Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Tìm hiểu khả năng tham gia thị trường chứng khoán của một số công ty cổ phần dược ở miền bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 69 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG BẠ I HỌC D líọ c HÀ NỘI
• • • •
4»4»4ĩ — — — — — —
'r ' 1 fã
iíu ì ỉứ t * *
BÙI HUY CƯỜNG 4 ^
TÌM HIỂU KHẢ NĂNG THAM GIA
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA MỘT s ố
CÔNG TY CỔ PHẦN Dược Ở MlỂN b ắ c
(KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆPPệtỉGrậỸ KHOÁ 2000- 2005)
Người hướng dẫn: T1ị.SJĐở £ í ÍAN t h ắ n g
Th.s TỪ HỔNG ANH
Nơi thực hiện: BỘ MÔN QUẢN LÝ VÀ KINH TẾ DƯỢC
Thời gian thực hiện: tháng 3-5/2005
HÀ NỘI, THÁNG 5/2005
LỜI CẢM ƠN
Nhàn dịp hoàn thành khoá luận tốt nghiệp cho phép tôi được bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành tới:
ThS. Đỗ Xuân Thắng- Giảng viên Bộ môn Quản lý kinh tế Dược, người
thầy đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành khoá luận tốt nghiệp này.
ThS. Từ Hồng Anh- Bộ môn Quản lý và kinh tế Dược.
Tôi cũng xỉn bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến:
- Các thầy, cô Bộ môn Quản lý kinh tế Dược và các thầy, cô trong các bộ
môn, phòng ban Trường đại học Dược Hà Nội đã dạy dỗ và tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập ở trường.
- Các phòng, ban trong công ty cổ phần Dược và trang thiết bị y tế
Traphaco; công ty cổ phần Dược phẩm Hà Tây.
- DS. Cao Hưng Thái, chuyên viên Vụ Tổ chức cán bộ-Bộ Y Tế
- DS. Từ Việt Lan, chuyên viên Cục Quản Lý Dược-Bộ Y Tế


Và các cán bộ khác trong Cục quản lý Dược- Bộ Y Tế.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè
những người đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong cuộc sống và học tập.
Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 2005
Sinh viên
Bùi Huy Cường
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN Đ Ể 1

PHẦN I: TỔNG QUAN 3
1.1 Vai trò của CTCP trong TTCK
3
1.1.1 Vai trò của CTCP trong TTCK 3
1.1.2 Công ty cổ phần 4
1.2 Cổ phần hoá DNNN tại Việt Nam 6
1.2.1 Sự cần thiết phải CPH các DNNN tại Việt Nam

6
1.2.2 Sơ lược về thực trạng tiến trình CPH DNDNN tại Việt
N am 7
1.3 Những vấn đề cơ bản của TTCK
8
1.3.1 Một số khái niệm 8
1.3.2 Vai trò và sự cần thiết của thị trường chứng khoán đối với
việc phát triển nền kinh tế 11
1.3.3 Điều kiện niêm yết cổ phiếu trên TTCK 17
1.4 Những luận văn trong lĩnh vực Dược đã đề cập đến vấn đề
n ày 17
PHẦN II: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU 21
2.1 Đối tượng nghiên cứu 21
2.2 Nội dung nghiên cứu 21
2.3 Phương pháp nghiên cứu 22
2.4 Xử lý số liệu 22
PHẦN III: KẾT QUẢ NGHIÊN cứ u VÀ BÀN LUẬN 23
3.1 Tiến trình CPH DNNN 23
3.1.1 Chỉ tiêu về số DNNN chuyển thành CTCP

23
3.1.2 Chỉ tiêu về số DNNN thực hiện CPH so với kế hoạch

26
3.1.3 Chỉ tiêu về kế hoạch cổ phần hoá DNNN đến năm 2005 28
3.2 Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Dược nhà nước

29
3.2.1 Chỉ tiêu về số DNDNN chuyển thành CTCP

29
3.2.2 Chỉ tiêu số DNDNN thực hiện CPH phân theo vùng

31
3.2.3 Chỉ tiêu về số DNDNNTW và DNDNNĐP thực hiện CPH. 32
3.2.4 Chỉ tiêu về tỷ lệ CP Nhà nước nắm giữ tại các DND sau
khi thực hiện kế hoạch CPH 34
3.3 Kết quả đánh giá khả năng tham gia TTCK của một số
CTCP Dược tại miền Bắc 36
3.3.1 Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của CTCP Dược Traphaco
và CTCPDP Hà Tây 36

3.3.2 Công ty cổ phần Dược và thiết bị vật tư y tế Traphaco

37
3.3.3 Công ty cổ phần Dược phẩm Hà Tây

43
3.4 Bàn luận 50
3.4.1 Về tiến trình CPH DNNN
50
3.4.2 Về tiến trình CPH DNDNN 51
3.4.3 Về khả năng tham gia TTCK của 2 công ty nghiên cứu

53
PHẦN V : KẾT LUẬN VÀ KIÊN NGHỊ
54
4.1 Kết luận 54
4.2 Kiến nghị 54
4.2.1 Đối với Nhà nước 55
4.2.2 Đối với Ngành Dược 55
4.2.3 Đối với các CTCP Dược 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
I
QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT
CĐSH Chuyển đổi sở hữu
CP
Cổ phần
CPH Cổ phần hoá
CTCP Công ty cổ phần
DN Doanh nghiệp

DND:
Doanh nghiệp Dược
DNDNN
Doanh nghiệp Dược Nhà nước
DNDNNĐP
: Doanh nghiệp Dược Nhà nước địa phương
DNDNNTW :
: Doanh nghiệp Dược Nhà nước trung ương
DNNN
: Doanh nghiệp Nhà nước
GTVT
: Giao thông vận tải
HĐQT
: Hội đồng quản trị
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
TTCK
: Thị trường chứng khoán
TW
: Trung ương
UBND
: uỷ ban nhân dân
XNK
: Xuất nhập khẩu
DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH
I. Danh mục bảng:
Số bảng Tên bảng
Trang
Bảng 3.1
Số DNNN được CPH qua các năm

23
Bảng 3.2
Số DNNN thực hiện CPH so vói kế hoạch đặt ra trong
giai đoạn 2000-2004
26
Bảng 3.3 Kế hoạch CPH DNNN đến năm 2005
28
Bảng 3.4
Số DNDNN đã thưc hiên CPH trong giai đoan
2000-2004
30
Bảng 3.5
Số DNDNN tiến hành CPH phân theo vùng (đến
31/12/2004)
31
Bảng 3.6
Tình hình thưc hiên CPH của DNDNNTW và
DNDNNĐP (2Ó00-2Ỏ04)
32
Bảng 3.7
Số DNDNN phân theo tỷ lệ CP của Nhà nước (đến
hết năm 2005)
35
Bảng 3.8
Doanh thu, lợi nhuận sau thuế, cổ tức của công ty
Traphaco qua 5 năm 2000 - 2004
39
Bảng 3.9
Doanh thu và so sánh định gốc doanh thu của công ty
Traphaco trong 5 năm 2000 - 2004.

39
Bảng 3.10
Lợi nhuận và so sánh định gốc lợi nhuận của công ty
Traphaco trong 5 năm 2000 - 2004
41
Bảng 3.11
Doanh thu, lợi nhuận sau thuế, cổ tức của CTCPDP
Hà Tây qua 5 năm 2000 - 2004
46
Bảng 3.12
Doanh thu và so sánh định gốc doanh thu của
CTCPDP Hà Tây trong 5 nam 2000 - 2004.
46
Bảng 3.13
Lợi nhuận và so sánh định gốc lợi nhuận của
CTCPDP Hà Tây trong 5 năm 2000 - 2004
48
II. Danh mục hình:
Số hình
Tên hình
Trang
Hình 3.1
Biểu đồ về số DNNN CPH qua các năm từ 2000-2004
24
Hình 3.2
Biểu đồ so sánh nhip đinh gốc và so sánh nhịp liên
hoàn tổng số DNNN đẩ CPH (từ 2000- 2004)
25
Hình 3.3
Biểu đồ biểu diễn tổng số DNNN thực hiện CPH so

với kế hoach
27
Hình 3.4
Biểu đồ biểu diễn tỷ lệ % thực hiện CPH các DNNN
so vói kế hoạch từ 2000- 2004
27
Hình 3.5
Biểu đồ biểu diễn số DNDNN CPH qua các năm
2000- 2004.
30
Hình 3.6
Biểu đồ biểu diễn số DNDNNTW tiến hànhCPH qua
các năm (từ năm 2000- 2004)
33
Hình 3.7
Biểu đồ biểu diễn số DNDNNĐP tiến hành CPH qua
các năm (từ năm 2000-2004)
34
Hình 3.8
Biểu đồ biểu diễn số DNDNN phân theo tỷ lệ CP của
Nhà nước (2005)
35
Hình 3.9
Sơ đồ bộ máy quản lý của CTCP Dược Traphaco và
Hà Tây.
36
Hình 3.10
Biểu đồ biểu diễn cơ cấu cổ đông của Traphaco
(tính đến tháng 12/2004)
38

Hình 3.11
Biểu đồ biểu diễn doanh thu của công ty Traphaco
qua 5 năm (2000 - 2004)
40
Hình 3.12
Biểu đồ biểu diễn lợi nhuận của công ty Traphaco
qua 5 năm (2000 - 2004)
41
Hình 3.13
Biểu đồ biểu diễn cơ cấu cổ đông của CTCPDP Hà
Tây (tính đến tháng 12/2004)
45
Hình 3.14
Biểu đồ biểu diễn doanh thu của CTCPDP Hà Tây
qua 5 năm (2000 - 2004)
47
Hình 3.15
Biểu đồ biểu diễn lợi nhuận của CTCPDP Hà Tây qua
5 năm (2000 - 2004)
48
KẾT CẤU LUẬN VÃN
ĐẶT VẤN ĐỂ
Trong giai đoạn hiện nay, thị trường chứng khoán là một trong những yếu
tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại. Thị trường chứng khoán đã và
đang trở thành một hệ thống tài chính chủ chốt trong nền kinh tế của hầu hết
các nước trên thế giới. Đảng và chính phủ ta đã thấy rõ vai trò quan trọng của
thị trường chứng khoán và vào ngày 28/11/1996 đã chính thức ra quyết định
thành lập uỷ ban chứng khoán nhà nước-cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp
đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam
đã chính thức ra đời vào ngày 28/7/2000.

Để đứng vững và kinh doanh có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, mỗi
doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo không ngừng nâng cao nghiệp vụ quản
lý và chủ động cạnh tranh trên thị trường. Đây là một trong những lý do mà
Nhà nước chủ trương tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một biện pháp hữu hiệu được tiến hành
phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Các công ty cổ phần ra đời đã tạo ra một
; sức Sống mới cho nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Mặc dù có nhiều nét đặc trưng riêng nhưng ngành Dược cũng là một
ngành kinh tế, do đó các doanh nghiệp Dược cũng phải vận động theo xu thế
chung của nền kinh tế. Tính từ khi các văn bản pháp luật về cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước được ban hành đến hết tháng 12/2004 đã có 83 doanh
nghiệp Dược Nhà nước chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ
phần.
Tuy vậy, ngành Dược vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi về khả năng
sản xuất thuốc. Mặc dù đã cổ phần hoá nhưng do chưa tham gia thị trường
chứng khoán nên đa số các công ty cổ phần Dược vẫn chưa khai thác được
những lợi ích mà thị trường chứng khoán đem lại như việc huy động nguồn
vốn cần thiết cho quá trình phát triển quy mô sản xuất thuốc, nên quy mô sản
xuất còn hạn chế.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các công ty cổ phần Dược có thể tham gia
vào thị trường chứng khoán, để có thể khai thác được tối đa những lợi điểm
mà thị trường chứng khoán mang lại từ đó sẽ tăng khả năng sản xuất, quảng
1
bá tên tuổi, tăng uy tín, tạo thương hiệu, tăng lợi nhuận Và tại sao một số
công ty cổ phần Dược có đủ điều kiện để tham gia thị trường chứng khoán lại
không tham gia, trong khi các công ty cổ phần Dược khác chưa đủ điều kiện
lại muốn tham gia.
Với mong muốn tìm hiểu tình hình hoạt động của một số công ty cổ phần
Dược trong nước, khả năng tham gia thị trường chứng khoán của một số công
ty cổ phần Dược, cũng như khả năng phát triển của ngành Dược Việt Nam, tôi

tiến hành thực hiện đề tài:
“Tìm hiểu khả năng tham gia thị trường chứng khoán của một số công
ty cổ phần Dược tại miền Bắc ”
Đề tài được thực hiện với ba mục tiêu:
1. Phân tích tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Dược nhà nước giai
đoạn 2000- 2004.
ỉ? Đánh giá khả năng tham gia thị trường chứng khoán của một số
công ty cổ phần Dược tại miền bắc.
3. Đê xuất một sô ý kiến nhằm thúc đẩy việc tham gia thị trường chứng
• khoán của các công ty cổ phần Dược trong cả nước.
2
PHẦN I: TỔNG QUAN
1.1 Vai trò của công ty cổ phần trong thị trường chứng khoán
1.1.1 Vai trò của công ty cổ phần trong thị trường chứng khoán. [6]
Điều kiện nội sinh đầu tiên để có bất kỳ một loại thị trường nào là phải có
hàng hoá. Một trong những chủ thể hàng hoá lớn nhất cho thị trường chứng
khoán là công ty cổ phần.
Công ty cổ phần phát hành hai loại chứng khoán là cổ phiếu và trái phiếu
doanh nghiệp. Đây là hai loại hàng hoá có chủng loại phong phú và hấp dẫn
nhất trên thị trường chứng khoán. Sở dĩ hai loại hàng hoá này hấp dẫn các nhà
đầu tư là do chúng có thể mang lại cho chủ sở hữu lợi nhuận rất lớn từ chênh
lệch giá cũng như từ cổ tức, lãi suất. Tuy nhiên, chúng cũng là những chứng
khoán có độ rủi ro cao, giá cả biến động nhiều.
Trong lịch sử, thị trường chứng khoán khi mới xuất hiện có thể bắt đầu
bằng giao dịch trái phiếu chính phủ. Nhưng từ khi công ty cổ phần ra đời, thì
thị trường chứng khoán hoạt động thường xuyên hơn và có bước phát triển
mạnh mẽ.
Công ty cổ phần gắn liền với thị trường chứng khoán như hai mặt của một
quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất. Từ yêu cầu của xã hội hoá lực lượng
sản xuất mà công ty cổ phần ra đời. Sự xuất hiện của cổ phiếu làm nảy sinh

nhu cầu giao dịch. Thị trường chứng khoán ra đời làm cho công ty cổ phần có
khả năng phát triển tốt hơn và do đó làm cho quá trình xã hội hoá lực lượng
sản xuất có hình thái thể hiện hoàn thiện hơn.
Số lượng các công ty cổ phần càng nhiều thì khối lượng chứng khoán trên
thị trường càng lớn. Không chỉ số lượng các công ty cổ phần quyết định khối
lượng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, mà chất lượng hoạt động hành
nghề của chúng cũng quyết định chất lượng và quy mô của thị trường chứng
khoán. Thông thường, ở những nước mà mô hình công ty cổ phần đã bao trùm
hầu khắp các lĩnh vực, các ngành chủ chốt trong nền kinh tế thì thị trường
chứng khoán có khả năng lưu chuyển vốn lớn hơn so với ngân hàng. Còn ở
3
những nước mà công ty gia đình và công ty nhà nước chiếm ưu thế thì lưu
chuyển vốn qua TTCK ít hơn so với lưu chuyển qua ngân hàng.
Một thực tế là trong những thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, thị
trường đang rộng mở, CTCP thường phát hành nhiều chứng khoán và mở rộng
quy mô hoạt động của mình. Và ngược lại, ở thời kỳ suy thoái, TTCK chẳng
những thu hẹp do ít chứng khoán mới phát hành từ CTCP mà dung lượng cũng
thu hẹp do giá cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp hạ thấp.
Ngoài ra, uy tín của CTCP cũng góp phần ổn định TTCK. Vào các giai
đoạn thị trường chao đảo, cổ phiếu của các CTCP lớn, có hoạt động ổn định,
có thị phần kiểm soát lớn, thường ít biến động hơn cổ phiếu các CTCP khác.
Tóm lại, số lượng CTCP, chất lượng, uy tín và sự phổ biến của nó trong
các ngành chủ chốt của nền kinh tế quốc dân là yếu tố căn bản duy trì và phát
triển TTCK. Muốn TTCK phát triển phải tạo điều kiện cho các yếu tố đó có
khả năng mở rộng trong thực tiễn.
1.1.2 Công ty cổ phần:
1.1.2.1 Một số khái niệm: [2], [13]
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng nhau góp
vốn, cùng nhau chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và
chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn của mình

góp vào công ty, được chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác theo
qui định của pháp luật và điều lệ của doanh nghiệp. Số lượng cổ đông tối thiểu
là ba, không hạn chế tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán
ra công chúng theo qui định của pháp luật về chứng khoán.
Cổ phần là vốn điều lệ của doanh nghiệp chia thành nhiều phần bằng
nhau.
Cổ đông là tổ chức hoặc cá nhân sở hữu cổ phần của CTCP.
Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ
để xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.
Cổ tức là số tiền hàng năm được trích từ lợi nhuận của công ty để trả cho
mỗi cổ phần.
4
Vốn điều lệ của CTCP là số vốn do tất cả các thành viên góp và được ghi
vào Điều lệ của công ty.
1.1.2.2 Ưu điểm của công ty cổ phần: [10], [15]
* Tạo ra khả năng huy động vốn rộng rãi, nhanh chóng, kịp thời với quy
mô lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, các doanh nghiệp có điều
kiện để mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ hiện đại từ đó nâng cao hiệu quả
kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Điều này hơn hẳn quá
trình tích tụ tư bản của doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH và kể cả DNNN.
* Vốn có thể được chuyển dịch giữa các nhà đầu tư trong và ngoài công ty
cổ phần, tính chất xã hội hoá vốn hoạt động kinh doanh rất cao, tạo ra khả
năng sử dụng vốn linh hoạt có hiệu quả cao.
* Phương thức quản lý CTCP tạo ra sự ràng buộc và giám sát lẫn nhau
giữa hội đồng cổ đông, HĐQT, Ban kiểm soát và giám đốc điều hành vì mục
tiêu chung của doanh nghiệp trong đó hội đồng cổ đông là cơ quan quyền lực
cao nhất. Mỗi bộ phận thành viên có lợi ích gắn liền với lợi ích của doanh
nghiệp vì vậy tạo ra động lực bên trong trong mỗi hoạt động quản lý.
* Người lao động có điều kiện làm chủ thực sự doanh nghiệp vì vậy họ
làm việc có hiệu quả cao cho doanh nghiệp.

Các ưu điểm đó là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả kinh doanh và sức cạnh
tranh của CTCP có tiền đề cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác.
1.1.2.3 Nhược điểm của công ty cổ phần: [10], [15]
* CTCP với chế độ trách nhiệm hữu hạn đã đem lại những thuận lợi cho
các cổ đông, nhưng lại chuyển bớt rủi ro cho các chủ nợ. Các chủ nợ sẽ bị
thiệt thòi khi tài sản của CTCP không đủ để thanh toán hết các khoản nợ của
công ty.
* CTCP gồm đông đảo các cổ đông tham gia và thường là không quen biết
nhau, với mức độ tham gia góp vốn cũng khác nhau, do đó mức độ ảnh hưởng
của các cổ đông với công ty cũng khác nhau. Điều này có thể dẫn đến việc lợi
dụng hoặc nảy sinh tranh chấp và phân hoá lợi ích giữa các nhóm cổ đông
khác nhau. Vì vậy, việc quản lỷ, điều hành CTCP là hết sức phức tạp.
5
* Cơ cấu tổ chức quản lý CTCP tương đối cồng kềnh và phức tạp, vì vậy
chi phí cho việc quản lý là tương đối lớn.
1.2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam
Cổ phần hoá DNNN là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu của DN từ
DNNN sang công ty cổ phần.
Mục tiêu của tiến trình cổ phần hoá DNNN tại Việt Nam [1], [14],
[16]
* Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh
nghiệp; tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông
đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho
doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh
nghiệp.
* Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển
doanh nghiệp.
* Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông;
tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; đảm bảo hài hoà

lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người lao động.
1.2.1 Sự cần thiết phải cổ phần hoá các DNNN tại Việt Nam: [12], [15]
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang vận động theo xu hướng thương
mại hoá toàn cầu, một yêu cầu bức thiết đặt ra là phải thực hiện cải cách các
DNNN nhằm phát huy sức mạnh và vai trò điều tiết của kinh tế quốc doanh,
đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, về cơ bản có hai
cách để cải cách DNNN:
* Cách 1: Thực hiện sắp xếp, cơ cấu lại DNNN, hoàn thiện hệ thống cơ
chế chính sách và cơ chế quản lý giám sát nhằm không ngừng nâng cao quyền
tự chủ và hiệu quả của DNNN trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Cách 2: Thực hiện đa dạng hoá sở hữu các DNNN nhằm thay đổi
phương thức quản lý để không ngừng củng cố và nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, “Cô? phần hoá DNNN” là một đòi
hỏi tất yếu khách quan, là phương án tối ưu nhất, trong điều kiện nền kinh tế
6
thị trường phát triển, đặc biệt khi tính cạnh tranh đã trở thành khu vực và toàn
cầu:
+ CPH có tác dụng làm cho sở hữu đối với các doanh nghiệp trở nên đa
dạng hơn. Chính vì vậy, nó giải quyết được khá triệt để vấn đề sở hữu trong
DNNN, loại hình doanh nghiệp với những vướng mắc về hiệu quả và sự kém
năng động trong sản xuất kinh doanh.
+ CPH có tác dụng trong việc xã hội hoá tư liệu sản xuất trong các doanh
nghiệp thuộc sở hữu một chủ.
CPH tạo cho những người lao động có cơ hội thực sự làm chủ doanh
nghiệp nếu họ mong muốn. Bằng việc sở hữu cổ phần của doanh nghiệp,
người lao động có thể tham gia vào các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp
thông qua nền dân chủ cổ phần. Họ góp phần hình thành nên cơ quan quản lý
doanh nghiệp, quyết định các vấn đề trọng đại của doanh nghiệp đó. Điều này
có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính chủ động, tích cực của người lao
động không chỉ đối với các vấn đề của doanh nghiệp mà cả đối với các vấn đề

về kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước.
+ Thúc đẩy sự phát triển của TTCK đang gặp khó khăn trong giai đoạn
phát triển hiện nay của đất nước. Sự phát triển của TTCK phụ thuộc chủ yếu
vào việc trên thị trường có chứng khoán để giao dịch hay không. Các CTCP
thường là loại doanh nghiệp cung cấp chứng khoán với tỷ lệ lớn hơn so với các
loại doanh nghiệp khác.
+ CPH DNNN ở nước ta có tác dụng rất lớn trong việc đẩy lùi tình trạng
lãng phí, tham nhũng đang khá phổ biến trong DNNN và những cơ quan quản
lý chúng. CPH tạo ra sự giám sát chặt chẽ của chủ sở hữu (cổ đông) đối với
giám đốc và cán bộ quản lý DNNN cổ phần hoá. Điều này có nghĩa là giám
đốc, các nhân viên quản lý không dễ dàng thực hiện hành vi vụ lợi như khi
DNNN đang hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.
1.2.2 Sơ lược về thực trạng tiến trình CPH DNDNN tại Việt Nam [3], [4],
[5]
Công tác CPH DNNN trong ngành Y tế chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1999
với một loạt các CTCP Dược được CPH từ các công ty Dược địa phương của
các tỉnh như: Nam Định, Lâm Đồng, Ninh Thuận, TP.HỒ Chí Minh ; các
7
ngành như: Bộ giao thông vận tải, Bộ nông nghiệp Các DNDNN ở trung
ương và các DN trực thuộc Tổng công ty theo kế hoạch phải tiến hành CPH 15
DN nhưng vẫn còn chậm trễ trong công việc thực hiện.
Năm 2001 đã có 16 tỉnh, thành phố triển khai thành công CPH DNNN, 9
tỉnh khác đang lập kế hoạch xúc tiến trong năm 2002, còn lại 36 tỉnh chưa có
' kế hoạch. Đến lúc này đã có 36 DNNN đã hoàn thành CPH. Trong đó Tổng
công ty Dược Việt Nam đã CPH được 6 đơn vị thành viên.
Năm 2002, thực hiện sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, UBND tỉnh, thành
phố, lãnh đạo Bộ Y Tế và các bộ, ngành có liên quan; công tác CPH DNNN
đã có bước chuyển biến nhanh hơn. Đến hết năm 2002, đã có tổng số 58
DNNN hoàn thành CPH trong tổng số 120 DNNN. Trong đó có 52 DN thuộc
tỉnh, thành phố và 6 DN và chi nhánh thuộc Tổng công ty Dược Việt Nam.

Sang năm 2003, công tác CPH DNNN đã có bước chuyển biến nhanh hơn.
Đến hết năm 2003, đã có 73 DNNN hoàn thành CPH. Trong đó có 65 DN
thuộc tỉnh, thành phố và 8 DN và chi nhánh thuộc Tổng công ty Dược Việt
Nam.
Sau cổ phần hoá, nhìn chung các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều
phát triển. Hiệu quả lao động cao hơn, bộ máy tinh gọn, việc làm ổn định,
doanh thu tăng, lợi nhuận tăng và thu nhập của người lao động tăng. Người lao
động trong doanh nghiệp là những cổ đông đóng góp cổ phần đã làm việc có
trách nhiệm hơn, gắn bó hơn với doanh nghiệp.
1.3 Những vấn đề cơ bản của thị trường chứng khoán.
1.3.1 Một sô khái niệm:
1.3.1.1 Thị trường chứng khoán: [11], [17]
* Khái niệm: Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua
bán, trao đổi các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, ). Thị trường chứng
khoán không phải là nơi mua vào bán ra các loại chứng khoán, không phải là
nơi sở hữu chứng khoán mà chỉ là nơi giao dịch, việc mua bán chứng khoán
được thực hiện thông qua các nhà môi giới.
* Phân loại:
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, TTCK được chia thành:
8
+ Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng từ mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành
thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
+ Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát
hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho
các chứng khoán đã phát hành. Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu
được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh
chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành.
Căn cứ vào phương thức hoạt động của TTCK, TTCK được phân
thành:

+ Thị trường chứng khoán tập trung (Sở giao dịch chứng khoán): là
nơi các giao dịch được tập trung tại một địa điểm, các lệnh được chuyển tới
sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao
dịch.
+ Thị trường chứng khoán phi tập trung (Thị trường OTC- Over The
Counter): là nơi các giao dịch (cả sơ cấp lẫn thứ cấp) được tiến hành qua
mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối
với nhau bằng mạng điện tử. Giá cả trên thị trường này được hình thành theo
phương thức thoả thuận.
Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường, TTCK cũng có thể được phân
thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các
công cụ chứng khoán phát sinh.
+ Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ
phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
+ Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại trái
phiếu đã được phát hành, bao gồm trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị, trái
phiếu chính phủ.
+ Thị trường các công cụ chứng khoán phát sinh: là thị trường phát
hành và mua đi bán lại các chứng khoán phát sinh (quyền mua cổ phiếu,
chứng quyền, hợp đồng quyền chọn- các chứng từ tài chính này được ra đời từ
các giao dịch chứng khoán và được quyền chuyển đổi sang các chứng khoán
9
qua hành vi mua bán theo những điều kiện nhất định) đã được phát hành. Đây
là loại thị trường cao cấp chuyên giao dịch những công cụ tài chính cao cấp,
do đó thị trường này chỉ xuất hiện ở những nước có TTCK phát triển mạnh.
1.3.1.2 Chứng khoán: [13], [14], [18]
* Khái niệm: Chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận
các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản
hoặc vốn của tổ chức phát hành.
* Phân loại: Chứng khoán bao gồm:

+ Cổ phiếu (Stock): là chứng chỉ do CTCP phần phát hành hoặc bút toán
ghi sổ để xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.
+ Trái phiếu (Bond): là chứng khoán nợ, trong đó người nắm giữ trái
phiếu là chủ nợ của đơn vị phát hành (có thể là doanh nghiệp, chính phủ hoặc
chính quyền địa phương). Trái phiếu là loại chứng khoán có lợi tức cố định,
được ấn định trước gọi là lãi suất.
+ Các loại chứng khoán khác:
Giấy đảm bảo mua cổ phiếu mới: Khi một công ty quyết định tăng vốn
bằng cách phát hành cổ phiếu mới thì các cổ đông hiện hữu được quyền mua
một số cổ phiếu mới với giá thấp hơn giá thị trường, theo tỷ lệ tương xứng với
số cổ phiếu họ đang nắm giữ.
Các hợp đồng lựa chọn: có 2 loại là "quyền chọn mua" và "quyền chọn
bán". Các hợp đồng này hợp đồng giữa 2 bên mà trong đó một bên cho bên
kia được quyền mua hoặc bán một loại hàng hoá cụ thể hoặc một lượng chứng
khoán nào đó, với một giá xác định trong một thời hạn xác định. Hợp đồng lựa
chọn hết giá trị vào ngày kết thúc thời hạn của nó.
Các dạng hợp đồng tương lai: Các hợp đồng này đáp ứng cho việc giao
một khoản tiền xác định của một loại hàng hoá nhất định trong một thời gian
xác định trong tương lai, nhưng trên thực tế nó không bao gồm việc chuyển
nhượng ngay quyền sở hữu hàng hoá đó.
10
1.3.2 Vai trò và sự cần thiết của thị trường chứng khoán đối với việc phát
triển nền kinh tê
1.3.2.1 Vai trò: [9]
* Là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần hoá
Ở Việt Nam chủ trương CPH được khởi xướng từ năm 1987, nhưng đến
năm 1992 mới thực hiện thí điểm. “Cổphần hoá” và “Tư nhân hoá” là hai
khái niệm khác nhau, trong đó cổ phần hoá là hành động mang tính kỹ thuật,
còn tư nhân hoá mang tính hệ quả. Kết quả cuối cùng của CPH DNNN là
chuyển từ một doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, hoạt động theo luật

doanh nghiệp Nhà nước thành một CTCP hoạt động theo luật của công ty cổ
phần. CPH có thể đưa đến tư nhân hoá, nếu toàn bộ cổ phần bán hết cho tư
nhân, hoặc ít ra là một phần lớn. CPH cũng có thể không đưa đến tư nhân hoá,
nếu số cổ phần vẫn do Nhà nước nắm giữ một phần khống chế.
CPH là quá trình chuyển đổi từ DNNN sang CTCP, đòi hỏi phải có thị
TTCK. Bởi lẽ TTCK và CTCP gắn kết chặt chẽ VỚI nhau, TTCK cần CTCP như
là một nguồn cung cấp hàng hoá và ngược lại CTCP cần TTCK như là kênh
huy động vốn và giao dịch. Công chúng bỏ tiền mua cổ phiếu, đó là hành
động đầu tư dài hạn. Như vậy, một câu hỏi được đặt ra: người đầu tư có thể
thu hồi vốn đầu tư một cách dễ dàng khi cần tiền được không? Vấn đề này chỉ
có thể thực hiện được khi có TTCK.
Trên TTCK diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán hàng ngày, hàng giờ.
Với nguyên tắc hoạt động đấu giá và công khai, TTCK sẽ là nền tảng, là cơ sở
hạ tầng cho quá trình CPH.
* Khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút mọi nguồn vốn nhàn
rỗi vào đầu tư
Bất cứ một doanh nghiệp nào, dù là khu vực Nhà nước hay tư nhân muốn
phát triển phải đầu tư. Có hai giải pháp cơ bản :
+ Bản thân doanh nghiệp tự tích luỹ để đầu tư thông qua phân phối lợi
nhuận. Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được ở những doanh nghiệp kinh
doanh có hiệu quả cao.
11
+ Huy động vốn từ bên ngoài, thực hiện chủ yếu bằng hai loại biện pháp:
vay tín dụng trung, dài hạn của các tổ chức tài chính, tín dụng và phát hành cổ
phiếu, trái phiếu. Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được khi dân chúng có
nguồn tiết kiệm dồi dào và ý thức cũng như phong trào tiết kiệm trong dân
chúng tốt, thị trường tài chính ổn định, rủi ro thấp.
Người dân Việt Nam xưa nay chỉ biết khai thác lợi ích nguồn vốn của
mình bằng cách gửi ngân hàng thì nay TTCK sẽ đưa đến cho người dân những
công cụ mới, đa dạng, phù hợp với từng loại đối tượng có suy nghĩ và tâm lý

riêng. Có TTCK, số vốn nhàn rỗi trong xã hội sẽ được thu hút vào công cuộc
đầu tư. Vốn đầu tư sẽ sinh lời, càng kích thích ý thức tiết kiệm trong dân
chúng.
Nhờ TTCK, với công cụ cổ phiếu có mệnh giá rất nhỏ và cổ phiếu quỹ
đầu tư, đại đa số dân chúng mới có thể tham gia được vào công cuộc đầu tư
bằng số vốn ít ỏi của mình.
* Là một công cụ giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển
kinh tê - xã hội
Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế
tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp
can thiệp của Nhà nước. Bất cứ Nhà nước nào cũng phải có ngân sách. Ngân
sách Nhà nước càng lớn thì chương trình phát triển kinh tế xã hội càng dễ
thành công.
Để có vốn cho chi tiêu của mình, Nhà nước phải thực hiện chính sách
thuế. Thuế là biện pháp quan trọng nhất để tạo ngân sách Nhà nước. Nhưng,
thông thường thuế không đủ cho chi tiêu, do đó phải có một nguồn thu khác,
đó là trái phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính quyền địa
phương, một hình thức Nhà nước vay tiền của dân. về kinh tế: việc Nhà nước
vay tiền của dân là thiết thực và lành mạnh. Vì Chính phủ không phải thông
qua ngân hàng để phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông, tạo nên áp lực lạm
phát.
Không có TTCK thì Nhà nước vẫn phát hành được trái phiếu, nhưng đó
chỉ là trái phiếu ngắn hoặc trung hạn, và nói chung việc phát hành sẽ khó
khăn, vì khả năng thanh khoản của trái phiếu (chuyển từ trái phiếu thành tiền
12
và ngược lại) là không đơn giản. Có TTCK với thị trường phát hành tập trung,
và thị trường mua đi bán lại tấp nập thì việc phát hành trái phiếu của Nhà nước
sẽ rất tiện lợi.
* Là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những nước

đang phát triển. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.
Về khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của TTCK : Luật đầu tư
nước ngoài của ta được đánh giá là cởi mở nhưng trong quá trình thực hiện
cũng có những trở ngại đáng kể, đó là thiếu thông tin, một vấn đề mà nhà đầu
tư nước ngoài rất quan tâm. Không có thông tin đầy đủ chính xác thì dù có
thừa vốn cũng không dám đầu tư.
TTCK hoạt động theo nguyên tắc công khai. Nghĩa là mọi đối tượng tham
gia mua bán chứng khoán phải công khai hoá và cập nhật toàn bộ thông tin
liên quan đến giá trị chứng khoán, và công khai khả năng tài chính trong các
giao dịch mua bán chứng khoán. TTCK sẽ khắc phục được tình trạng thiếu
thông tin hoặc thông tin không trung thực cho cả hai phía.
Về khả năng kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài của TTCK: Thu hút được
nhiều vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn là phải
kiểm soát được vốn đầu tư. Theo luật đầu tư hiện hành, có ba hình thức đầu tư
cơ bản: đầu tư theo hợp đồng hợp tác liên doanh, đầu tư liên doanh và đầu tư
100% vốn nước ngoài.
Đầu tư qua TTCK tức là đầu tư mua bán chứng khoán tại một TTCK có tổ
chức. Trong mỗi loại chứng khoán theo luật định sẽ được bán cho người nước
ngoài theo một tỷ lệ nhất định.
Việt Nam đang là một trong những nước được các nhà đầu tư đánh giá là
khá an toàn, nhưng chưa có tính luân chuyển và chưa thuận lợi. Vì vậy thiết
lập TTCK cũng là một nhu cầu có tính cạnh tranh.
* Lưu thông mọi nguồn vốn trong nước
Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi
bán lại trên TTCK như một loại hàng hoá. Người có vốn (có cổ phiếu, trái
phiếu, ) không sợ vốn mình bị bất động vì khi cần, họ sẽ bán lại các cổ
13
phiếu, trái phiếu này trên TTCK để mua lại các cổ phiếu, trái phiếu khác. Vốn
của»họ được luân chuyển để tài trợ cho các dự án đầu tư. Đây là phương thức
thông dụng mà các Nhà nước theo cơ chế thị trường đã làm. Nó làm cho mọi

nguồn vốn được lưu thông. Một khi việc đầu tư vào các doanh nghiệp có lợi
đối với mọi tầng lớp dân chúng thì qua thị trường chứng khoán các món tiền
tiết kiệm lớn nhỏ đều sẵn sàng từ bỏ lĩnh vực bất động hoá, chấp nhận vào quá
trình đầu tư.
* Kích thích các doanh nghiệp nâng cao trình độ quản lý
Nhờ TTCK, các doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành các cổ
phiếu, trái phiếu của họ. Ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận các cổ phiếu, trái
phiếu của những công ty có đủ điều kiện: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành
mạnh, và dân chúng cũng chỉ mua cổ phiếu của các công ty thành đạt. Với
sự tự do lựa chọn của người mua cổ phiếu, để bán được cổ phiếu không còn
cách nào khác hơn là những nhà quản lý doanh nghiệp phải tính toán, làm ăn
đàng hoàng và hiệu quả hơn nữa. Mặt khác, luật lệ của TTCK buộc các doanh
nghiệp tham gia TTCK phải công khai các báo cáo cân đối tài chính, kết quả
kinh doanh hàng quý, hàng năm trước công chúng Qua đó công chúng mới
có cơ hội đánh giá được công ty.
1.3.2.2 Sự cần thiết phải có thị trường chứng khoán tại Việt Nam: [7], [8]
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là nhằm đạt tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, muốn vậy thì phải có vốn lớn. Trước đòi hỏi bức xúc về
nhu cầu vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
chúng ta cần phải có những chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực tài
chính trong nước, biến các nguồn vốn nhàn rỗi thành vốn đầu tư hoạt động
sinh lời và thu hút vốn nước ngoài bằng nhiều hình thức như: phát hành trái
phiếu, cổ phiếu, mở rộng các quỹ đầu tư. Do đó cần thiết phải xây dựng TTCK
Việt Nam. Sau đây là một số lý do chủ yếu:
* Thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá DNNN
Có thể nói, hai loại định chế tài chính này đi đôi với nhau như hình với
bóng.
Thứ nhất, sự tồn tại TTCK làm gia tăng số lượng cổ đông tiềm tàng cho
các DNNN cổ phần hoá. Chứng khoán với tính thanh khoản cao của nó tác
14

động lớn trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội cho các CTCP trong
đó có các DNNN cổ phần hoá.
Thứ hai, sự tồn tại của TTCK với các công ty chứng khoán còn có vai trò
rất lớn trong việc trợ giúp các DNNN đã CPH ở khía cạnh tư vấn phát hành cổ
phần, bảo lãnh phát hành cổ phần, giao dịch chứng khoán, những công việc
mà tuyệt đại đa số các công ty cổ phần ở nước ta chưa bao giờ trải qua. TTCK
giúp xác định chính xác hơn giá trị của DNNN CPH thông qua các giao dịch
đối với cổ phiếu của chúng.
Thứ ba, sự tham gia của các DNNN CPH vào TTCK buộc các công ty này
phải thực hiện chế độ tài chính kế toán minh bạch, phải công bố với các cổ
đông và công chúng về tình hình sản xuất kinh doanh, lợi nhuận và kế hoạch
phát triển của công ty mình. Những đòi hỏi này buộc những người quản lý
công ty phải điều hành tốt hơn, chú trọng đến sự phát triển sản xuất kinh
doanh nhiều hơn. Kết quả, hiệu quả của DNNN CPH sẽ tốt hơn nhiều và đó là
một trong những lực hút các DNNN khác vào quỹ đạo CPH.
Những đóng góp của TTCK đối với nền kinh tế hiển nhiên là rất to lớn.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia theo cơ chế thị trường đều có tổ chức TTCK,
ngay cả các quốc gia đang phát triển cũng đang hình thành và phát triển
TTCK của họ, làm công cụ đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư và
tăng trưởng kinh tế.
Ngược lại, CPH cũng có tác động rất lớn đối với TTCK thông qua việc
làm xuất hiện thêm một số lượng CTCP có tiềm lực do thừa kế vốn, công
nghệ, lao động từ các doanh nghiệp CPH. Với sự xuất hiện của những CTCP
này thì khối lượng hàng hoá chứng khoán sẽ tăng lên đáng kể, từ đó sẽ thúc
đẩy TTCK ngày càng phát triển.
* Tạo kênh huy động vốn cho nền kinh tế
TTCK cho phép huy động vốn đầu tư trung và dài hạn, trong nước và nước
ngoài phục vụ cho việc phát triển kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Sự tồn tại của TTCK là yếu tố quyết định thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài bởi họ đầu tư vào TTCK không chỉ bởi để hưởng lãi, mà

còn để hưởng chênh lệch giá chứng khoán lên cao và hưởng giá trị cổ phần
tăng khi công ty làm ăn phát đạt.
15
Trong nền kinh tế, việc huy động vốn thường được thực hiện thông qua
hai kênh chính sau:
Kênh dẫn vốn dài hạn được thực hiện chủ yếu thông qua TTCK.
Kênh dẫn vốn ngắn hạn được thực hiện qua hệ thống ngân hàng.
Trong thời gian đầu, khi quy mô kinh tế còn nhỏ bé, nhu cầu về vốn chưa
lớn thì việc huy động vốn qua ngân hàng đủ đáp ứng cho nền kinh tế. Khi nền
kinh tế phát triển với quy mô lớn thì kênh ngân hàng sẽ không đáp ứng được
yêu cầu luân chuyển vốn.
Đối với Việt Nam , nếu không thiết lập TTCK thì khó có thể đáp ứng được
nguồn vốn dài hạn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước: Nguồn vốn dư thừa sẽ chạy vào các lĩnh vực như bất động sản, mua
ngoại tệ cất trữ, Khi đó Chính phủ sẽ khó kiểm soát hoạt động tài chính,
ngân hàng dễ bị khủng hoảng.
* Nâng cao tính nhạy cảm và năng động trong thị trường
TTCK là nơi cung cấp nhanh nhất mọi thông tin về chứng khoán. TTCK là
một công cụ tài chính quan trọng để huy động vốn và đầu tư trong toàn xã hội,
đồng thời đưa đồng vốn của doanh nghiệp và người đầu tư trong toàn xã hội
đến những nơi sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhưng đây là một thể chế tài
chính bậc nhất, rất nhạy cảm nên nó vừa là cơ hội lại vừa là thách thức đối với
các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và đòi hỏi họ phải tự mình đổi mới cách
nghĩ, cách làm, cách quản lý trong một hệ thống, thể chế pháp quy ngày càng
được xây dựng và bổ sung đồng bộ.
Ngoài ra còn có một số lý do như sau:
* TTCK là trung tâm giao nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn tiết
kiệm cho đầu tư của toàn xã hội, gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ
thống tài chính- tiền tệ cấu thành nền tài chính quốc gia.
* TTCK là một loại cơ sở hạ tầng về tài chính của nền kinh tế giúp cho

đồng vốn đầu tư đi vào những ngành, những doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả
thông qua sự định hướng của thị trường vốn.
* TTCK hoạt động tốt cung cấp sự dự báo tuyệt vời về chu kỳ kinh doanh
trong tương lai.
16
* TTCK cũng sẽ mang lại nhiều tiện ích cho công chúng, giúp công chúng
có thể lựa chọn các hình thức đầu tư vào công ty, cho Nhà nước vay dài hạn
qua các trái phiếu, chuyển dịch vốn một cách dễ dàng trước các hình thức đầu
tư.
Xuất phát từ sự cần thiết đó, TTCK Việt Nam đã được thành lập và đi vào
hoạt động từ ngày 28/7/2000. Qua năm năm hoạt động TTCK vẫn là một lĩnh
vực mới đối với người dân Việt Nam. Tính đến hết tháng 12/2004 mới chỉ có
27 công ty tham gia niêm yết trên TTCK (phụ lục 2). TTCK Việt Nam đang
gặp nhiều khó khăn và thách thức không nhỏ, tuy nhiên, nó cũng chứa đựng
nhiều yếu tố có khả năng tác động tích cực đến triển vọng phát triển của
TTCK Việt Nam, tạo điều kiện cho TTCK nước ta tồn tại và phát triển.
1.3.3 Điều kiện niêm yết cổ phiếu trên TTCK: [14]
Theo Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28-11-2003 của Chính phủ về
chứng khoán và TTCK thì điều kiện để một CTCP có thể niêm yết cổ phiếu
của mình trên TTCK là:
* Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm xin phép niêm
yết từ 5 tỷ đồng Việt Nam trở lên; có tình hình tài chính lành mạnh và hoạt
động kinh doanh của 02 năm liên tục liền trước năm xin phép niêm yết phải có
lãi.
* Đối với DNNN CPH và niêm yết ngay trên TTCK, hoạt động kinh
doanh của năm liền trước năm xin phép phải có lãi.
* Các cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, Ban kiểm
soát của công ty phải cam kết nắm giữ ít nhất 50% số cổ phiếu do mình sở
hữu trong thời gian 03 năm, kể từ ngày niêm yết.
* Tối thiểu 20% vốn cổ phần của công ty do ít nhất 50 cổ đông ngoài tổ

chức phát hành nắm giữ. Đối với công ty có vốn cổ phần từ 100 tỷ đồng Việt
Nam trở lên thì tỷ lệ này tối thiểu là 15% vốn cổ phần.
1.4 Những luận văn trong lĩnh vực Dược đã đề cập tới vấn đề này:
Đã có một luận văn trong lĩnh vực Dược đề cập tới vấn đề TTCK. Đó là
luân văn của sinh viên Lê Anh Dũng có tên:

×