả rất quái đản nhưng nó là 1 tính năng của tương lai hứa hẹn sẽ
rất phổ biến trong những năm tới.
Apple cũng cho phép người dùng lựa chọn ứng dụng nào được phép cảnh báo
bạn, cảnh báo theo kiểu nào và ứng dụng nào không được lên tiếng, khá hữu ích. Ngoài
ra, các cảnh báo cũng có thể được xuất hiện ở màn hình khóa máy và khi hiển thị trong
ứng dụng, cảnh báo chỉ hiện nhẹ ở trên đỉnh và sẽ tự động mất đi nếu người dùng
không bấm vào, giảm thiểu tình trạng khó chịu theo kiểu pop up trước kia.
iOS 6
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 15
Ngày 11/6/2012, iOS 6 được giới thiệu tại WWDC, cũng giống lịch nâng cấp và
giới thiệu hằng năm. Tuy nhiên iOS 6 năm nay đã gây sốc với mọi người khi mà ứng
dụng YouTube và Google Maps quen thuộc mấy năm trời giờ đã biến mất. Thoạt đầu
người ta tưởng đây là lỗi của bản beta, tuy nhiên sau đó Apple đã lên tiếng xác nhận
hãng đã hoàn toàn chia tay với hai ứng dụng trên. Thay vào đó, Apple bổ sung vào iOS
ứng dụng Maps của riêng mình với dữ liệu do chính hãng và các đối tác thu thập (như
TomTom Maps) chứ không còn dùng của Google.
iOS 7: Xin chào Jony Ive
iOS 7 là phiên bản đầu tiên của iOS mà Apple chỉnh sửa rất nhiều thứ về mặt
giao diện. Chúng ta có thể xem iOS 7 như một cú chuyển mình hoàn toàn của iOS sau
6 năm trời tồn tại. iPhone 5s và iPhone 5c là hai thiết bị được cài sẵn hệ điều hành mới
này, iPad 4, iPad 3, iPad 2, iPhone 4, 4s, 5 và iPod Touch đới thứ 5 thì có cập nhật lên.
Như đã nói ở trên, iOS 7 là cải tiến rất lớn của Apple bởi có sự tham gia của
Jony Ive vào quá trình thiết kế phần mềm chứ không chỉ giới hạn ở phần cứng nữa.

Các biểu tượng bóng bẩy, hoa văn tinh xảo, những hình ảnh mô phỏng các đối tượng
ngoài đời thực đã không còn. Thay vào đó, Apple áp dụng phong cách thiết kế phẳng
và đơn giản hóa mọi thứ, từ icon cho đến các nút và văn bản hiển thị trên màn hình.
Điểm mấu chốt trong giao diện iOS 7 đó là sự sắp lớp (layer). Apple làm cho người
dùng cảm thấy như ứng dụng đang chồng lên màn hình chính, bản thân các đối tượng
đồ họa trong một app cũng như chồng lên những đối tượng còn lại. Ví dụ dễ thấy nhất
đó là ứng dụng nhắn tin: vì bàn phím trong suốt nên khi bạn cuộn xuống, bạn sẽ thấy
như nó đang đè lên trên các dòng tin nhắn xanh dương, xanh lá, tạo cảm giác mờ ảo
khá thú vị. Hiệu ứng tương tự cũng được mang vào Notification, màn hình khóa và
nhiều nơi khác
iOS trong tương lai
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 16
Trong 6 năm qua, chúng ta đã được thấy nhiều cuộc tranh luận từ chuyện liệu
iPhone có phải là một chiếc smartphone hay không cho đến việc iPhone có thể thay thế
máy tính hay không. Những câu hỏi này không chỉ vì thế giới công nghệ đang thay đổi
mà còn bởi vì Apple có thể thay đổi hệ điều hành của mình mỗi năm và làm mới nó. Sự
tiến hóa của iOS là rất đáng ghi nhận, từ một OS có rất nhiều chữ không trở thành một
hệ điều hành tiên tiến và hiện đại với nhiều tính năng vượt trội so với các đối thủ khác
trên thị trường.
Với iOS 7, Apple quả thật đã làm mới giao diện rất nhiều, nhưng nó vẫn chưa
thay đổi gì nhiều trong cách mà chúng ta tương tác với smartphone và tablet như những
gì iOS mang lại cho thế giới. iOS 7 cũng có nhiều tính năng mới hữu ích thật đấy, thế
nhưng trải nghiệm của người dùng không có nhiều điểm mới, chúng ta vẫn có một màn
hình chính, chạy app lên, thoát ra ngoài, chuyển qua lại giữa các app trong chế độ đa
nhiệm.
II.Hệ điều hành Android
2.1 Lịch sử và hoàn cảnh ra đời :
Android là một hệ điều hành dựa trên nền tảng Linux được thiết kế dành cho
các thiết bị di động có màn hình cảm ứng như điện thoại thông minh và máy tính bảng.

Ban đầu, Android được phát triển bởi Tổng công ty Android, với sự hỗ trợ tài chính
từ Googlevà sau này được chính Google mua lại vào năm 2005.Android ra mắt vào
năm 2007 cùng với tuyên bố thành lập Liên minh thiết bị cầm tay mở: một hiệp hội
gồm các công ty phần cứng, phần mềm, và viễn thông với mục tiêu đẩy mạnh các tiêu
chuẩn mở cho các thiết bị di động. Chiếc điện thoại đầu tiên chạy Android được bán
vào tháng 10 năm 2008.
[8]
Tổng công ty Android (Android, Inc.) được thành lập tại Palo Alto,
California vào tháng 10 năm 2003 bởi Andy Rubin (đồng sáng lập công ty Danger),
Rich Miner (đồng sáng lập Tổng công ty Viễn thông Wildfire), Nick Sears (từng là Phó
giám đốc T-Mobile), và Chris White (trưởng thiết kế và giao diện tại WebTV để phát
triển, theo lời của Rubin, "các thiết bị di động thông minh hơn có thể biết được vị trí và
sở thích của người dùng".DÙ những người thành lập và nhân viên đều là những người
có tiếng tăm, Tổng công ty Android hoạt động một cách âm thầm, chỉ tiết lộ rằng họ
đang làm phần mềm dành cho điện thoại di động. Trong năm đó, Rubin hết kinh
phí. Steve Perlman, một người bạn thân của Rubin, mang cho ông 10.000 USD tiền
mặt nhưng từ chối tham gia vào công ty.
Google mua lại Tổng công ty Android vào ngày 17 tháng 8 năm 2005, biến nó
thành một bộ phận trực thuộc Google. Những nhân viên của chủ chốt của Tổng công ty
Android, gồm Rubin, Miner và White, vẫn tiếp tục ở lại công ty làm việc sau thương
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 17
vụ này. Vào thời điểm đó không có nhiều thông tin về Tổng công ty, nhưng nhiều
người đồn đoán rằng Google dự tính tham gia thị trường điện thoại di động sau bước đi
này. Tại Google, nhóm do Rubin đứng đầu đã phát triển một nền tảng thiết bị di động
phát triển trên nềnnhân Linux. Google quảng bá nền tảng này cho các nhà sản xuất
điện thoại và các nhà mạng với lời hứa sẽ cung cấp một hệ thống uyển chuyển và có
khả năng nâng cấp. Google đã liên hệ với hàng loạt hãng phần cứng cũng như đối tác
phần mềm, bắn tin cho các nhà mạng rằng họ sẵn sàng hợp tác với các cấp độ khác
nhau.

Ngày càng nhiều suy đoán rằng Google sẽ tham gia thị trường điện thoại di
động xuất hiện trong tháng 12 năm 2006. Tin tức của BBC và Nhật báo phố Wall chú
thích rằng Google muốn đưa công nghệ tìm kiếm và các ứng dụng của họ vào điện
thoại di động và họ đang nỗ lực làm việc để thực hiện điều này. Các phương tiện
truyền thông truyền thống lẫn online cũng viết về tin đồn rằng Google đang phát triển
một thiết bị cầm tay mang thương hiệu Google. Một vài tờ báo còn nói rằng trong khi
Google vẫn đang thực hiện những bản mô tả kỹ thuật chi tiết, họ đã trình diễn sản
phẩm mẫu cho các nhà sản xuất điện thoại di động và nhà mạng. Tháng 9 năm
2007, InformationWeek đăng tải một nghiên cứu của Evalueserve cho biết Google đã
nộp một số đơn xin cấp bằng sáng chế trong lĩnh vực điện thoại di động.
Ngày 5 tháng 11 năm 2007, Liên minh thiết bị cầm tay mở (Open Handset Alliance),
một hiệp hội bao gồm nhiều công ty trong đó có Texas Instruments, Tập đoàn
Broadcom,Google, HTC, Intel, LG, Tập đoàn Marvell
Technology, Motorola, Nvidia, Qualcomm, Samsung Electronics, Sprint Nextel và T-
Mobile được thành lập với mục đích phát triển cáctiêu chuẩn mở cho thiết bị di động.
[7]
Cùng ngày, Android cũng được ra mắt với vai trò là sản phẩm đầu tiên của Liên
minh, một nền tảng thiết bị di động được xây dựng trên nhân Linux phiên bản
2.6.
]
Chiếc điện thoại chạy Android đầu tiên được bán ra là HTC Dream, phát hành
ngày 22 tháng 10 năm 2008. Biểu trưng của hệ điều hành Android mới là một con
rôbốt màu xanh lá cây do hãng thiết kế Irina Blok tại California vẽ.
Từ năm 2008, Android đã trải qua nhiều lần cập nhật để dần dần cải tiến hệ điều hành,
bổ sung các tính năng mới và sửa các lỗi trong những lần phát hành trước. Mỗi bản
nâng cấp được đặt tên lần lượt theo thứ tự bảng chữ cái, theo tên của một món ăn tráng
miệng
]
; ví dụ như phiên bản 1.5 Cupcake (bánh bông lan nhỏ có kem) tiếp nối bằng
phiên bản 1.6 Donut (bánh vòng). Phiên bản mới nhất hiện nay là 4.4.2 Kitkat. Vào

năm 2010, Google ra mắt loạt thiết bị Nexus—một dòng sản phẩm bao gồm điện thoại
thông minh và máy tính bảng chạy hệ điều hành Android, do các đối tác phần cứng sản
xuất. HTC đã hợp tác với Google trong chiếc điện thoại thông minh Nexus đầu
tiên,
]
Nexus One. Kể từ đó nhiều thiết bị mới hơn đã gia nhập vào dòng sản phẩm này,
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 18
như điện thoại Nexus 4 và máy tính bảng Nexus 10, lần lượt do LG và Samsung sản
xuất. Google xem điện thoại và máy tính bảng Nexus là những thiết bị Android chủ lực
của mình, với những tính năng phần cứng và phần mềm mới nhất của Android.
2.2 Lịch sử các phiên bản của hệ điều hành Android :
Android 1.1
Tháng 2/2009, bản nâng cấp đầu tiên của Android được trình làng, khoảng ba
tháng sau khi G1 được bán ra. Phiên bản 1.1 không phải là một cuộc cách mạng gì to
lớn bởi tính năng chính của nó là sửa một danh sách lỗi khá dài. Tuy nhiên, nó đã cho
thấy khả năng nâng cấp thiết bị di động qua phương pháp Over-The-Air (tức tải về và
cài đặt bản cập nhật ngay trên thiết bị, không cần kết nối với máy tính). Ở thời điểm
đó, rất ít hệ điều hành di động có thể làm được việc này, hầu hết đều phải nhờ đến một
phần mềm chuyên dùng nào đó trên PC.
Android 1.5 Cupcake
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 19
Android 1.5 có lẽ có vai trò cực kì quan trọng trong quá trình trưởng thành của
Android khi nó bổ sung cho hệ điều hành này những tính năng nổi bật giúp nó cạnh
tranh với các nền tảng đối thủ khác. Đây cũng là bản Android đầu tiên được Google
gọi tên theo các món đồ ăn với chữ cái bắt đầu được xếp theo thứ tự alphabet.
Android 1.6 Donut
Phiên bản bánh Donut này, mặc dù chỉ thêm có 0.1 vào mã số của Android 1.5
nhưng nó cũng mang lại nhiều cải tiến đáng giá. Một vài điểm trong giao diện được cải

thiện, vài tính năng nhỏ được thêm vào, cuối cùng là hỗ trợ cho mạng CDMA. Động
thái này cho phép nhiều nhà mạng hơn có thể sử dụng với Android, giúp cho Android
có thêm một số lượng lớn người dùng ở Mỹ và ở cả Châu Á nữa. Nhưng điểm thú vị
nhất của Donut đó là hỗ trợ các thành phần đồ họa độc lập với độ phân giải. Lần đầu
tiên, Android có thể chạy trên nhiều độ phân giải và tỉ lệ màn hình khá nhau, cho phép
những thiết bị có nhiều độ phân giải hơn là 320 x 480.
Android 2.0 và Android 2.1 Éclair
Đầu tháng 9 năm 2009, Android 2.0 đã được ra mắt. Một cơ hội lớn cho những nhà
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 20
phát triển, một tiềm năng lớn cho Android về sau, những chiếc điện thoại "lớn" được ra
mắt và phân phối bởi các nhà mạng lớn. Eclair, tên gọi của Android 2.0, lúc mới ra mắt
chỉ được dùng độc nhất cho chiếc Motorola Droid của nhà mạng Verizon, một trong
những chiếc điện thoại đã kích hoạt cho một kỉ nguyên Android lớn mạnh như ngày
hôm nay. Motorola Droid còn được biết đến với tên gọi Motorola Milestone khi nó
xuất hiện ở Việt Nam. Đây là một sản phẩm rất thành công của Motorola và cả Google
khi mang đến cho người dùng những trải nghiệm cực kì tốt với Android.
Android 2.1 cũng có rất nhiều ý nghĩa về việc thay đổi chiến lược của Google.
Nhận thấy rằng các hãng phần cứng thường thay đổi giao diện gốc của Android theo ý
họ, Google đã chọn HTC để làm việc trực tiếp và tạo ra Nexus One, chiếc điện thoại
đầu tiên của hãng. Nexus One mang trong mình một bản Android 2.1 thuần khiết nhất
và không hề bị chỉnh sửa gì cả. Không chỉ nổi bật về mặt phần mềm, Nexus One còn
có phần cứng mạnh mẽ thời bấy giờ. Nó là một trong những smartphone đầu tiên chạy
trên CPU Snapdragon 1GHZ của Qualcomm, đồng thời sở hữu màn hình AMOLED độ
phân giải WVGA. Thực ra, Google đã tiến hành việc này kể từ chiếc Droid với
Android 2.0. Google và Motorola đã làm việc chặt chẽ để cùng phát triển một mẫu điện
thoại tốt, nhưng Eclair trong Droid vẫn có vài sự tinh chỉnh. Và tất nhiên là Google
chưa bao giờ trực tiếp bán Droid cả.
Android 2.2 Frodo


Android 2.2 được ra mắt trong năm 2010 và mục tiêu của chương trình Nexus đã xuất
hiện rõ hơn bao giờ hết: Nexus One là chiếc điện thoại đầu tiên được nâng cấp lên
Android 2.2, sớm hơn nhiều so với tất cả các hãng khác. Giao diện màn hình chính đã
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 21
được thay đổi, từ 3 màn hình chính tăng lên thành 5 màn hình. Dãy nút kích hoạt nhanh
chế độ gọi điện, web và App Drawer cũng đã xuất hiện. Những chấm nhỏ ở góc trái,
phải bên dưới của màn hình giúp người dùng biết mình đang xem đến màn hình nào.
Google đã có nhiều cố gắng để giao diện Android được vui và đẹp hơn, dễ dùng hơn,
bắt kịp phần nào với giao diện của bên thứ ba như HTC Sense chẳng hạn
Android 2.3 Gingerbread
Khoảng nửa năm sau khi FroYo xuất hiện, Google đã trở lại với bản Android 2.3.
Google giới thiệu nó với nhiều tính năng mới, tập trung vào việc phát triển game, đa
phương tiện và phương thức truyền thông mới. Android 2.3 có tên mã là Gingerbread,
hiện bộ SDK Android 2.3 dành cho các nhà phát triển cũng đã được Google phát hành.
Bên cạnh đó, chiếc Nexus S do Samsung sản xuất cũng xuất hiện với vai trò là người
kế nhiệm cho Nexus One. Nexus S có vài thay đổi nhỏ so với người anh em Galaxy S.
Android 3.x Honeycomb
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 22
Honeycomb là phiên bản Android dành riêng cho máy tính bảng, và sản phẩm
đầu tiên dùng hệ điều hành này Motorola Xoom. Xoom mang trong mình một giao
diện thuần Android 3.0 và không bị chỉnh sửa gì. Mặc dù Android 3.0 không có nhiều
dấu ấn đặc biệt trên thị trường nhưng nó là nền tảng cho Android 4.0 sau này.
Android 4.0 Ice Cream Sandwich
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 23
Cuối năm 2011, Google chính thức giới thiệu điện thoại Galaxy Nexus, thiết bị
đầu tiên trên thị trường sử dụng Android 4.0 Ice Cream Sandwich. Có thể nói Android
4.0 là sự thay đổi lớn nhất trong lịch sử phát triển của Android tính đến ngày viết bài

này. Android 4.0 hỗ trợ một bộ font mới tên là Roboto được cho là tối ưu hóa để dùng
trên các màn hình độ phân giải càng ngày càng cao hơn, đồng thời để hiển thị được
nhiều thông tin hơn trên màn hình. Hệ thống thông báo (Notification) già nua của
Android đã được làm mới hoàn toàn, đẹp hơn, tiện dụng hơn, nhất là tính năng trượt
ngang để xóa từng thông báo riêng lẻ. Tương tự như vậy cho tính năng Recent Apps và
cả trình duyệt của máy. Bàn phím cũng được làm mới với khả năng tự động sửa lỗi cao
hơn, việc sao chép, cắt dán chữ và nội dung cũng tốt hơn bao giờ hết.
Đây cũng là lần đầu tiên Google hợp nhất hệ điều hành dành cho smartphone và cho
máy tính bảng vào làm một. Đây là một động thái của hãng nhằm giảm thiểu sự phân
mảnh vốn đang ngày càng nghiêm trọng của Android. Khi chạy trên máy tính bảng,
Android 4.0 sẽ có một giao diện khác tối ưu cho màn hình lớn, nhưng về cơ bản thì
tính năng của nó vẫn giống hệt như lúc chạy trên smartphone. Android 4.0 cũng nhắm
GVHD : ThS Trần Thanh Phong
Trang 24
đến việc duyệt web nhanh hơn, tối ưu hóa hiệu suất hoạt động của thiết bị, kéo dài thời
gian dùng pin
Android 4.1 Jelly Bean
Đây là phiên bản mới nhất tính đến thời điểm hiện tại. Android 4.1 được giới
thiệu tại hội nghị Google I/O với nhiều cải tiến đáng giá và rất được mong đợi. Đây
cũng là lúc chiếc Nexus 7 được chính thức ra mắt với sự hợp tác giữa Google với Asus.
Về giao diện, không có nhiều thay đổi so với Android 4.0, vẫn là màn hình chính với
thanh dock bên dưới quen thuộc. Giao diện kiểu này rất đơn giản nhưng lại đẹp và gọn
gàng, giúp chúng ta dễ dàng theo dõi những thông tin xuất hiện trên màn hình, đặc biệt
là khi điều khiển các ứng dụng.
Android 4.2 Jelly Bean
Ngày 30/10/2012, Google chính thức tuyên bố cập nhật hệ điều hành Android
của hãng lên phiên bản 4.2 và vẫn giữ nguyên tên gọi "Jelly Bean" (có nghĩa là kẹo dẻo
đậu). Được hãng gọi là "một hương vị mới của Jelly Bean", Android 4.2 mang trong
mình nhiều tính năng mới như hỗ trợ Miracast, bàn phím có thể nhập liệu bằng cách vẽ
GVHD : ThS Trần Thanh Phong

Trang 25

×