Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

KINH NGHIỆM ĐIỀU CHỈNH TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.77 KB, 44 trang )

DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT Tên bảng biểu Trang
Bảng 2.1 Diễn biến của tỉ giá hối đoái giữa đồng nhân dân tệ và đồng đô
la thời kỳ 1978-1990
Bảng 2.2 Bảng số liệu về FDI, lạm phát,giá trị xuất khẩu và nhập khẩu
của Trung Quốc trong giai đoạn 1994-1997
Bảng 2.3 Tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ trong năm 1998
Bảng 3.5 Biên độ giao dịch tỷ giá giai đoạn 2006 – 2015
DANH MỤC HÌNH VẼ
STT Tên hình vẽ Trang
Hình 2.1 Tỷ giá hối đoái giữa Nhân dân tệ với Đô la Mỹ 1980 – 2010
Hình 3.1 Đồ thị diễn biến tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng
giai đoạn 2010 – 2011
Hình 3.2 Diễn biến tỷ giá USD/VND từ 1/2012 - 5/2015
Hình 3.3 Diễn biến tỷ giá USD/VND 9 tháng đầu năm 2015
Hình 3.4 Diễn biến tỷ giá USD/VND từ 1/2011 đến 5/2015
LỜI MỞ ĐẦUCHƯƠNG I: LÝ THUYẾT TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.1.1. Khái niệm
− Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai nước với nhau.( khái niệm cơ
bản)
Ví dụ: Ngày 7/06/2010,tại London so sánh giữa GBP và USD cho ta tỷ giá:
GBP = 1,4432 USD
− Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một số tiền tệ
nước khác.( khái niệm thị trường)
Ví dụ: Một tờ séc trị giá 100 GBP, ngân hàng bán 201,4 USD. Nếu nhiều người
mua Séc để thanh toán, nhu cầu Séc tăng lên thì ngân hàng sẽ nâng giá GBP lên 201,9
USD
1.1.2. Cách công bố tỷ giá
Ngân hàng công bố tỷ giá mua ngoại tệ ( BID RATE ) và tỷ giá bán ngoại tệ (ASK
RATE). Có nhiều cách công bố tỷ giá:


− Công bố hai tỷ giá tách rời nhau:
• BID RATE: USD =1,2312 CHF
• ASK RATE: USD = 1,2317 CHF
− Công bố rút gọn: USD/CHF = 1,2312/17
• Đồng tiền đứng trước (USD) là đồng tiền yết giá : một đơn vị tiền tệ cố định
• Đồng tiền đứng sau (CHF) là đồng tiền định giá: một số đơn vị tiền tệ biến
đổi
Tỷ giá bán bao giờ cũng lớn hơn tỷ giá mua,chênh lệch này gọi là Spread.
Spread = ASK – BID (= lợi nhuận mà ngân hàng thu được)
1.1.3. Phương pháp yết giá
Có hai phương pháp yết giá phổ biến:
− Yết giá trực tiếp (certain quotation) tức là có bao nhiêu số lượng tiền tệ trong nước
bằng một đơn vị ngoại tệ.
VD: Tại HongKong: USD/HKD = 7,760/90.
− Yết giá gián tiếp (Incertain quotation) tức là có bao nhiêu ngoại tệ bằng một đơn vị tiền
tệ trong nước.
VD: Tại HongKong: HKD/USD = 0.1287/0.1285.
1.1.4. Phân loại tỷ giá hối đoái
Có rất nhiều cách phân loại tỷ giá hối đoái khác nhau:
− Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái bao gồm:
• Tỷ giá chính thức: tỷ giá do Ngân hàng trung ương của mỗi nước công bố hàng ngày
vào đầu giờ làm việc của Ngân hàng trung ương. Dựa vào tỷ giá này các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, có kỳ
hạn, hoán đổi.
• Tỷ giá kinh doanh: tỷ giá dùng để kinh doanh mua bán ngoại tệ, do các ngân hàng
thương mại hay các tổ chứ tín dụng đưa ra. Cơ sở xác định tỷ giá này là tỷ giá chính
thức khi đã xem xét các yếu tố liên quan trực tiếp đến kinh doanh như: quan hệ cung
cầu, tỷ suất lợi nhuận, tâm lý của người giao dịch đối với ngoại tệ cần mua hoặc bán.
(Tỷ giá kinh doanh bao gồm tỷ giá mua, tỷ giá bán.)
• Tỷ giá chợ đen: tỷ giá được hình thành bên ngoài thị trường ngoại tệ chính thức.

− Căn cứ vào tiêu thức thời điểm thanh toán
• Tỷ giá giao nhận ngay: tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ được thực
hiện ngay trong ngày hôm đó hoặc một vài ngày sau. Tỷ giá này do tổ chức tín dụng
yết giá tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận nhưng phải đảm bảo trong
biểu độ do Ngân hàng nhà nước quy định. Việc thanh toán giữa hai bên phải được thực
hiện trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo sau ngày cam kết mua bán.
• Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: tỷ giá giao dịch do tổ chức tín dụng yết giá hoặc do hai bên
tham gia giao dịch tự tính toán và thỏa thuận với nhau nhưng phải đảm bảo trong biên
độ quy định về tỷ giá kỳ hạn hiện hành của Ngân hàng nhà nước tại thời điểm ký hợp
đồng. Thường là mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ được thực hiện theo hợp
đồng (1, 3, 6 tháng…)
• Tỷ giá mở cửa: tỷ giá mua bán ngoại tệ của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
• Tỷ giá đóng cửa: tỷ giá mua bán ngoại tệ của hợp đồng ký kết cuối cùng trong ngày.
− Căn cứ vào tiêu thức giá trị của tỷ giá:
• Tỷ giá danh nghĩa: tỷ giá được yết và có thể trao đổi giữa hai đồng tiền mà không đề
cập đến tương quan sức mua giữa chúng.
• Tỷ giá thực: tỷ giá đã được điều chỉnh theo sự thay đổi trong tương quan giá cả của
nước có đồng tiền yết giá và giá cả hàng hóa của nước có đồng tiền định giá.
− Căn cứ vào phương tiện chuyển đổi ngoại hối:
• Tỷ giá điện hối: tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện hối. Đây là tỷ giá cơ sở để xác định
các loại tỷ giá khác.
• Tỷ giá thư hối: tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư.
− Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế:
• Tỷ giá séc: tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
• Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay: tỷ giá mua bán các loại hối phiếu trả tiền ngay bằng
ngoại tệ.
• Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn: tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn bằng ngoại tệ.
• Tỷ giá chuyển khoản: tỷ giá mua bán ngoại hối bằng cách chuyển khoản qua ngân
hàng.
• Tỷ giá tiền mặt: tỷ giá mua bán ngoại hối được thanh toán bằng tiền mặt.

1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Do tính chất gắn chặt với thương mại quốc tế, tỷ giá hối đoái có một quá trình
hình thành và phát triển lâu dài, cũng như trải qua nhiều chế độ tỷ giá:
1.2.1. Tỷ giá ngang giá vàng trong chế độ bản vị vàng
Trong thời kì bản vị vàng, đồng tiền của các quốc gia được đem ra so sánh, quy
đổi dựa trên cơ sở hàm lượng vàng chứa đựng trong đồng tiền đó. Hay nói cách khác,
tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền của hai nước bất kì trong thời kì này, đặc biệt từ năm
1870 đến thời kỳ đầu chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914, được quyết định dựa trên
việc so sánh hàm lượng vàng chứa trong mỗi đơn vị tiền tệ của từng nước. Công thức
như sau:
Tỷ giá hối đoái (đồng A/ đồng B)=
BtiênviđontrongvàngluongHàm
AtiênviđontrongvàngluongHàm
1
1
Ví dụ: hàm lượng vàng của một bảng Anh (GBP) trước năm 1914 là 7,9880g
vàng, của một đô la Mỹ (USD) trước năm 1914 là 1,5047g vàng. Như vậy, tỷ giá hối
đoái của GBP và USD là: GBP/USD = 7,9880/1,5047 = 5,3089
Tỷ giá hối hoái nhìn chung trong giai đoạn này khá ổn định và thường chỉ biến
động theo mức tăng giảm hàm lượng vàng chứa đựng trong mỗi đơn vị tiền tệ.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sau Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất, cộng với những bất lợi vốn có của chế độ bản vị vàng như kiềm chế
sự phát triển kinh tế và giao lưu kinh tế quốc tế,… nên các nước đã dần dần từ bỏ chế
độ bản vị vàng, đến năm 1971 thì bãi bỏ hoàn toàn.
1.2.2. Tỷ giá hối đoái trong chế độ tiền tệ Bretton Woods
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), chế độ bản vị vàng sụp đổ,
các nước tư bản chủ nghĩa chủ trương khôi phục lại chế độ bản vị vàng không trọn vẹn,
đó là chế độ bản vị hối đoái vàng thông qua đồng Bảng Anh (1924), sau đó là đồng
USD của Mỹ (1944).
Tháng 7 – 1944, chính phủ các nước đồng minh nhóm họp tại Bretton Woods,

New Hamphshire, Hoa Kì thiết lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng quốc tế
(WB) để khắc phục tình trạng kinh tế yếu kém.Cũng trong hội nghị này, đồng tiền
USD của Mỹ được các nước chấp nhận sử dụng trong thanh toán quốc tế và được IMF
xác định tiêu chuẩn giá cả với 1 USD = 0,888671g vàng. Tiền tệ của các nước thành
viên không được đổi trực tiếp ra vàng, mà thông qua việc đổi ra USD theo tỷ giá chính
thức với USD.
Trong chế độ tiền tệ này, tỷ giá cố định được duy trì trong thời gian tương đối
dài. Cho đến năm 1960, kho vàng của Mỹ liên tục bị “tấn công” do sức ép cạnh tranh
từ nền kinh tế Tây Âu và Nhật Bản, cùng với sự suy yếu của đồng USD. Sau hai lần
phá giá USD hàm lượng vàng của 1 USD chỉ còn 0,736662g vàng. Không cải thiện
được tình hình, ngày 13-2-1973, Mỹ đơn phương tuyên bố chế độ Bretton Woods sụp
đổ, dẫn dến việc hầu hết các nước tư bản thi hành chính sách thả nổi đồng tiền của
nước mình.
1.2.3. Tỷ giá hối đoái sau chế độ tiền tệ Bretton Woods
Sau chế độ Bretton Woods, các nước trên thế giới chủ yếu lưu thông tiền giấy
không chuyển đổi ra vàng trong lưu thông, hàm lượng vàng chỉ mang tính đặc trưng.
Tỷ giá lúc này được xác định dựa trên cơ sở so sánh sức mua của hai đồng tiền, bao
gồm sức mua trong nước và sức mua quốc tế gọi là ngang giá sức mua (Purchasing
Power Parity – PPP).
Ví dụ: nhóm hàng hóa A ở Hoa Kỳ có tổng giá cả trong năm 2010 là
119.440.000 USD, còn ở Pháp là 100.000.000 EUR, do đó ngang giá sức mua của
EUR và USD là EUR = 119.440.000/100.000.000 = 1,1944 USD. Đây là tỷ giá hối
đoái giữa USD và EUR.
Trên thực tế, tỷ giá biến động do lạm phát, giảm phát và quan hệ cung cầu ngoại
hối trên thị trường. Tại mỗi thời điểm nhất định ở mỗi thị trường khác nhau trên thế
giới, tỷ giá biến động liên tục trong ngày, gọi là cơ chế tỷ giá thả nổi.
Tuy nhiên, để tránh tỷ giá biến động quá lớn ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh
tế, sự can thiệp của quản lý nhà nước là cần thiết. Thông qua các công cụ quản lý vĩ
mô, nhà nước chủ động điều tiết tỷ giá hối đoái theo hướng có lợi nhất cho nền kinh tế,
còn gọi là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý.

1.3. TẦM QUAN TRỌNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao giữa các nước trên thế giới đã phát sinh
quan hệ thanh toán quốc tế. Mỗi quốc gia đều có một đồng tiền riêng nên trong giao
dịch quốc tế phải chuyển đổi đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác theo một tỷ
lệ nhất định. Như vậy, mọi hoạt động quan hệ quốc tế đều phải thông quan tiền tệ và tỷ
giá hối đoái có vai trò quan trọng trong việc xác định giá cả đồng tiền. Điều đó được
thể hiện ở những tác dụng sau:
1.3.1. Vai trò so sánh sức mua của các đồng tiền
Thông qua vai trò này, tỷ giá trở thành công cụ hữu hiệu để tính toán và so sánh giá
trị nôi tệ với giá trị ngoại tệ, giá cả hàng hóa trong nước với giá quốc tế, năng suất lao
động trong nước với năng suất lao động quốc tế,…, trên cơ sở đó, tính toán hiệu quả
ngoại thương, hiệu quả của việc liên doanh với nước ngoài, vay vốn nước ngoài, và
hiệu quả của các chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước.
1.3.2. Tỷ giá hối đoái có tác động lớn tới quan hệ ngoại thương, xuất nhập khẩu
hàng hóa, dịch vụ của nước đó với các nước khác
Khi VND mất giá so với USD, tức là phải bỏ ra nhiều VND hơn mới mua được
một USD thì hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam sẽ đắt hơn và hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam sang Mỹ tăng lên. Ngược lại, nếu VND lên giá, hàng hóa nước ngoài nhập
vào Việt Nam sẽ rẻ hơn và hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ra nước ngoài sẽ đắt hơn.
Chẳng hạn, 1 lô hàng xuất khẩu trị giá 16.000 triệu VND. Thời điểm 1/2006 tỷ giá trên
thị trường USD/VND là 16.000 thì lô hàng này được bán trên thị trường quốc tế với giá
1 triệu USD. Thời điểm 12/2006 tỷ giá USD/VND 17.000 thì lô hàng này được bán với
giá 16.000/17.000= 0,941 triệu USD, rẻ hơn ban đầu. Khi ấy, mức cầu mở rộng và khối
lượng hàng hoá xuất khẩu sẽ gia tăng. Trong khi đó, giá hàng nhập khẩu từ nước ngoài
trở nên đắt hơn, do đó hạn chế nhập khẩu. Như vậy, sự tăng lên của tỷ giá làm nền kinh
tế thu được nhiều ngoại tệ, cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế được cải
thiện.
Tuy nhiên, khi xem xét tác động của tỷ giá đến sự thay đổi hoạt động thương
mại quốc tế và cán cân thanh toán cần lưu ý rằng hiệu ứng này không thể xảy ra ngay
mà phải trải qua một khoảng thời gian nhất định. Khoảng thời gian đó là thời gian thích

ứng đối với việc thay đổi giá cả hàng hoá của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Trong thời gian đầu, cán cân thanh toán có thể bị giảm đi, sau đó mới đạt trạng thái cải
thiện dần.
Hiệu ứng này được gọi là đường J (đường J cho biết cán cân thương mại sẽ thay đổi
theo thời gian như thế nào sau khi đồng nội tệ giảm giá).
1.3.3. Tỷ giá hối đoái tác động lớn tới kinh tế trong nước và trực tiếp nhất là tỷ lệ
lạm phát.
Khi sức mua của đồng tiền trong nước giảm đi (có thể do nhà nước chủ trương
phá giá tiền tệ để đẩy mạnh xuất khẩu chẳng hạn), tỷ giá hối đoái tăng lên làm giá hàng
nhập khẩu đắt hơn. Nếu hàng nhập khẩu để trực tiếp tiêu dùng thì làm tăng chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) trực tiếp. Nếu hàng nhập khẩu dùng cho sản xuất thì làm tăng chi phí
sản xuất và dẫn tới tăng giá thành sản phẩm. Kết quả cũng là sự tăng lên của chỉ số giá
tiêu dùng. Vì vậy, lạm phát có thể xảy ra. Nhưng khi tỷ giá tăng, các ngành sản xuất
hàng xuất khẩu được lợi và phát triển, kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất
trong nước nói chung, nhờ vậy thất nghiệp giảm và nền kinh tế tăng trưởng.
Ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm (giá đồng nội tệ tăng lên), hàng nhập khẩu từ
nước ngoài trở nên rẻ hơn.Do đó, lạm phát được kiềm chế, nhưng lại dẫn tới sản xuất
thu hẹp và tăng trưởng thấp.
1.3.4.Tỷ giá hối đoái là một công cụ quản lý vĩ mô hết sức lợi hại.
Chính phủ các nước luôn quan tâm tìm cách điều chỉnh việc xác định tỷ giá trên
thị trường hối đoái với ý đồ sử dụng nó làm công cụ để quản lý và điều tiết những mất
cân đối trong hoạt động kinh tế trong nước cũng như những mất cân đối trong kinh tế
đối ngoại. Tuy nhiên,khi điều chỉnh tỷ giá hối đoái để thực hiện mục tiêu kinh tế xã
hội, Nhà nước cần phải xem xét nhiều mặt, tính toán đến nhiều tác động khác nhau, trái
chiều nhau của tỷ giá. Mặt khác còn phải cảnh giác đối phó với nạn đầu cơ tiền tệ trên
thế giới có thể làm cho nội tệ bất ngờ lên giá hoặc hạ giá do tác động của sự di chuyển
các luồng vốn ngoại tệ gây ra làm cho nền kinh tế trong nước không ổn định.
Như vậy tỷ giá hối đoái có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế của
mỗi quốc gia cũng như của toàn thế giới.
Phần tiếp theo sẽ cho chúng ta cái nhìn rõ nên hơn về thực trạng cũng như

những phân tích nhiều chiều trong điều chỉnh tỷ giá ở Việt Nam và trên thế giới.
CHƯƠNG II: KINH NGHIỆM ĐIỀU CHỈNH TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI
CỦA TRUNG QUỐC
2.1. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP ĐIỀU CHỈNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
THEO LÝ THUYẾT
Nhà nước có thể áp dụng nhiều phương pháp để điều chỉnh tỷ giá hối đoái,
trong đó chủ yếu là chính sách chiết khấu, chính sách hối đoái, lập quỹ bình ổn
hối đoái, vay nợ, phá giá, nâng giá tiền tệ…
2.1.1. Chính sách chiết khấu
Chính sách chiết khấu là chính sách của Ngân hàng Trung ương bằng cách thay
đổi lãi suất chiết khấu của ngân hàng Trung ương nhằm tác động đến dòng vốn ngắn
hạn trên thị trường thông qua đó để điều chỉnh tỷ giá tăng lên hay giảm xuống theo yêu
cầu phát triển của nền kinh tế. Khi tỷ giá tăng cao tới mức nguy hiểm, muốn điều chỉnh
tỷ giá giảm xuống, Ngân hàng trung ương sẽ nâng cao lãi suất chiết khấu lên, do đó lãi
suất chiết khấu của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, kết quả là vốn ngắn hạn
trên thị trường thế giới chạy vào để thu lãi cao. Nhờ các dòng vốn ngắn hạn chạy vào
mà làm giảm bớt sự căng thẳng nhu cầu ngoại hối trên thị trường, do đó tỷ giá hối đoái
sẽ có xu hướng giảm xuống.
Mô hình minh họa chính sách chiết khấu
Tỷ giá tăng Tỷ giá giảm
Nâng cao lãi suất chiết khấu Cung ngoại tệ tăng
Nhu cầu ngoại tệ giảm
Dòng vốn từ nước
Lãi suất NHTM tăng ngoài chảy vào trong
nước tăng lên
Thực chất chính sách chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có hạn đối
với tỷ giá hối đoái, bởi lẽ giữa tỷ giá và lãi suất không có mối quan hệ nhân quả, lãi
suất không phải là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động của dòng vốn giữa các
nước. Lãi suất biến động do tác động của quan hệ cung cầu vốn cho vay và nó xoay
quanh trục tỷ suất lợi nhuận bình quân. Còn tỷ giá hối đoái thì do quan hệ cung cầu về

ngoại hối quyết định mà quan hệ này lại do tình hình thặng dư hay thiếu hụt cán cân
thanh toán. Như vậy nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó biến
động của lãi suất không nhất định đưa đến sự biến động tương ứng của tỷ giá. Lãi suất
lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn của các nước ngoài chảy vào, nhưng nếu tình hình
kinh tế chính trị trong nước không ổn định thì không nhất thiết điều đó sẽ xảy ra. Bởi
vì trong đầu tư vấn đề dặt ra trước tiên là sự đảm bảo an oàn cho số vốn đó chứ không
phải là thu về được lãi nhiều. Ví dụ, trong thời kỳ 1971 - 1973, Tổng thống Mỹ Nixon
phải áp dụng biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD bằng cách tăng lãi suất chiết
khấu lên rất cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Vào lúc này,
mặc dù lãi suất trên thị trường New York cao gấp 1,5 lần thị trường London, gấp 3 lần
thị trường Frankfurk, nhưng vốn ngắn hạn cũng không được chuyển vào Mỹ mà lại đưa
đến Tây Đức và Nhật Bản, dù rằng các nước này thực hiện chính sách lãi suất thấp, vì
lúc đó USD đang đứng bên bờ của nguy cơ mất giá.
Tuy nhiên chính sách chiết khấu vẫn là một công cụ vĩ mô nhiều nước sử dụng
để can thiệp vào sự biến động của tỷ giá. Nếu tình hình tiền tệ của các nước cơ bản như
nhau thì rõ ràng phương hướng đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào những nước có lãi suất
cao, do đó không thể đánh giá thấp chính sách chiết khấu, nó vẫn có một ý nghĩa quan
trọng trong hệ thống chính sách vĩ mô của ngân hàng Trung ương. Ví dụ: năm 1964,
Ngân hàng Anh quốc nâng tỷ suất chiết khấu từ 5% lên 7%, do đó đã thu được vốn
ngắn hạn chảy vào Anh góp phần giải quyết những khó khăn của cán cân thanh toán
quốc tế Anh.
Ngoài ra chính sách chiết khấu còn được hiểu một cách rất chính thống là chính
sách điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu của Ngân hàng Trung ương đối với ngân hàng thương
mại. Theo chính sách này Ngân hàng Trung ương sẽ nâng cao hay hạ thấp lãi suất của
khoản vốn vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại tại ngân hàng Trung ương, từ đó
gián tiếp giảm hoặc tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế
2.1.2. Chính sách hối đoái (hay còn gọi là chính sách thị trường mở)
Chính sách hối đoái hay còn gọi là chính sách thị trường mở là biện pháp trực
tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái, có nghĩa là Ngân hàng Trung ương hay các cơ quan
ngoại hối của Nhà nước dùng nghiệp vụ trực tiếp mua bán ngoại hối để điều chỉnh tỷ

giá hối đoái. Khi tỷ giá hối đoái lên cao, Ngân hàng Trung ương tung ngoại hối bán ra
để kéo tỷ giá hối đoái xuống. Muốn thực hiện được biện pháp này, Ngân hàng Trung
ương phải có dự trữ ngoại hối lớn. Song, nếu tình hình thiếu hụt của cán cân thanh toán
quốc tế của một nước kéo dài thì khó có nguồn dự trữ ngoại hối lớn để thực hiện chính
sách này.
Trong tình hình như trên, các nước tư bản chủ nghĩa phải dựa vào vốn dự trữ
ngoại hối của nhau để cứu nguy đồng tiền của một nước nào đó. Vì vậy, 14 nước tư
bản chủ nghĩa phát triển và Mỹ đã ký hiệp định “SWAP” để hỗ trợ lẫn nhau giữa các
Ngân hàng Trung ương nhằm tác động đến quan hệ cung cầu ngoại hối của nước sử
dụng tín dụng “SWAP”, do đó, ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của nước đó.
Mô hình minh họa chính sách hối đoái:
Tỷ giá tăng
Tung ngoại tệ, mua nội tệ
Cung ngoại tệ tăng, cung nội tệ giảm
Tỷ giá giảm
Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái là một hình thức biến tướng của chính sách hối
đoái, mục đích của nó là nhằm tạo ra một cách chủ động một lượng dự trữ ngoại hối để
ứng phó với sự biến động của tỷ giá hối đoái, thông qua chính sách hoạt động công
khai trên thị trường.
Theo số liệu của Ngân hàng dự trữ liên bang New York, các nước tư bản chủ
nghĩa đã chi một khoản tiền khá lớn trích ra trong quỹ của mình khoảng 300 tỷ đô la
Mỹ từ đầu năm 1973, trong đó, chỉ riêng từ tháng 08/1977 đến tháng 02/1978 đã chi ra
60 tỷ đô la Mỹ để duy trì tỷ giá hối đoái của họ. Riêng tháng 03/1978, quỹ của ngân
hàng dự trữ liên bang và khoản tín dụng “SWAP” đã đạt tới 22,6 tỷ đô la Mỹ để phục
vụ mục đích này.
Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng tác dụng của quỹ bình ổn hối đoái rất có hạn vì một
khi đã bị khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng ngoại hối, lượng dự trữ theo quỹ đó
cũng giảm đi và không đủ sức điều tiết tỷ giá. Quỹ này chỉ có tác dụng khi khủng
hoảng ngoại hối ít nghiêm trọng và có nguồn tín dụng quốc tế hỗ trợ, ví dụ như tín
dụng SWAP.

2.1.3. Phá giá tiền tệ
Phá giá tiền tệ là sự đánh tụt sức mua danh nghĩa của tiền tệ thấp hơn sức mua
thực tế của nó. Trong thời kỳ tiền giấy được đổi ra vàng ( trước những năm 1970)
thông qua hàm lượng vàng thực tế một cách tự do, thì sức mua của tiền giấy phụ thuộc
vào hàm lượng vàng của tiền giấy. Do đó, phá giá tiền tệ ở thời điểm này được hiểu là
sự tuyên bố giảm hàm lượng vàng của tiền tệ xuống. Trong thời kỳ tiền giấy không còn
được đổi ra tiền vàng ( từ 12/1970 đến nay) dưới bất kỳ hình thức nào, cơ chế tỷ giá
hối đoái cố định được thay thế bằng cơ chế tỷ giá thả nổi tự do. Vì hiện nay trên thế
giới không còn tồn tại một đồng tiền tệ quốc tế thống nhất nào nên khái niệm “phá giá
tiền tệ” có nhiều cách hiểu khác nhau.
Mục tiêu của phá giá tiền tệ là làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa và
từ đó cải thiện cán cân thanh toán vãng lai. Khi tỷ giá tăng (phá giá), hàng xuẩt khẩu
trở nên rẻ hơn một cách tương đối khi tính bằng ngoại tệ, do đó nâng cao được sức
cạnh tranh về giá, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu. Trong khi đó, hàng nhập khẩu từ
nước ngoài lại trở nên đắt hơn khi quy ra đồng nội tệ, điều này giúp hạn chế khối lượng
hàng nhập khẩu vào trong nước.
Trong ngắn hạn, khi giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc thì ngay lập tức
việc phá giá tiền tệ sẽ làm cho tỷ giá hối đoái thực tế (tỷ giá hối đoái có tính đến lạm
phát và sức mua của một cặp tiền tệ phản ảnh giá cả của hàng hóa tương quan) thay đổi
theo, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng vì
hàng xuất khẩu rẻ đi một cách tương đối trên thị trường quốc tế còn hàng nhập khẩu
đắt lên tương đối tại thị trường nội địa. Tuy vậy có những yếu tố làm cho xu hướng này
không phát huy tức thì: các hợp đồng đã thoả thuận trên cơ sở tỷ giá cũ, người mua cần
có thời gian để điều chỉnh hành vi trước mức giá mới và quan trọng hơn là việc dồn các
nguồn lực vào và tổ chức sản xuất không thể tiến hành nhanh chóng được. Như vậy
trong ngắn hạn thì số lượng hàng xuất khẩu không tăng mạnh và số lượng hàng nhập
khẩu không giảm mạnh.
Trong trung hạn, việc phá giá làm tăng cầu về xuất khẩu ròng và tổng cung sẽ
điều chỉnh như sau:Nếu nền kinh tế đang ở dưới mức sản lượng tiềm năng thì các
nguồn lực nhàn rỗi sẽ được huy động và làm tăng tổng cung. Nếu nền kinh tế đã ở mức

sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực không thể huy động thêm nhiều và do đó tổng
cung cũng chỉ tăng lên rất ít dẫn đến việc tăng tổng cầu kéo theo giá cả, tiền lương tăng
theo và triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của việc phá giá. Vì thế trong trường hợp này, muốn
duy trì lợi thế cạnh tranh và đạt mục tiêu tăng xuất ròng thì chính phủ phải sử dụng
chính sách tài chính thắt chặt (tăng thuế hoặc giảm mua hàng của chính phủ) để tổng
cầu không tăng nhằm ngăn chặn sự tăng lên của giá cả trong nước.
Trong dài hạn, các yếu tố từ phía cung sẽ tạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu
trở nên đắt tương đối và các doanh nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có chi phí sản
xuất tăng lên dẫn đến phải tăng giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá cao
hơn sẽ yêu cầu tăng lương và gây áp lực làm cho tiền lương tăng. Cuối cùng việc tăng
giá cả và tiền lương trong nước vẫn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh do phá giá. Các nghiên
cứu thực nghiệm cho thấy lợi thế cạnh tranh do phá giá bị triệt tiêu trong vòng từ 4 đến
5 năm.
Vậy tại sao chính phủ phá giá tiền tệ? Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền
tệ để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so
với cơ chế để nền kinh tế tự điều chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh
kém nên cầu xuất khẩu ròng giảm dẫn đến tổng cầu giảm) đi kèm với mức lạm phát
thấp kéo dài cho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm
xuống đến mức có khả năng cạnh tranh). Chính sách phá giá tiền tệ thường được sử
dụng khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại .Trong trường hợp
cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ để mua nội tệ vào nhằm
duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệt thì không còn cách nào khác,
chính phủ phải phá giá tiền tệ.
2.1.4. Nâng giá tiền tệ
Nâng giá tiền tệ là việc nâng sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ, cao
hơn sức mua thực tế của nó. Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đối với ngoại thương của
một nước hoàn toàn ngược lại với phá giá tiền tệ. Ngày nay, việc nâng giá tiền tệ
thường do các nguyên nhân sau:
− Do áp lực từ các nước khác muốn tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá của họ
vào quốc gia có cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế dư thừa.Ví

dụ như sự kiện Mỹ và EU tìm cách buộc Trung Quốc nới lỏng cơ chế quản lý tỷ
giá nhằm tăng giá đồng NDT vào tháng 6 năm 2010 USD/NDT=6.97 so với
năm 2006 USD/NDT = 7.69 và so với USD/NDT=8.27 năm 1994. Nhờ đó,
hàng hóa của Mỹ và EU đã tăng được khả năng cạnh tranh đối với hàng hóa
Trung Quốc.
− Những nền kinh tế phát triển quá “nóng” muốn làm “lạnh” nền kinh tế, thúc đẩy
đầu từ ra nước ngoài khi đồng tiền nội tệ đã có giá hơn. Điển hình là ví dụ của
Nhật Bản khi nâng giá đồng yên Nhật, USD/JPY = 102 so với USD/JPY = 360
năm 1971 đã tạo điều kiện để Nhật Bản chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài nhằm
xây dựng một nước Nhật trong lòng các nước khác.
− Tránh những đồng tiền mất giá “chạy trốn” vào nước mình.Những nước có nền
kinh tế phát triển quá “nóng” muốn làm “lạnh” nền kinh tế để tránh khủng
hoảng về cơ cấu thì sẽ nâng giá về tiền tệ để giảm xuất khẩu hàng hoá, giảm đầu
tư vào trong nước mình.
− Phục vụ cho việc chuyển vốn đầu tư ra bên ngoài xây dựng một nền kinh tế của
mình “trong lòng” các nước khác nhằm giữ vững thị trường bên ngoài, vấn đề
sống còn của nền kinh tế mỗi quốc gia.
Nâng giá tiền tệ trong những điều kiện hiện nay thường xảy ra dưới áp lực của
nước khác mà các nước này mong muốn tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của mình
vào nước có cán cân thanh toán và cán cân thương mại dư thừa.
2.1.5. Những biện pháp khác
Ngoài bốn chính sách kể trên, nhà nước còn áp dụng một số biện pháp khác
nhằm tác động trực tiếp lên cung cầu ngoại hối trên thị trường.
Một số biện pháp tác động đến cầu ngoại hối :
− Tăng lãi suất vay ngoại tệ nhập khẩu nhằm giảm nhu cầu vay ngoại tệ, do đó giảm nhập
siêu, góp phần cải thiện cán cân thanh toán vãng lai.
− Tăng thuế nhập khẩu mặt hàng tiêu dùng chưa cần thiết cho sự phát triển nền kinh tế
hoặc những mặt hàng trong nước có thể lắp ráp.
− Áp dụng cơ chế đa tỷ giá để kiểm soát và hạn chế dòng vốn ngoại tệ đổ ra nước ngoài.
− Chống nạn “đô la hóa” bằng cách cấm niêm yết, tính toán và thanh toán bằng USD và

thực hiện chuyển đổi tự do USD tại các Ngân hàng.
Một số biện pháp tác động đến cung ngoại hối :
− Thực hiện chế độ giảm hoặc miễn thuế đối với toàn bộ hoặc những mặt hàng xuất khẩu
chủ lực hoặc đối với những hợp đồng có giá trị từ một định mức cụ thể trở lên.
− Áp dụng lãi suất cho vay xuất khẩu thấp để khuyến khích xuất khẩu hàng hóa và dịch
vụ ra nước ngoài.
− Áp dụng cơ chế đa tỷ giá để khuyến khích nguồn thu ngoại tệ vào trong nước.
− Thực hiện chính sách thưởng xuất khẩu thưởng đầu tư nước ngoài.
2.2. KINH NGHIỆM ĐIỀU CHỈNH TGHĐ CỦA TRUNG QUỐC
2.2.1. Thời kỳ cơ chế tỷ giá cố định và đa tỷ giá trước năm 1979
2.2.1.1. Hoàn cảnh:
Trước năm 1979, Trung Quốc vẫn còn là một nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung,mang tính bao cấp, Chính phủ thống nhất và tập trung quản lý các hoạt động
ngoại hối, rất ít giao thương với bên ngoài. Trong khoảng thời gian này, Trung quốc
thực hiện cơ chế tỷ giá cố định. Ngân hàng nhân dân Trung Quốc là cơ quan duy nhất
công bố tỷ giá mua bán ngoại tệ của cả nền kinh tế quốc gia này chỉ áp dụng một tỉ giá.
Tuy nhiên, việc định giá quá cao so với giá trị thực( 1,5NDT đổi 1USD) đã dẫn đến
những yếu kém trong xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái chính thức trong khoảng thời gian này
không đóng vai trò quan trọng trong thương mại với nước ngoài của Trung Quốc. Vai
trò của tỷ giá chỉ bắt đầu thay đổi khi Trung Quốc bắt đầu cải cách kinh tế, đặc biệt
trong các chính sách về tỷ giá hối đoái.
2.2.1.2. Cơ chế tỷ giá cố định và đa tỷ giá
Cơ chế tỷ giá cố định và đa tỷ giá ở Trung Quốc được thực hiện dưa trên việc tỷ
giá được ấn định khác nhau tùy theo từng quan hệ kinh tế đối ngoại và thỏa thuận trong
quan hệ hai bên hay nhiều bên có tính chất nội bộ hệ thống, xoay quanh giá trị của
đồng Ruble được ấn định ngang bằng với giá trị của đồng đô la Mỹ. Trên thực tế, giao
dịch ngoại thương giữa các nước XHCN trong thời gian này là trao đổi thương mại
trực tiếp ( hàng đối lưu) và tỷ giá hối đoái ấn định chỉ được sử dụng vào thanh toán số
dư cuối kì các hiệp định thương mại hoặc cuối kì kế toán.
2.2.1.3. Những tác động của cơ chế này.

Thực chất của cơ chế tỷ giá cố định và đa tỷ giá trong giai đoạn này ở các nước
XHCN nói chung và ở Trung Quốc nói riêng đã xoá nhoà những tín hiệu của thị trường
- động lực kinh doanh đối với các đơn vị kinh tế. Các yếu tố thị trường chỉ tồn tại có
tính chất hình thức hoặc không tồn tại chứ không phải là công cụ đắc lực của nền kinh
tế thị trường, không có tác dụng là những đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các
đơn vị kinh tế nói chung, các đơn vị và các tổ chức tham gia xuất nhập khẩu nói riêng
trở thành những đơn vị thụ động thực thi các kế hoạch tập trung, chủ quan của Nhà
nước bao quát tất cả mọi khâu của quá trình sản xuất, từ việc cung cấp các yếu tố đầu
vào, đến việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, bởi ai và bán cho ai, bao nhiêu, ở
đâu… Cơ chế nay đã thực sự tước đoạt quyền chủ động trong kinh tế, không gắn kết
lợi ích của các chủ thể kinh tế với hoạt động kinh doanh của chính họ. Do đó, làm cho
các đơn vị kinh tế không quan tâm đến hiệu quả của quá trình sản xuất - kinh doanh,
hoàn toàn ỷ lại vào sự sắp đặt của Nhà nước. Chính cơ chế này đã góp phần đưa nền
kinh tế của các nước XHCN, trong đó có Trung Quốc rơi vào thời kỳ suy thoái và
khủng hoảng kinh tế sâu sắc (những năm 70 - 80).
2.2.2. Thời kỳ chuyển từ cơ chế tỷ giá cố định sang cơ chế thả nổi có điều
tiết
(1979-1993)
2.2.2.1. Hoàn cảnh
Trước hết, Trung Quốc để cho tỉ giá ấn định trước đây linh động theo sát với
những diễn biến của tỉ giá trên thị trường. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu tố
thị trường vào trong cơ chế xác định tỉ giá đối đoái với hầu hết các nước tiến hành
chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường
có sự điều tiết và định hướng của Nhà nước.
Trên thực tế, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh liên tục tỷ giá hối đoái danh
nghĩa biến động theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ cho phù hợp với sức mua của nó
trong suốt thời kỳ đầu của quá trình cải cách cho đến đầu những năm 90, vì đồng nhân
dân tệ đã bị đánh giá cao trong suốt thời gian trước đây (bảng 2.1).
Bảng 2.1: Diễn biến của tỉ giá hối đoái giữa đồng nhân dân tệ và đồng đô la thời kỳ
1978-1990.

(Nguồn : IMF)
Chỉ tiêu 1978 1980 1982 1984 1986 1988 1990
Tỷ giá cuối năm
USD/NDT
1.577 1.530 1.922 2.975 3.722 3.722 5.222
Tỷ giá trung bình
năm(USD/NDT)
1.683 1.498 1.892 2.320 3.453 3.722 4.783
2.2.2.2. Cơ chế tỷ giá theo cơ chế thả nổi có điều tiết
Duy trì chế độ 2 tỷ giá: Bên cạnh tỷ giá chính thức do ngân hàng nhân dân Trung
Quốc công bố, sử dụng để hạch toán, tính thuế xuất nhập khẩu, Quốc còn cho phép một
loại tỷ giá thứ hai tồn tại, sử dụng để mua bán, giao dịch trên thị trường ngoại tệ. Do tỷ
giá thị trường biến động mạnh tạo ra khoảng cách giữa hai loại tỷ giá. Đến năm 1993,
thị trường giao dịch hối đoái giữa các doanh nghiệp phát triển, làm cho chênh lệch giữa
hai loại tỷ giá ngày càng tăng. Trong thời gian này các doanh nghiệp được phép giữ lại
một phần ngoại tệ để sử dụng. Kết quả là ngoại tệ tập trung vào Nhà nước ít hơn so với
khu vực dân cư nắm giữ, Trung Quốc gặp khó khăn trong việc cân đối ngoại tệ
2.2.2.3. Đánh giá hiệu quả đạt được
Việc Trung Quốc liên tục tiến hành điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa theo
hướng giảm giá trị đồng NDT bị đánh giá cao trước đây cho phù hợp với sức mua thực
tế của nó trên thị trường trong suốt thời gian đầu của quá trình cải cách cho đến đầu
những năm 90 đã giúp Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân
thương mại, cán cân thanh toán và đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế. Nếu
như năm 1978, cán cân thương mại bị thâm hụt 15.002 triệu USD thì nhờ thương mại
phát triển đến năm 1990 cán cân thương mại đã đạt được mức thặng dư 8.646 triệu
USD. Sau những điều chỉnh thử nghiệm thành công ban đầu, chính phủ Trung Quốc
quyết định tiếp tục điều chỉnh chính sách tỷ giá theo hướng đã vạch ra.
Chính thức công bố áp dụng một tỷ giá thả nổi vào đầu những năm 90 (1991-
1993), tỷ giá trao đổi của đồng NDT thường xuyên dao động, đồng NDT hầu như hạ
giá. Nhờ tăng tỷ lệ ngoại hối phân bổ thông qua tương tác giữa cung và cầu trên thị

trường được tính đến nhiều hơn trong các quyết định liên quan đến tỷ giá. Sau khi tỷ
giá được điều chỉnh tương đối sát với biến đổi của thị trường và sức mua thực tế của
đồng NDT, tỷ giá danh nghĩa giữa đồng NDT với USD tương đối ổn định ở mức 5,2-
5,8 NDT/USD. Tuy nhiên mức điều chỉnh này được dựa vào mức giá giữa Trung Quốc
và Mỹ đã làm cho lạm phát cao ở Trung Quốc tác động xấu tới mục tiêu tăng trưởng và
thúc đẩy xuất khẩu của nền kinh tế. Như từ mức thặng dư thương mại là 9.165 triệu
USD với tốc độ lạm phát 3,06% năm 1990 thì đến năm 1993 cán cân thương mại bị
thâm hụt 10.654 triệu USD và tốc độ lạm phát là 14,58%
Có thể nói đây là những bước đầu tiên của quá trình chuyển đổi tỷ giá hối đoái và
cơ chế tỷ giá ở Trung Quốc, là giai đoạn để cho tỷ giá ấn định trước đây được thả nổi
theo sát với những diễn biến của thị trường.
2.2.3. Thời kỳ phá giá mạnh đồng NDT và thống nhất 2 tỷ giá (1994-1997)
2.2.3.1. Hoàn cảnh
Từ năm 1979 đến năm 1993, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh mạnh tỷ giá hối
đoái 7 lần. Xu hướng điều chỉnh là phá giá mạnh đồng Nhân Dân Tệ, đến năm 1993,
mức điều chỉnh tỷ giá so với năm 1985 đã là gần 70%. Mặc dù phá giá liên tục và với
biên độ lớn như vậy, tổn thất xuất khẩu do tỷ giá gây ra vẫn rất lớn. Lý do là vì tỷ giá
NDT/USD có mặt bằng xuất phát “phá giá” quá thấp nên dù phá giá mạnh như vậy,
mức tỷ giá vẫn chưa đạt đến điểm “hòa vốn” cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Để cải
thiện tình hình, năm 1994, Chính phủ Trung Quốc quyết định phá giá mạnh đồng Nhân
dân tệ.
2.2.3.2. Chính sách phá giá đồng Nhân dân tệ
Ngày 1/1/1994, đồng Nhân dân tệ chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh từ 5.8
NDT/USD xuống 8.7 NDT/USD, tức giảm 2.9 NDT/USD, tương ứng với tỷ lệ phá giá
là 50%. Kết hợp với tỷ lệ đồng Nhân dân tệ bị đánh giá thấp 0.14% trong giai đoạn
1990-1993 thì tỷ lệ phá giá thực tế là 50.14%. Việc cải cách chế độ tỷ giá (thực chất là
thống nhất các loại tỷ giá đi liền với việc phá giá đồng tiền) đã có tác động rất mạnh và
hầu như tức thời đến động thái của nền kinh tế Trung Quốc, đặc biệt là đối với hoạt
động ngoại thương và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đồng thời với việc phá giá mạnh đồng nhân dân tệ, Trung Quốc đã hủy bỏ chế độ

tỷ giá cũ thống nhất hai tỷ giá thành một tỷ giá chung xoay quanh mức tỷ giá vừa bị
đánh tụt ở trên. Để giảm bớt tác động của sự thay đổi chính sách này lên nền kinh tế,
chính phủ Trung Quốc đã ban hành một loạt những biện pháp hỗ trợ và quản lý ngoại
hối như : thực hiện chế độ ngân hàng kết nối, xóa bỏ găm giữ tiền tệ và tăng giá ngoại
hối của các công ty, xây dựng thị trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng, cải tiến cơ
chế hình thành tỷ giá hối đoái, xóa bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh về thu chi ngoại
hối,… kết hợp cùng với sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc
đối với các hoạt động ngoại hối của Ngân hàng thương mại bằng cách quy định Ngân
hàng nào được phép chuyển đổi và chuyển đổi với số lượng bao nhiêu.
Đối với công ty nước ngoài, chính phủ Trung Quốc yêu cầu phải lập bảng cân đối
ngoại tệ hàng năm. Doanh nghiệp liên doanh nước ngoài thì phải có giấy phép chuyển
đổi ngoại tệ sang Nhân dân tệ. Còn đối với doanh nghiệp nhà nước, họ được yêu cầu
phải nộp 100% ngoại tệ thu được thay vì 50% như trước đây. Nhưng mặt khác, Trung
Quốc cũng cho các công ty xuất khẩu tăng tỷ lệ giữ ngoại tệ mạnh, các công ty nước
ngoài được từng bước giao dịch, mua bán ngoại tệ mạnh, tạo điều kiện đề đồng nhân
dân tệ xâm nhập mạnh hơn vào thị trường tiền tệ thế giới.
2.2.3.3. Đánh giá hiệu quả đạt được
So với giai đoạn trước thì giai đoạn này, các chính sách tỷ giá hối đoái của Trung
Quốc đã linh động và mềm dẻo hơn rất nhiều. Ngày 1.1.1996, đồng Nhân dân tệ của
Trung Quốc đã chính thức được Quỹ tiền tệ quốc tế IMF công nhận là đồng tiền
chuyển đổi tự do ở các tài khoản vãng lai (các tài khoản có liên quan đến thanh toán về
mậu dịch hàng hóa – dịch vụ cũng như từ những công ty nước ngoài chuyển về nước)
Kết quả điều chỉnh và phá giá mạnh đồng Nhân dân tệ trong thời kỳ này của
Trung Quốc đã giúp nước này không chỉ thu được lợi ích trong ngắn hạn, nhanh chóng
đẩy mảnh xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường quan trọng trên thế giới mà còn tạo điều
kiện cho Trung Quốc duy trì ổn định tỷ giá trong thời gian dài, giảm thiểu rủi ro hối
đoái và tạo môi trường thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Bảng 2.2 : Bảng số liệu về FDI, lạm phát,giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của
Trung Quốc trong giai đoạn 1994-1997
Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997

FDI (tỷ USD) 33.79 35.84 40.18 44.23
Lạm phát (%) 24.2 16.9 8.3 8.3
Xuất khẩu (tỷ USD) 121 148.8 151.2 182.8
Nhập khẩu (tỷ USD) 115.1 129.1 138.9 142.2
(Nguồn : IMF International Statistics 5/2001)
Nhìn vào bảng số liệu chúng ta có thể thấy kết quả của chính sách phá giá mạnh
đồng Nhân dân tệ kết hợp cùng những biện pháp hỗ trợ cực kỳ linh hoạt của chính phủ
Trung Quốc trong giai đoạn này. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tăng mạnh và ổn
định trong 4 năm liền từ mức 33.79 tỷ USD lên 44.23 tỷ USD. Lạm phát điều đáng lo
nhất đối với Trung Quốc khi đã tăng lên mức kỷ lục 24.2 % sau đó giảm xuống nhưng
vẫn còn ở mức rất cao là 16.9% (năm 1995) và duy trì ở mức 8.3% 2 năm sau đó. Giá
trị xuất khẩu tăng mạnh, cán cân thương mại thăng dư trong 4 năm liên tiếp và đỉnh
điểm là năm 1997 thặng dư 40.6 tỷ USD. Đây là những tín hiệu cực kỳ tích cực cho
thấy chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý của Trung Quốc đã phát huy hiệu quả.
Chính sách tỷ giá này của Trung Quốc không đơn thuần là nhằm điều chỉnh để
đồng NDT phản ánh đúng sức mua của nó, mà đây rõ ràng là một chủ ý trong chính
sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc đã đánh tụt rất mạnh đồng nội tệ nhằm thúc đẩy
cao độ xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài và tạo thặng dư trong cán cân thương mại.
2.2.4. Thời kỳ duy trì đồng nhân dân tệ yếu nhằm giảm cú sốc từ bên ngoài
( 1998-2005)
2.2.4.1. Hoàn cảnh
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, môi trường
kinh tế quốc tế đã có nhiều biến động đáng kể. Các nước bị khủng hoảng rơi vào tình
trạng suy thoái, mức sống người dân bị sụt giảm đáng kể. Cuộc khủng hoảng này đã
làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu chậm lại. Trung Quốc
không phải là một ngoại lệ. Xuất khẩu và đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Vấn đề sản
xuất dư thừa ngày càng trở nên trầm trọng trong các ngành công nghiệp chế biến. Giá
trị thị trường liên tục giảm xuống và dần dần xuất hiện những dấu hiệu của giảm
phát.Trước tình hình đó chính phủ Trung Quốc đã có chủ trương không phá giá đồng
NDT, tỷ giá vẫn giữ ở mức 8,3NDT/USD, với biên độ dao động nhỏ. Nhờ vậy mà tác

động của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đối với nền kinh tế Trung Quốc ít nghiêm
trọng hơn.
2.2.4.2. Chính sách duy trì đồng Nhân dân tệ yếu
Để bảo vệ đồng NDT trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực,
năm 1998, Trung Quốc đã quay trở lại kiểm soát chặt chẽ thị trường ngoại hối, giảm
nguy cơ đầu cơ và găm giữ ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại tệ. Thu nhâp ngoai tệ của các
doanh nghiệp bắt buôc phải bán cho các ngân hàng đã đươc chỉ định trước, việc bán
ngoại tệ cũng phải có hóa đơn theo quy định mới được rút, thậm chí các nhà đầu tư
nước ngoài cũng phải bán ngoại tệ cho các ngân hàng Trung Quốc để đổi lấy một
lượng NDT nhất định để sử dụng trong lãnh thổ nươc này. Song song với việc quản lý
chặt chẽ thị trường ngoại hối, để giảm bớt sức ép đối với xuất khẩu và sự tăng trưởng
kinh tế, Trung Quốc còn phối hợp với các chính sách kinh tế như nới lỏng chính sách
tiền tệ và kích cầu. Trong năm này, Trung Quốc đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất cho vay và
tiền gửi đồng NDT, lãi suất chiết khấu cũng giảm 1,91%, đồng thời với việc giảm cả
lãi suất với các loại tiền gửi bằng ngoại tệ, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, kích thích
tiêu dùng ở các tầng lớp dân cư…
Bảng 2.3 : Tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ trong năm 1998 (Đơn vị:%)
Chỉ tiêu 20/03 01/07 06/12
Lãi suất tiền cho vay NDT giảm 1.6 0.49 0.27
Lãi suất tiền gửi NDT giảm 0.6 1.12 0.55
Lãi suất tiền gửi USD giảm 4.875 4.250 3.755
(Nguồn : IMF International Statistics)
Ngày 11/12/2001, Trung Quốc trở chính thức trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Với những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế sau khi
gia nhập WTO, Trung Quốc vẫn thực hiện chơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý. Tuy nhiên
vấn đề quan trọng là chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc cần được thực thi sao
cho đảm bảo hài hòa được với mục tiêu hạ nhiệt nền kinh tế của quốc gia khổng lồ
trong nền kinh tế này ở giai đoạn này. Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc sau
khi gia nhập WTO gia tăng một cách khó kiểm soát, khoảng 8-9%/ năm. Trước tình
hình này, ngày 28/10/2004, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã tăng tỷ lệ lãi suất

huy động tiền gửi bằng đồng NDT kỳ hạn một năm từ 1,98% đến 2,25% và tăng lãi
suất cho vay từ 5,31% đến 5,58%. Biện pháp này phù hợp với xu thế tăng lãi suất trên
phạm vi toàn cầu trong năm 2004, đồng thời cũng là dấu hiệu đầu tiên cho thấy nước
này đang bắt đầu cải cách chính sách tiền tệ. Lần tăng lãi suất đầu tiên kể từ tháng 7
năm 1995 này của ngân hàng trung ương Trung Quốc nhằm mục đích duy trì những kết
quả điều tiết vĩ mô mà họ đạt được trong giai đoạn vừa qua, đồng thời góp phần hạ
nhiệt, tạo nên sự phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh tế. Các luồng vốn
khổng lồ chảy vào Trung Quốc đã gây áp lực lên đồng NDT. Để kiểm soát đồng NDT,
ngân hàng Trung ương đã phải mua vào ngoại tệ, tăng khả năng thanh khoản cho hệ
thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã tăng hơn 40% và trở
thành nước có dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai thế giới, sau Nhật Bản. Trên cơ sở xây dựng
thị trường ngoại hối thống nhất, Chính phủ Trung Quốc đã từng bước nới lỏng biên độ
giao dịch của đồng NDT so với USD, từ 3% tiến tới 4-5%.
Những biện pháp trên của chính phủ không những đã giúp hạn chế sự gia tăng
của đồng NDT, mà còn khiến đồng NDT duy trì ở mức giá thấp trong thời gian dài,
khuyến khích xuất khẩu Trung Quốc. Tuy nhiên giữ vững mức tỷ giá hiện hành (8,26 -
8,28 NDT/USD) cũng không phải điều dễ thực hiện. Theo đánh giá, có những thời
điểm ngân hàng trung ương Trung Quốc phải bỏ NDT ra để mua 600 USD mỗi ngày.
Biện pháp này không thể duy trì liên tục kéo dài. Do đó, Trung Quốc đã thực hiện một
số biện pháp xoa dịu sức ép đối với đồng NDT, cụ thể là:
- Thí điểm từ 1/11/2003, cho phép 14 tỉnh, khu vực đầu tư ra nước ngoài nhiều hơn, mức
trần tăng từ 1 triệu USD lên 3 triệu USD
- Thực hiện một số biện pháp phối hợp như: giảm bớt mức độ khuyến khích xuất khẩu,
xiết chặt hơn những quy định về việc cho các nhà đầu tư bất động sản vay tiền và hạn
chế hạn ngạch đầu tư của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường trái phiếu cũng như
các thị trường chứng khoán Trung Quốc.
Tháng 10 năm 2004, trong cuộc họp cấp cao của nhóm G7 tại Washington,
Trung Quốc xác nhận sẽ tiến tới linh hoạt tỷ giá đồng NDT. Nhờ những nỗ lực của
chính phủ, đồng NDT đã đứng vững trong thời gian này và cả một thời gian dài về sau.
Tính đến năm 2005, tỷ giá ngoại tệ Trung Quốc được ấn định với đô la Mỹ tại mức

8,28 NDT đổi lấy 1 USD với một biên độ khá rộng +/- 0,3% mỗi ngày.
2.2.4.3. Đánh giá hiệu quả
Ưu điểm của những bước đi khác này của Trung Quốc chính là mặc dù tỷ giá
song phương NDT/USD giảm nhưng tỷ giá đa phương danh nghĩa của NDT lại có xu
hướng tăng dần, giúp Trung Quốc duy trì được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế
so với các quốc gia bạn hàng. Do đó, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và
thặng dư cán cân thương mại.
Tuy nhiên, những điều chỉnh này tạo ra lợi thế bất bình đẳng cho hàng hóa Trung
Quốc trên thị trường quốc tế, làm suy yếu sức cạnh tranh của các nhà xuất khẩu khác,
Trung Quốc sẽ không tránh khỏi những áp lực nặng nề từ cáo buộc của Mỹ và các
nước phương Tây.
2.2.5. Chính sách tỷ giá thả nổi của Trung Quốc giai đoạn từ 2005 đến nay
2.2.5.1. Hoàn cảnh kinh tế
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu đươc bắt nguồn từ sự
sụp đổ của thị trường bất động sản từ Hoa Kỳ do hoạt động cho vay dưới chuẩn gây ra
giữa năm 2007, sau đó lan rộng ra toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng này có ảnh hưởng
lớn tới nền kinh tế Trung Quốc và đòi hỏi nước này có những phản ứng nhất định. Với
chính sách điều chỉnh tỷ giá đặc thù, Trung Quốc có những thành công nhất định trong
đối phó với khủng hoảng và khẳng định được sự phát triển mang tính đột phá trong
việc đưa Trung Quốc trở thành nước có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu thế giới (vượt
qua Đức).
2.2.5.2. Chính sách tỷ giá thả nổi
Chính sách tỉ giá hối đoái của Trung Quốc được thực hiệm có tính nhất
quán gắn trực tiếp với lợi thế thương mại về hàng giá rẻ và khối lượng lớn của
Trung Quốc. Có thể nói, chính sách tỉ giá hối đoái này đã hỗ trợ hữu hiệu cho
mục tiêu thức đẩy xuất khẩu của Trung Quốc. Các vấn đề được thực thi trong
chính sách tỷ giá hối đoái của Trung quốc có nhiều khía cạnh khác nhau.
Thứ nhất, Trung quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định giá
thấp thực tế đồng nhân dân tệ so với các ngoại tệ đặc việt khác đặc biệt với đồng đô la
mỹ để tạo lợi thế thương mại ngắn hạn.

×