TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN
NGUYỄN THU HIỀN
XÁC ĐỊNH CHỈ THỊ PHÂN TỬ ĐA HÌNH GIỮA GIỐNG CHO (KC25) VÀ
GIÓNG NHẬN (NPT1) QTL/ GEN QUY ĐỊNH TÍNH TRẠNG TĂNG SỐ
HẠT TRÊN BÔNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyền ngành: Di truyền phân tử
HÀ NỘI, 2015
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các
thầy cô giáo.
Đầu tiên tôi xin gừi lời cảm ơn tới TS.Trần Đăng Khánh là người thầy đã
hướng dẫn tận tình, tạo điều kiện tốt nhất giúp tôi hoàn thành tốt khóa luận này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn Như Toản và các thầy cô giáo trong
khoa Sinh - KTNN Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2, những người đã truyền đạt
cho tôi những kiến thức và phương pháp nghiên cứu quý báu trong suốt thời gian
học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô, anh chị tại Viện Di truyền Nông
nghiệp đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện giúp tôi trong thời gian học tập, nghiên
cứu tại viện.
Và cuối cùng, tôi xin gừi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè và
những người luôn quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu
vừa qua.
Trong thời gian hoàn thành khóa luận, do lần đầu tiên làm nghiên cứu khoa
học và thời gian có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn sinh viên để khóa luận được
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015 Sinh viên
Nguyễn Thu Hiền
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này được hoàn thành là kết quả nghiên cứu của
riêng tôi, những số liệu trong khóa luận là trung thực, không sao chép, không
trùng lặp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Nấu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015 Sinh viên
Nguyễn Thu Hiền
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh
MỤC LỤC
1.
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nghĩa của chữ viết tắt
1 ĐBSH Đồng bằng Sông Hồng
2 ĐBSCL Đồng bằng Sông Cửu Long
3 IRRI Viện nghiên cứu lúa Quốc tế
4 MABC Marker assisted backcrossing
5 MAS Marker-assisted selection
6 PCR Polymerase Chain Reaction
7 QTL Quantitative trait loci
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Chỉ thị SSR dùng xác định đa hình tại vị trí QTL/gen quy định tính
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1.1: Sơ đồ diện tích và sản lượng lúa gạo thế giới giai đoạn 2002-2011 5
Hình 1.2: Xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2011 (đơn vị:
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Cây lúa (Oryza sativa L.) - Lúa trồng châu Á, thuộc họ Hòa thảo
(Cramnỉnae), tộc Oryza.
Cây lúa là một trong những cây lương thực quan trọng cho khoảng 2/3 dân
số thế giới, là cây trồng chiến lược đảm bảo an ninh lương thực trên thế giới
cũng như ở Việt Nam và không chỉ đối với các nước nghèo mà cho cả với các
nước phát triển.
Ở Việt Nam, lúa là nguồn lương thực chủ yếu của hơn 89 triệu dân với diện
tích khoảng 7,4 triệu hecta, năm 2010 sản xuất được 39,710 triệu tấn thóc, xuất
khẩu khoảng 7 triệu tấn đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo sau Thái Lan.
Nước ta có hai vùng trồng lúa chính là Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL)
diện tích 3,79 triệu ha chiếm 50% sản lượng lúa cả nước và Đồng bằng Sông
Hồng (ĐBSH) diện tích 1,18 triệu ha chiếm 17% sản lượng (Bộ Nông Nghiệp và
Phát triển Nông thôn, 2009).
Trên thế giới, an ninh lương thực không chỉ là vấn đề với các nước nghèo
mà nó đang trở thành vấn đề có tính toàn cầu. Dân số thế giới liên tục tăng
(khoảng 9 tỷ người năm 2050) trong khi diện tích đất dành cho việc trồng lúa
hầu như không tăng mà ngày càng giảm do quỹ đất được chuyển sang sử dụng
cho các mục đích đô thị hóa như xây dựng khu công nghiệp, trường học, nhà ở,
khu du lịch
Do vậy, phát triển nguồn giống đã được cải tiến cho năng suất cao, chất
lượng tốt là yếu tố quan trọng cho việc đảm bảo hệ thống sản lượng lúa. Chọn
tạo giống lúa có khả năng năng suất cao là hết sức cần thiết và có ý nghĩa cho an
toàn lương thực và tăng thu nhập của nông dân.
Chọn giống nhờ chỉ thị phân tử và lai trở lại (MABC) là phương pháp thiết
thực, hiệu quả trong việc chuyển locut gen quy định tính trạng di truyền số
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 6
lượng (QTL) hay gen vào giống mới. Phương pháp MABC cho phép rút ngắn
quá trình chọn lọc, chọn lọc được những tính trạng khó và đắt tiền hay nhiều gen
cùng một lúc. Chọn giống bằng MABC sẽ giảm được giá thành và thời gian.
Chọn giống nhờ chỉ thị phân tò là kỹ thuật hiệu quả so với phương pháp chọn
giống truyền thống. Bởi vì, chọn giống nhờ chỉ thị phân tử cho phép chọn lọc
trực tiếp hệ gen của từng cá thể trong quần thể. Chọn giống nhờ chỉ thị phân tò
có thể sử dụng một lượng lớn chỉ thị để kiểm tra di truyền của dòng bố mẹ. Từ
đó có thể kiểm soát được các alen đặc biệt trong các cá thể của quần thể. Kiểm
tra theo phương pháp đó kết hợp lai trở lại 2 đến 3 thế hệ là có thể thu được cá
thể với nền di truyền của dòng mẹ và mang gen chuyển. Các dòng này có thể
cho tự thụ, thu hạt để làm thí nghiệm thử nghiệm trên đồng ruộng. Bằng phương
pháp chọn giống nhờ chỉ thị phân tò và lai trở lại (MABC), các nhà chọn giống
tại IRRI đã thành công mang lại kết quả trong việc tạo ra các giống lúa vừa có
năng suất cao, vừa có khả năng chống chịu với các điều kiện sinh học và phi
sinh học bất lợi. Những giống lúa cải tiến này được tạo ra bằng sự kết họp cả hai
phương pháp chọn giống truyền thống và hiện đại. Bước đột phá trong việc chọn
giống lúa siêu cao sản trở nên có thể thực hiện được sau khi locut điều khiển
tính trạng tăng năng suất (QTL) được xác định. Bằng việc sử dụng phương pháp
chọn giống nhờ chỉ thị phân tử và lai trở lại đã đẩy nhanh quá trình quy tụ các
gen đó vào những giống mới năng suất cao (Marker assisted backcrossing -
MABC; Thomson và ctv., 2009; Septizningsih và ctv., 2009).
Yì vậy, việc ứng dụng công nghệ sinh học trong việc lai chuyển các gen
tăng năng suất vào giống lúa trồng đại trà là một vấn đề cấp thiết. Nhằm góp
phần vào công tác chọn tạo giống lúa năng suất cao; tôi xin thực hiện đề tài:
“Xác định chỉ thị phân tử đa hình giữa giống cho (KC25) và giống nhận
(NPT1) QTL/gen quy định tính trạng tăng số hạt trên bông”.
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 7
2. Mục đích nghiên cứu.
Xác định chỉ thị phân tò đa hình giữa giống cho (KC25) và giống nhận
(NPT1) QTL/gen quy định tính trạng tăng số hạt trên bông góp phần trong chọn
tạo và cải tiến giống lúa tăng năng suất.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1. Ỷ nghĩa khoa học
Xác định chỉ thị phân tử đa hình tại vị trí QTL/gen quy định tính trạng
tăng số hạt trên bông giữa dòng/giống cho gen và dòng/giống nhận gen.
3.2. Ỷ nghĩa thực tiễn
Sau khi nghiên cứu xác định được các chỉ thị cho đa
hình tại vị trí QTL/gen quy định tính trạng tăng số
hạt trên bông giữa dòng cho gen KC25 và giống nhận gen
(NPT1) sẽ được sử dụng để đánh giá xác định kiểu gen ở
thế hệ con lai, tìm ra cá thể mang QTL/gen quy định
tính trạng tăng số hạt trên bông triển vọng.
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc và vai trò của cây lúa
- Nguồn gốc của cây lúa: Tổ tiên của lúa Châu Á (Oryza sativa L.) là một
loại lúa hoang dại phổ biến (O. rufipogon) có nguồn gốc tại khu vực
xung quanh vùng Đông Nam Á. Hiện nay đây là giống lúa chính được
gieo trồng làm cây lương thực trên khắp thế giới. Hơn 10.000 năm trước,
cư dân nơi đây đã trồng loài lúa nước và nó được xem như là nơi đã xuất
hiện nền văn minh lúa nước, nơi đây còn có thể xem là một trong những
trung tâm nông nghiệp đầu tiên trên thế giới.
- Vai trò của cây lúa: Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính
của thế giới, cùng với ngô (Zea Mays L.), lúa mì (Triticum sp.), sắn
(Manihot escuỉenta Crantz) và khoai tây (Solalum tuberosum L.). Theo
quan niệm xưa, lúa cũng là một trong sáu loại lương thực chủ yếu trong
Lục cốc.
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 8
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, thế giới có khoảng 1.561 triệu
ha đất dùng cho việc trồng lúa, sản lượng là 6.979 triệu tấn, 90% diện tích này
thuộc các nước Châu Á với 651 triệu tấn thóc chiếm 92% tổng sản lượng lúa
gạo trên thế giới (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2010).
Ở Việt Nam, lúa là nguồn lương thực chủ yếu của hơn 89 triệu dân với diện
tích khoảng 7,4 triệu hecta, năm 2010 xuất khẩu khoảng 7 triệu tấn đứng thứ 2
thế giới về xuất khẩu gạo sau Thái Lan. Nước ta có 2 vùng trồng lúa chính là
ĐBSCL diện tích 3,79 triệu ha chiếm 50% sản lượng và ĐBSH diện tích 1,18
triệu ha 17% sản lượng (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2009).
1.2. Tình hình sản xuất, tiều thụ lúa gạo trên thế giói
Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới từ năm 2002 đến năm 2011 tăng
về cả diện tích và sản lượng (Hình 1.1). Tuy có nhiều bất ổn do thời tiết không
thuận lợi nhưng châu Á vẫn là khu vực sản xuất được tới 90,3% tương đương
với 435/481 triệu tấn gạo trong tổng số sản lượng lúa gạo của thế giới năm
2011. Trong đó, các nước: Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và Việt Nam là những
nước dẫn đầu về sản lượng lúa gạo ở khu vực.
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 9
Nguồn:
Vietrade.gov.vn Hình 1.1: Sơ đồ diện tích và sản lượng lúa
gạo thế giới giai đoạn 2002-2011
Theo báo cáo của Trần Huỳnh Thúy Phượng (2013), nhập khẩu gạo của
các quốc gia châu Phi khoảng 10,5 triệu tấn, giảm 2% so với năm 2011. Nguyên
nhân giảm nhập khẩu gạo đó là hầu hết chính phủ các quốc gia này quan tâm
sản xuất trong nước làm sản lượng lúa nội địa tăng lên. Quốc gia nhập khẩu
nhiều gạo nhất châu Phi là Nigeria đặt mục tiêu năm 2015 có thể tự cung về gạo
và nâng mức thuế nhập khẩu gạo vào quốc gia này. Điều này sẽ gây khó khăn
cho xuất khẩu gạo Việt Nam và chịu sự cạnh tranh quyết liệt từ các nước có
nguồn cung cấp gạo dồi dào như Thái Lan, Ấn Độ
Tại các nước Mỹ La tinh nhập khẩu khoảng 3,7 triệu tấn năm 2012 tăng
6% so với năm 2011 do sản lượng gạo một số nước có xu hướng giảm như:
Braxin, Haiti, Panama, Mexico Đối với việc xuất khẩu gạo vào châu Âu thì
khỏ khăn hơn vì các quốc gia này tăng cường các biện pháp nghiêm ngặt hơn
(thời gian đến và địa điểm nhập hàng, tiến hành kiểm tra các lô hàng xem có bất
cứ loại sinh vật biến đổi gen trái phép nào không ). Đặc biệt là gạo và các sản
phẩm từ gạo có nguồn gốc Trung Quốc (Trần Huỳnh Thúy Phượng, 2013).
1.3. Tình hình sản xuất, tiêu thụ lúa gạo của Việt Nam
Lúa gạo là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong ngành nông nghiệp Việt
Nam và là một trong những nước có diện tích gieo trồng và sản lượng lúa gạo
cao nhất thế giới. Giai đoạn 2005 - 2008 sản lượng gạo xuất khẩu tương đối ổn
định trên mức 4,5 triệu tấn và có mức đột phá từ năm 2009 (Hình 1.2). Cụ thể,
mùa vụ 2010-2011, Việt Nam xuất khẩu 7,1 triệu tấn gạo trong tổng sản lượng
26,37 triệu tấn. Mùa vụ năm 2011-2012, cả nước xuất khẩu 7,72 triệu tấn trong
tổng sản lượng 27,15 triệu tấn, tiếp tục đứng vị trí thứ 2 về xuất khẩu gạo sau Ấn
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 10
Độ (8,0 triệu tấn năm 2012). Năm 2013, sản lượng lúa cả nước ước tính đạt 44,1
triệu tấn, tăng 338,3 nghìn tấn so với năm 2012. Trong đó, diện tích gieo trồng
ước tính đạt 7,9 triệu ha, năng suất đạt 55,8 tạ/ha. Thị trường xuất khẩu gạo
chính của nước ta là các quốc gia châu Á (77,7%) với ba thị trường truyền
thống, đó là Indonesia, Philippin và Malaysia (Nguyễn Đình Luận, 2013).
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 11
7000 6000 5000
4000 3000 2000
1000 0
Nguồn: Thông tin thương mại, tỉnh toán của USDA
(2011) Hình 1.2: Xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2005 đến năm
2011
(đon vị: Nghìn tấn)
Như vậy, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam không ngừng tăng lên, thị
trường xuất khẩu gạo không ngừng được mở rộng, góp phần đưa nền kinh tế
Việt Nam vượt qua khó khăn, tạo sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội. Xuất
khẩu gạo có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp nông
thôn và là công cụ để đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế quốc tế (Trần
Huỳnh Thúy Phượng, 2013).
1.4. Chỉ thị phân tử
Ở cây trồng, số lượng các chỉ thị ADN là rất lớn, trung bình từ 108 đến
1.010 nucleotit trong ADN tổng số. Nếu có một sự sai khác rất nhỏ giữa hai cá
thể có thể dẫn đến một số lượng khổng lồ các chỉ thị ADN giữa hai cá thể đó. về
nguyên tắc, một chỉ thị ADN lý tưởng là chỉ thị thỏa mãn các yêu cầu sau:
- Có tính đa hình cao
- Di truyền đồng trội
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 12
Mùa vụ Mùa vụ Mùa vụ Mùa vụ Mùa vụ Mùa vụ Mùa vụ 2005 2006
2007 2008 2009 2010 2011
- Xuất hiện nhiều trong genom (hệ gen)
- Tập tính chọn lọc trung tính (trình tự ADN của cơ thể nào cũng là trung
tính với các điều kiện môi trường)
- Dễ tiếp cận, phân tích nhanh và dễ dàng
Tuy nhiên, gần như không thể tìm được một chỉ thị phân tử hoàn hảo nào
có thể thỏa mãn tất cả những điều kiện trên. Tùy thuộc vào những nghiên cứu
mà người ta sử dụng một hệ thống chỉ thị thỏa mãn được một số điều kiện trên
(Nguyễn Duy Bảy và cs, 2001).
Chỉ thị phân tò thường được phân thành chỉ thị dựa trên cơ sở phép lai
ADN và các chỉ thị dựa trên cơ sở phản ứng PCR.
1.4.1. Chỉ thị dựa trên cơ sở lai ADN
1.4.1.1. Chỉ thị RFLP (Restriction Fragment Length Polymorphism)
Kỹ thuật RFLP, enzym giới hạn được sử dụng để cắt ADN genom thành
nhiều mảnh ADN có độ dài khác nhau. Qua quá trình tiến hóa, trong phạm vi
trình tự nhận biết của một loại enzym giới hạn có thể xảy ra sự tái sắp xếp ADN,
các đột biến điểm, sự thêm hoặc mất đoạn ADN. Điều này tạo nên sự đa hình
giữa các cá thể và có thể phát hiện được đa hình này khi sử dụng kỹ thuật RFLP.
Sau khi xử lý bằng enzym giới hạn các đoạn ADN được phân tích bằng điện di
trên gel agarose và đưa lên màng lai. Những băng đặc hiệu được nhận biết bằng
phương pháp lai ADN với các ADN mẫu dò đã được đánh dấu. Các ADN mẫu
dò có độ dài khoảng 0,5-3,0 kb được tổng họp từ cADN hoặc ngân hàng ADN
genom. Các chỉ thị RFLP được sử dụng đầu tiên trong việc lập bản đồ di truyền
và đến nay vẫn được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu về genom nhờ những ưu
điểm của nó. Là một chỉ thị đồng trội, RFLP rất đáng tin cậy trong phân tích mối
liên kết và chọn giống.
* ưu điểm:
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 13
- Phương pháp này không những phát hiện được các cá thể dị họp tử và
đồng hcrp tò mà còn phát hiện được cá thể đồng họp tò trội và đồng hcrp
tử
* Hạn chế:
- Kỹ thuật RFLP đòi hỏi khối lượng ADN lớn của mỗi cá thể thí nghiệm
(Paterson, 1996).
- Phương pháp tốn nhiều thời gian, công sức và tỷ lệ số băng cho đa hình
thấp (bất tiện khi lai giữa các loài có quan hệ gần gũi) (Lê Duy Thành,
2000).
1.4.1.2. Chỉ thị SNP (Single nucleotide polymorphism)
SNP là những biến dạng của chuỗi trình tự ADN được tìm thấy với tần suất
cao nhất trong genom người. Theo phân tích chi tiết chuỗi trình tự của những
phần nào đó trong genom, ADN từ hai cá thể khác nhau phần lớn đều giống
nhau với số cặp bazơ khác biệt nhau nằm trong khoảng cho phép từ 500-1.000
bp. Một cặp bazơ ở một vị trí nào đó sẽ biểu thị sự khác nhau của cá thể có tính
chất phổ biến và một cặp bazơ khác là biến dị, ít phổ biến hơn ở cùng một vị trí.
Nếu cặp bazơ xuất hiện nhỏ hơn 1% trong cùng quần thể, người ta định nghĩa vị
trí cặp bazơ đó là một SNP. Hiện nay, người ta đã công bố 3 triệu SNP trong
genom người, nhiều hơn bất cứ chỉ thị phân tử nào đã được công bố trước đó.
Kỹ thuật SNP được áp dụng vào đầu những năm
2.1, từ genom người cho đến genom các sinh vật khác.
Các alen của một SNP có thể dễ dàng được xem xét bởi phân tích lai với
phân tử oligonucleotit được tổng họp sao cho nó sẽ bổ sung vào alen phổ biến
tại locut SNP. Phân tử oligo này được trộn với ADN mục tiêu và mức độ lai
ADN được hoàn chỉnh ở mức độ cực kỳ chính xác.
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 14
* ưu điểm:
- SNP có tính chất “diallelic” trong quần thể và tần suất alen của nó có thể
được ước đoán dễ dàng trong bất cứ quần thể nào thông qua một loại xét
nghiệm kỹ thuật.
- SNP là những chỉ thị phân tử có tính ổn định rất cao về mặt di truyền.
- Nhiều kỹ thuật đã được nghiên cứu để tạo ra SNP theo kiểu tự động hóa
với sự giúp đỡ của máy tính (Bùi Chí Bửu và Nguyễn Thị Lang, 2004).
1.4.2. Chỉ thị dựa trên cơ sở nhân bản ADN bằng các kỹ thuật PCR
1.4.2.1. Chỉ thị RAPD (Random Amplifiedpolymophic DNA)
Chỉ thị RAPD là sự khuếch đại ngẫu nhiên các đoạn ADN genom với
những nhóm mồi đơn (khoảng 6-10 nu) (William và cs, 1990). Trong phản ứng
này, một mồi đơn gắn vào ADN genom ở hai vị trí khác nhau trên sợi bổ trợ của
ADN khuôn. Sự đa hình phát hiện được khi sử dụng kỹ thuật RAPD có thể là do
sự thay đổi bazơ nucleotit ở vị trí gắn mồi hoặc sự thêm hay mất nucleotit nằm
trong vùng khuếch đại. Do đó, đa hình RAPD thường là trội, biểu hiện sự có mặt
hay vắng mặt của một sản phẩm khuếch đại từ một locut đơn.
Ưu điểm của chỉ thị này là không đòi hỏi thông tin về trình tự ADN, kỹ
thuật đơn giản, chi phí thấp và nhiều chỉ thị có thể được phân tích trong một thời
gian ngắn. Do vậy, kỹ thuật này được sử dụng rộng rãi trong việc lập bản đồ di
truyền, phân tích và xác định mối quan hệ thân thuộc giữa các thứ cây trồng hay
giữa các cá thể để phục vụ trong công tác lai tạo hoặc phân loại. Chúng được sử
dụng như những chỉ thị phân tử để xác định nhũng gen kiểm soát hoặc có liên
quan đến một tính trạng nào đó ở cây trồng.
Nhược điểm của phương pháp này là RAPD thường là các chỉ thị trội cho
nên khi các sản phẩm được khuếch đại có kiểu dị họp tử thì không thể phân biệt
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 15
được. Ngoài ra, độ nhạy và độ tin cậy của RAPD còn phụ thuộc vào điều kiện
phản ứng (Nguyễn Duy Bảy và cs, 2001).
1.4.2.2. Chỉ thị AFLP (Aplified Fragment length Polymorphism)
Phương pháp AFLP là sự kết họp việc sử dụng enzym giới hạn với khuếch
đại PCR và phát hiện đa hình, được phát minh bởi Zabeau và Vos năm 1993
(Nguyễn Duy Bảy và cs, 2001). Nguyên tắc của kỹ thuật như sau: ADN genom
được cắt đồng thời với 2 loại enzym khác nhau thành các đoạn có kích thước
không giống nhau, trong số đó sẽ cố một số đoạn mang một số phân đoạn mang
các đầu mút giống nhau. Nếu ta sử dụng một số đoạn nối (adaptor) như có gắn
thêm một hoặc một số oligonucleotit được chọn lọc trước để định hướng cho
việc gắn của các mồi PCR thì tất cả những đoạn ADN có đầu mút giống nhau sẽ
được nhân bản. Khi thay đổi số lượng và trình tự các oligonucleotit được chọn
lọc ở các đầu nối ta có thể nhận lại những đoạn ADN được nhân bản khác nhau.
Kỹ thuật này được đánh giá là nhanh chóng và có hiệu quả cao trong việc xác
định đa hình ở cây trồng, tách dòng và lập bản đồ phân tử. Tuy nhiên, đa hình
AFLP là do sự có hay vắng mặt của vị trí gắn mồi và là chỉ thị có bản chất trội
nên nó không thuận lợi khi dùng để lập bản đồ các quần thể phân ly (Nguyễn
Duy Bảy và cs, 2001; Lê Duy Thành, 2000).
1.4.2.3. Chỉ thị SSR (Simple Sequence Repeats)
SSR là những đoạn lặp lại, đơn vị lặp lại gồm 2 đến 6 nucleotit, kích thước
mỗi locut là 20-100 bp. Ở thực vật, trình tự AT/TA được nhắc lại nhiều nhất, sau
đó là GA/CT. Trong khi đó, trình tự CA/TG lại phổ biến ở động vật. Chúng
được sử dụng như những chỉ thị ADN trong lập bản đồ di truyền. Đa hình vi vệ
tinh được phát hiện thông qua sự nhân bội ADN hệ gen nhờ sử dụng 2 đoạn mồi
bổ trợ với trinh tự gần kề 2 đầu của vùng lặp lại. Phương pháp vi vệ tinh hay còn
gọi là kỹ thuật SSR là phương pháp tốt nhất để nghiên cứu ADN fingerprinting
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 16
bởi vì sự đa dạng ở mức độ cao từ rất nhiều vùng tương ứng, bao phủ rộng khắp
hệ gen của chúng và là chỉ thị đồng trội. Khi nghiên cứu các chỉ thị vệ tinh,
người ta có thể xác định được vị trí của chúng trên nhiễm sắc thể nào của loài
nghiên cứu. Do chỉ thị vệ tinh có thể dễ dàng phân tích bằng phương pháp PCR
nên kỹ thuật này chỉ cần một lượng nhỏ mẫu và không tốn kém. Đến nay, hơn
2.500 cặp mồi SSR của lúa đã được phổ biến.
Nhược điểm cơ bản của chỉ thị này là quá trình thiết kế mồi rất tốn kém mà
mỗi loại mồi chỉ đặc trưng cho một loài.
1.4.2.4. Chỉ thị STS (Sequence Tagged Site)
STS là một đoạn ADN ngắn gồm khoảng 60-1.000 bp và có thể phát hiện
được bằng kỹ thuật PCR. Hai đoạn mồi được thiết kế dựa trên các trình tự
nucleotit đã biết giúp ta xác định được vùng ADN cần tìm kiếm.
Các đoạn mồi STS thường chứa khoảng 20 nucleotit nên có tính đặc hiệu
cao. Mỗi một STS được xác định tại một điểm trên bản đồ như là mốc trong
genom. Ở cây lúa, các STS được coi như là mốc chuẩn. Kỹ thuật này cũng rất
thuận lợi cho việc nghiên cứu mối quan hệ họ hàng giữa các loài (Lê Duy
Thành, 2000).
1.4.2.5. Chỉ thị RGA (Resistance Gene Analog)
Khi so sánh trình tự ADN của những gen kháng đã phân lập từ nhiều loài
thực vật khác nhau, các nhà khoa học đã thấy rằng những gen này có chung
những vùng lặp lại, ví dụ như vùng nhắc lại giàu leucin (Leucine Rich Repeat:
LRR), vùng vị trí liên kết nucleotit (Nucleotide binding site) và vùng protein
kinaze (PK) (Grant và cs, 1995). Những vùng này đã được sử dụng trong việc
xây dựng một kỹ thuật dựa trên PCR, đó là kỹ thuật RGA. Bản chất của kỹ thuật
này là những cặp mồi ADN được xây dựng dựa vào những vùng bảo tồn nằm
trong gen kháng. Bởi vậy, sản phẩm nhận dạng ADN có thể là một vùng hoặc
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 17
toàn bộ gen kháng. Kỹ thuật RGA đã được dùng để tách, lập bản đồ gen kháng
và mô tả đa dạng di truyền (Chen và cs, 1998).
1.5. Giới thiệu bản đồ QTL
Tính trạng số lượng (QTL): Là tính trạng thể hiện sự phân bố chuẩn
(normal distribution) liên tục trong quần thể lớn và chưa qua một chọn lọc nào.
Tính trạng số lượng nói chung được thể hiện rõ như là một tính trạng với sự biến
đổi liên tục. Tính trạng được quan tâm điều khiển bởi nhiều gen và mỗi gen đều
có tác động nhỏ đối với tính trạng mục tiêu. Sự xác định các vị trí của nhiễm sắc
thể đơn nơi mà xảy ra biến đổi gen được thể hiện rõ gọi là QTL.
Bản đồ QTL (quantitative trait loci) được áp dụng trong trường họp những
tính trạng mục tiêu do đa gen điều khiển. Di truyền số lượng truyền thống không
thể phát hiện QTL trên những locut riêng biệt gắn với tính trạng số lượng đang
nghiên cứu, vị trí của nó trên nhiễm sắc thể và liên kết của nó với những gen
khác. Bản đồ di truyền phân tử với mật độ cao số lượng marker phủ trên toàn bộ
nhiễm thể trong genom cây trồng sẽ cung cấp cho chúng ta công cụ có khả năng
nghiên cứu tính trạng di truyền số lượng phức tạp, định vị gen trên những nhiễm
sắc thể và xác định các gen mục tiêu liên kết với gen khác.
Mục tiêu cơ bản của bản đồ QTL là tìm hiểu cơ sở di truyền của những tính
trạng số lượng bằng cách xác định số lượng, các vị trí, những ảnh hưởng của gen
và hoạt động của những locut bao gồm tương tác gen (epistasis) và tương tác
QTL X E (môi trường). Một mục đích khác của bản đồ QTL là xác định những
marker mang tính chẩn đoán đối với những kiểu hình đặc thù nào đó, sao cho
việc áp dụng MAS trở nên có hiệu quả, phục vụ yêu cầu chọn dòng (giống)
chống chịu khô hạn, chống chịu mặn
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 18
1.6. Chỉ thị phân tử trong chọn tạo giống
Từ lâu, các nhà chọn giống đã quan tâm đến các chỉ thị hình thái liên kết
với một số tính trạng nông học quan trọng và sử dụng chúng như một phương
tiện hữu ích trong quy trình chọn tạo giống mới. Ở đây, thay vì phải đánh giá
kiểu hình của cả một quần thể nhằm phát hiện những cá thể chứa gen mong
muốn, người ta chỉ cần đi tìm những cá thể riêng biệt mang các chỉ thị hình thái
liên kết với các gen đó. Tuy nhiên các chỉ thị hình thái vốn có số lượng không
nhiều, còn những chỉ thị “may mắn” (liên kết với gen quan tâm) lại càng hiếm
gặp, vì thế giá trị thực tiễn của chỉ thị hình thái trong chọn giống gặp nhiều hạn
chế. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ chỉ thị phân tử, các nhà chọn
giống bắt đầu quan tâm mạnh mẽ hơn tới vấn đề “chọn giống nhờ chỉ thị phân
tử” (Marker assisted selection = MAS) với ý đồ sử dụng các chỉ thị phân tử liên
kết với các gen mong muốn trong chọn tạo giống mới. So với chỉ thị hình thái,
chỉ thị phân tà có những ưu thế sau (Tanksley, 1993):
+ Kiểu gen của các locut chỉ thị phân tử có thể được xác định tại bất kỳ
giai đoạn nào và ở bất cứ mức độ nào: tế bào, mô hay toàn bộ cơ thể, trong khi
kiểu hình của phần lớn các chỉ thị hình thái chỉ có thể phân biệt được trong
những giai đoạn nhất định và thường ở mức độ toàn bộ cơ thể.
+ Số lượng các chỉ thị phân tử là cực kỳ lớn, trong khi số lượng các chỉ thị
hình thái rất hạn chế.
+ Các alen khác nhau của chỉ thị phân tử thường không liên kết với các
hiệu ứng có hại, trong khi việc đánh giá các chỉ thị hình thái thường hay đi kèm
với những hiệu ứng kiểu hình không mong muốn.
+ Các alen của các chỉ thị phân tử phần lớn là đồng trội, vì thế cho phép
phân biệt mọi kiểu gen ở bất kỳ thế hệ phân ly nào, còn các alen của các chỉ thị
hình thái thường tương tác theo kiểu trội - lặn, do đó bị hạn chế sử dụng trong
nhiều tổ họp lai.
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 19
+ Đối với chỉ thị hình thái, các hiệu ứng lấn át thường làm sai lệch việc
đánh giá các cá thể phân ly ở trong cùng một quần thể phân ly, còn đối với chỉ
thị phân tử hiệu ứng lấn át hoặc cộng tính rất hiếm gặp.
Chỉ thị phân tử làm tăng thêm hiệu quả sàng lọc trong các chương trình
chọn giống với các ưu điểm sau:
+ Khả năng chọn lọc ngay từ giai đoạn cây con đang nảy mầm trong khi
nhiều dấu hiệu chỉ có thể sàng lọc khi chúng được biểu hiện ở những giai đoạn
muộn hơn trong quá trình sống nếu chỉ sử dụng phương pháp chọn giống cổ điển
(ví dụ: chất lượng quả và hạt, tính bất dục đực, khả năng phản ứng chu kỳ
quang).
+ Khả năng sàng lọc những dấu hiệu mà việc đánh giá các đặc tính này khó
khăn, đắt tiền, tốn thời gian (ví dụ như hình thái rễ, tính kháng nhiễm đối với các
dịch hại hoặc đối với những nòi, những bệnh đặc hiệu, hay tính kháng những
điều kiện gây sốc sinh học như hạn, mặn, thiếu muối, các chất độc).
+ Khả năng phân biệt trạng thái đồng hợp tử hay dị họp tử của nhiều locut
trong cùng một thế hệ mà không cần kiểm tra thế hệ sau. Khả năng chọn lọc
đồng thời vài đặc tính trong cùng một thời gian, do vậy mà có thể đưa vào cùng
lúc vài gen có giá trị về mặt nông học, ví dụ đưa vào cùng một lúc nhiều gen
kháng dịch hại khác nhau.
Trong trường hợp này, các phương pháp sàng lọc kiểu hình cá thể thông
qua sự lây nhiễm (đồng thời hoặc thậm chí lần lượt từng thể gây bệnh hay từng
côn trùng gây hại) rất khó đạt được kết quả. Nhưng nếu áp dụng công nghệ chỉ
thị phân tử có thể kiểm tra sự có mặt hay vắng mặt của từng alen kháng (hay
nhiễm) khác nhau ở từng cá thể riêng biệt.
1.7. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.7.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 20
Hiện nay Công nghệ sinh học trên thế giới đang rất phát triển, cùng với đó
việc nghiên cứu chọn tạo những giống lúa có năng suất cao đã có những bước
tiến rõ rệt.
Việc ứng dụng chỉ thị phân tử vào nghiên cứu các tính trạng cấu thành năng
suất đang thể hiện những ưu thế hơn hẳn so với các phương pháp nghiên cứu
truyền thống.
Một trong những ứng dụng quan trọng của chỉ thị phân tử là xác định chỉ
thị phân tử liên kết QTL/gen và lập bản đồ QTL/gen. Với sự ra đời của hàng loạt
các kỹ thuật chỉ thị phân tử đã cho phép xác định những QTL liên kết đến các
tính trạng nông sinh học, yếu tố cấu thành năng suất. Trong nghiên cứu xác định
chỉ thị phân tử và lập bản đồ QTL/gen điều khiển một tính trạng năng suất hay
yếu tố cấu thành năng suất. Đây là một việc làm khó vì năng suất hay yếu tố cấu
thành năng suất là tính trạng di truyền số lượng, nó là tổ họp tính trạng như: số
hạt chắc trên bông, số bống trên khóm, khối lượng nghìn hạt. Những nằm gần
đây, nhiều QTL/gen quy định tính trạng cấu thành năng suất đã được xác định
trên rất nhiều các quần thể từ các tổ hợp lai giữa giống hay các loài phụ (Nguyễn
Quang Vinh, 1976). QTL/gen năng suất và yếu tố cấu thành năng suất được xác
định trên tất cả các nhiễm sắc thể của
Nhiễm sắc thể số 1: Các nhà khoa học trên thế giới đã xác định được nhiều
tính trạng liên quan đến năng suất trên nhiễm sắc thể số 1 như: Ba QTLs quy
định tính trạng khối lượng nghìn hạt tại vị trí gần chỉ thị phân tử RM283-RM259
(Hua và cs, 2002; Thomson và cs, 2003), RG690-RM212 (Li và cs, 1997;
Hittalmani và cs, 2003), và RG810-RG331 (Hittalmani và cs, 2002; Hittalmani
và cs, 2003). Một QTL liên kết tính trạng số hoa trên bông tại vị trí chỉ thị phân
tò RM1-RM490 (Xing và cs, 2001; Zhuang và cs, 2001; Brondani và cs, 2002;
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 21
Thomson và cs, 2003) và một QTL liên kết tính trạng số hạt chắc trên bông đã
được xác định từ các tác giả (Li và cs, 2000; Xing và cs, 2001; Zhuang và cs,
2001; Brondani và cs, 2002; Hua và cs, 2002; Thomson và cs, 2003) tại vị trí
giống QTL liên kết tính trạng khối lượng nghìn hạt RM283-RM259. Một QTL
liên kết tính trạng tỷ lệ đậu hạt tại vị trí RM265-RM315 (Xing và cs, 2001;
Thomson và cs, 2003). Vị trí chi thị phân tử RZ730-RZ810, một QTL cho tính
trạng số bông trên khóm cũng đã được xác định (Xiao và cs, 1996; Zhuang và
cs, 1997; Xiao và cs, 1998; Liao và cs, 2001; Hittalmani và cs, 2002; Hittalmani
và cs, 2003). Locut quy định trực tiếp với tính trạng năng suất được xác định tại
vị trí gần RM230-RM532 (Zhuang và cs, 1997; Brondani và cs, 2002).
Nhiễm sắc thể số 2: QTL quy định khối lượng nghìn hạt được xác định từ
năm tác giả khác nhau với cùng vị trí chỉ thị phân tử RM240-RM266 (Li và cs,
1997; Thomson và cs, 2003; Li và cs, 1997). Ba QTL liên kết tính trạng tổng số
hạt trên khóm, tại các vị trí gần tâm động (Cui và cs, 2002; Thomson và cs,
2003), vị trí chỉ thị RM263 (Brondani và cs, 2002) và vị trí chỉ thị RZ123-
RZ446 (Xiao và cs, 1996; Xing và cs, 2001). Một QTL quy định tính trạng tỷ lệ
đậu hạt được xác định từ bốn tác giả tại vị trí chỉ thị phân tử RZ123-RZ446 trên
vai dài của nhiễm sắc thể số 2 (Xiao và cs, 1996; Xiao và cs, 1998; Xing và cs,
2001). Hai QTLs quy định tính trạng số bông trên khóm được xác định tại vị trí
gần tâm động (Lin và cs, 1996; Xiao và cs, 1996; Zhuang và cs, 1997;
Kobayashi và cs, 2003). Hai QTLs liên kết tính trạng năng suất được xác định
gần tâm động (Zhuang và cs, 1997; Thomson và cs, 2003) và nằm trên vai dài
của nhiễm sắc thể 2 (Xiao và cs, 1998; Xing và cs, 2002).
Nhiễm sắc thể số 3: Một số tác giả đã xác định QTL liên kết tính trạng khối
lượng nghìn hạt trên nhiễm sắc thể số 3. Một trong số đó là QTL được xác định
tại vị trí tâm động (Li và cs, 1997; Brondani và cs, 2002; Hua và cs, 2002;
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 22
Thomson và cs, 2003), tác giả Li và cs, (2004) đã lập bản đồ QTL liên kết tính
trạng khối lượng nghìn hạt với khoảng cách 98 kb. QTL thứ hai được xác định
trên nhiễm sắc thể số 3 tại vị trí chỉ thị phân tò RM16-RM168 (Hua và cs, 2002;
Hittalmani và cs, 2003). QTL thứ ba được xác định trên vai ngắn (Xiao và cs,
1996; Li và cs, 1997; Lu và cs, 1997; Moneada và cs, 2001; Zhuang và cs, 2001;
Thomson và cs, 2003). Hai QTLs liên kết tổng số hạt trên bông trên vai dài của
nhiễm sắc thể 3 (Zhuang và cs, 1997; Xu và cs, 2001 Xiao và cs, 1996; Cui và
cs, 2002; Thomson và cs, 2003). Một QTL liên kết số hạt trên bông (Li và cs,
1997; Thomson và cs, 2003). Gần chỉ thị phân tử RM282, một QTL cho số hạt
chắc trên bông cũng được xác định (Xing và cs, 2001). Một QTL tỷ lệ đậu hạt
được xác định (Xiao và cs, 1996; Xiao và cs, 1998; Thomson và cs, 2003), và
Xing và cs, (2001) xác định QTL cho tỷ lệ đậu hạt khác tại vị trí G144-C1087.
Bốn QTLs liên kết số bông trên khóm được xác định tại vai dài (Xiao và cs,
1996; Kobayashi và cs, 2003), CD0337-0SR31 (Xu và cs, 2001), RZ598-
RM16(Thomson và cs, 2003) và CD087-RG910 (Hittalmani và cs, 2003). QTL
quy định năng suất cũng được xác định trên vai dài (Xiao và cs, 1996; Thomson
và cs, 2003 và RZ329- RZ892 (Venuprasad và cs, 2002).
Nhiễm sắc thể số 4: Ba QTLs/gen liên kết với tính trạng khối lượng nghìn
hạt được các nhà khoa học xác định hai QTLs tại vị trí gần chỉ thị phân tử
CD0244-RG864 (Xiao và cs, 1996) và một tại vị trí RG143 (Lin và cs, 1996;
Brondani và cs, 2002). Hai QTLs quy định tổng số hạt trên cây được xác định tại
vi trí RM303-RM317 (Xiao và cs, 1996; Xu và cs, 2001; Hittalmani và cs, 2002)
và RG214-RG620 (Lu và cs, 1997; Zhuang và cs, 2001; Hittalmani và cs, 2003).
Hai QTLs quy định tính trạng số hạt trên bông được xác định tại vi trí RZ656-
C513 (Lu và cs, 1997; Xiao và cs, 1998), và một cái khác tại RG214-RG620 (Li
và cs, 1997; Lu và cs, 1997; Brondani và cs, 2002). Hai QTLs quy định tính
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 23
trạng tỷ lệ đậu hạt được xác định tại vị trí gần tâm động trên vai dài (Lu và cs,
1997; Xiao và cs, 1998), và một cái khác tại RG214-RG260 (Xiao và cs, 1996;
Thomson và cs, 2003). Ba QTLs quy định tính trạng số bông trên khóm được
xác định bởi các tác giả (Xiao và cs, 1996; Zhuang và cs, 1997; Liao và cs,
2001; Hittalmani và cs, 2003, Lin và cs, 1996; Xu và cs, 2001; Hittalmani và cs,
2002; Kobayashi và cs, 2003). Hai QTL quy định tính trạng năng suất tại vị trí
gần tâm động (Xiao và cs, 1996; Zhuang và cs, 1997; Zhuang và cs, 2001;
Hittalmani và cs, 2003), một tại vị trí RG214-RG620 (Brondani và cs, 2002).
Nhiễm sắc thể số 5: Ba QTLs quy định tính trạng năng suất được xác định
trên nhiễm sắc thể số 5 tại vị trí R1674-RG360 (Hua và cs, 2003), và gần tâm
động liên kết chỉ thị RZ296 (Xiao và cs, 1996; Zhuang và cs, 1997), và RM26-
C147 (Brondani và cs, 2002; Hua và cs, 2002). Hai QTL quy định tính trạng
khối lượng nghìn hạt liên kết chỉ thị phân tử RG360-R3166 trên vai ngắn (Hua
và cs, 2002), và tại RG13-RG470 (Li và cs, 1997; Hua và c,. 2002; Thomson và
cs, 2003). Hai QTL quy định tính trạng số hạt trên cây tại vị trí chỉ thị phân tử
RZ556-RG360 (Xiao và cs, 1996), và gần RG13 (Nagata và cs, 2002). Hai QTL
liên kết tính trạng số hạt chắc trên bông tại vị trí RG360- RG182 trên vai ngắn
(Zhuang và cs, 1997; Li và cs, 2000), và tại vị trí RM164-C624 trên vai dài (Li
và cs, 2000). Bốn QTL quy định tính trạng tỷ lệ đậu hạt được xác định liên kết
chỉ thị phân tử RZ390-RM153 (Thomson và cs, 2003), RZ296 (Xiao và cs,
1996) và G366-C624 (Lu và cs, 1997), tại vị trí chỉ thị phân tử RG435 trên vai
dài (Xiao và cs, 1998). Ba QTLs quy định số bông trên khóm liên kết chỉ thị
phân tử RG360-RG9 (Lin và cs, 1996), và
C734B (Kobayashi và cs, 2003), nằm trên vai dài tại vị trí CD01083 (Xiao và
cs, 1996).
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 24
Nhiễm sắc thể số 6: Ba QTL quy định tính trạng khối lượng nghìn hạt được
xác định một tại vị trí R2869-C226A (Xiao và cs, 1996), một tại C751A-RZ667
(Hua và cs. 2002; Zhuang và cs. 2002), và một tại R2549- C962 (Hua và cs,
2002). Ba QTLs quy định tính trạng số hạt trên bông được xác định tại vị trí trên
vai ngắn của nhiễm sắc thể số 6, liên kết với chỉ thị phân tà R2869 (Xiao và cs,
1996), và RG138-RM253 (Lin và cs, 1996; Zhuang và cs, 2001), và G122-
R2549 (Lu và cs, 1997; Nagata và cs, 2002). Tác giả Brondani và cs, (2002) đã
xác định QTLs quy định tính trạng tỷ lệ đậu hạt được xác định liên kết chỉ thị
phân tử OG32. Trong khi đó, Thomson và cs, (2003) xác định QTL quy định
tính trạng tỷ lệ đậu hạt tại vị trí RM276. Ba QTLs số bông trên khóm được xác
định tại vi trí Wx-RG213 (Lin và cs, 1996), RM3-CD078 (Moneada và cs,
20001), RG653 (Xiao và cs, 1996; Kobayashi và cs, 2003). Hai QTLs quy định
tính trạng năng suất được xác định bởi một số tác giả tại vi trí chỉ thị phân tò
RZ398-RM204 (Thomson và cs, 2003), và RG653-G342 (Xiao và cs, 1996; Hua
và cs, 2002).
Nhiễm sắc thể số 7: Ba QTLS quy định tính trạng khối lượng 1000 hạt liên
kết chỉ thị phân tử RG128-C1023 trên vai ngắn (Hua và cs, 2002), RM125 gần
tâm động, và RM11-RZ626 (Xiao và cs, 1996; Brondani và cs,
2002) . Bốn QTLs quy định tính trạng tổng số hạt trên cây được xác
định liên kết chỉ thị phân tử RG128-RG528 (Cui và cs, 2002), C1023-
R1440 gần tâm động (Xing và cs, 2001), RM336-R1245 (Xu và cs,
2001; Xing và cs, 2001; Hittalmani và cs, 2003), và RM234-R1789
(Xing và cs, 2001). Ba QTL quy định tính trạng số hạt chắc trên bông
được xác định liên kết chỉ thị RG128- C1023 trên vai ngắn (Xing và cs,
2001), C1023B-R1440 gần tâm động (Hua và cs, 2002), RZ471-RZ624
(Xiao và cs, 1996; Brondani và cs, 2002; Hua và cs, 2002). Ba QTLs quy
Khỏa luận tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Nguyễn Thu Hiền - K37A Sư phạm Sinh 25