Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng tới hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.75 KB, 26 trang )

Tiểu Luận :
Ảnh Hưởng Của Thông Tin Bất Cân Xứng Tới
Hoạt Động Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
DANH SÁCH NHÓM 6:
1. PHẠM THỊ THANH THÚY
2. TRẦN THỊ QUỲNH NHƯ
3. NGUYỄN THỊ QUỲNH NHƯ
4. NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
5. CAO THỊ HUỆ
6. PHAN THỊ HỒNG NHI
1
MỤC LỤC:
I. Thông tin bất cân xứng 3
1. Giới thiệu sơ lược về thông tin bất cân xứng 3
2. Các khái niệm về thông tin bất cân xứng 5
3. Một số ví dụ về thông tin bất cân xứng 5
4. Hệ quả của thông tin bất cân xứng 6
a. Sự lựa chọn bất lợi 6
b. Rủi ro đạo đức 8
5. Giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng 9
a. Giải pháp lý thuyết 9
b. Giải pháp thực tế 10
II. Tín dụng Ngân hàng thương mại 11
1. Khái niệm tín dụng 11
2. Tín dụng Ngân hàng 12
3. Phân loại tín dụng Ngân hàng 14
4. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 16
III. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng tới hoạt động tín dụng
của ngân hàng thương mại 16
1. Tình hình hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại 16
2. Tại sao các Ngân hàng thương mại phải xử lý vấn đề


thông tin bất cân xứng? 17
a. Nợ xấu là gì? 17
b. Tình hình nợ xấu 18
c. Nguyên nhân của nợ xấu 19
d. Hậu quả nợ xấu 20
e. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
trong tình trạng thông tin bất cân xứng 21
3. Giải pháp hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng 22
a. Về phía chính phủ 22
b. Về phía Ngân hàng 23
c. Về phía khách hàng 25
2
I. THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG (ASYMMETRIC INFORMATION)
1. Giới thiệu sơ lược lý thuyết về thông tin bất cân xứng:
Trong hơn hai thập kỷ qua, lý thuyết về các thị trường với thông tin không cân xứng
(asymetric information) đã và đang trở thành một lĩnh vực quan trọng và sống động trong
nghiên cứu kinh tế. Ngày nay, các mô hình với thông tin không hoàn hảo (imperfect
information) là những công cụ không thể thiếu của các nhà kinh tế. Mô hình này có phạm
vi ứng dụng rất rộng rãi, từ các thị trường nông nghiệp truyền thống ở các nước đang phát
triển đến các thị trường tài chính hiện đại ở các nền kinh tế phát triển. Nền tảng của lý
thuyết này được thiết lập vào những năm 1970 do công lao của ba nhà kinh tế: George
Akerlof, Michael Spence và Joseph Stiglitz – những người được nhận giải Nobel về kinh
tế năm 2001 nhờ “những phân tích về các thị trường với thông tin cân xứng”.

George Akerlof , bảo vệ luận án Tiến sĩ tại Học viện Công nghệ Massachuset – MIT năm
1966, là giáo sư tại Học viện Thống kê Ấn Độ và Trường Kinh tế London. Từ 1980 là giáo sư kinh
tế danh dự của Đại học California tại Berkeley.
Michael Spence , đạt học vị Tiến sĩ ở Harvard năm 1972, là giáo sư tại Harvard và
Trường Kinh Doanh, Đại học Stanford và cũng là Chủ nhiệm khoa của cả hai trường đại học này.
Joseph Stiglitz , giành học vị Tiến sĩ tại MIT năm 1967, là giáo sư tại Yale, Princeton,

Oxford và Stanford, và Chuyên gia Kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới. Từ năm 2001, là giáo
sư Kinh tế học, Kinh doanh và các Vấn đề Quốc tế tại Đại học Columbia.
2001 - George A. Akerlof, A. Michael Spence, Joseph E. Stiglitz

Trong thực tế cuộc có nhiều vấn đề đặt ra cho các nhà kinh tế học như: tại sao lãi
suất thường có ở mức quá cao trên thị trường tín dụng địa phương ở các nước thuộc thế
giới thứ ba? Tại sao khi muốn mua những chiếc xe hơi đã sử dụng, mọi người lại thường
tìm đến các đại lý chứ không tìm đến người bán trực tiếp? Tại sao các chủ đất giàu có
không phải gánh chịu toàn bộ rủi ro canh tác trong hợp đồng với những người thuê đất
nghèo khó? Các câu hỏi này tuy có vẻ như là khác nhau nhưng về thực chất đều mô tả
những hiện tượng có cùng bản chất và đã đặt ra một thách thức cho lý thuyết kinh tế.
3
Những người đoạt giải Nobel kinh tế năm 2001 đã đưa ra một cách giải thích mang
tính tổng quát và mở rộng lý thuyết nhằm lý giải về sự tồn tại trên thực tế thông tin không
cân xứng, tức là tình huống một số người trên thị trường thường có nhiều thông tin tốt hơn
so với những người khác. Chẳng hạn, những người đi vay biết nhiều hơn về khả năng trả
nợ của mình so với những người cho vay; người bán biết nhiều hơn người mua về chất
lượng của chiếc xe mà anh ta định bán; những người mua hợp đồng bảo hiểm biết về rủi
ro tai nạn đối với mình nhiều hơn công ty bảo hiểm; và những người thuê đất biết nhiều
hơn chủ đất về hiệu quả công việc và các điều kiện canh tác của mình.
a. G.A. Akerlof (1970)
Trong quá trình nghiên cứu tình huống mua bán xe Ô tô trên thị trường, Akerlof cho
rằng người bán xe có tính chủ động hơn đối với người mua. Người bán có thể biết rõ đặc
tính của chiếc xe mình muốn bán và muốn bán với giá cao. Người mua thường là mua
được những chiếc xe xấu, việc lựa chọn xe để mua trong trường hợp này gọi là sự lựa chọn
bất lợi vì họ có thể trả giá cao hơn đối với xe xấu và người bán lại không thể bán được do
giá bán thấp hơn chất lượng xe tốt.
Một phương cách để giảm bớt thông tin bất cân xứng trên thị trường là thông qua
các tổ chức trung gian trên thị trường. Tổ chức trung gian này có thể giới thiệu rõ hơn
thông tin sản phẩm đến với người mua như bảo hành, nhãn mác, thông số kỹ thuật… chính

điều này đã làm cho các bên giao dịch cân bằng hơn về thông tin sản phẩm, khi đó giao
dịch sẽ dễ dàng thực hiện.
b. Michael Spence (1973): Phát tín hiệu
Tiếp tục phát triển lý thuyết của G.A. Akerlof, Spence đã nghiên cứu trên thị trường
Lao động.
M. Spence xem việc thuê lao động là một quyết định đầu tư không chắc chắn. Tính
không chắc chắn ở đây là việc thuê lao động mà người chủ không biết được khả năng đóng
góp, khả năng tạo ra năng suất của người lao động là bao nhiêu. Vì thế việc thuê lao động
có thể thuê được lao động có chất lượng hoặc không. Một trong những phương cách giúp
người chủ thuê được lao động có năng lực đó là ông chủ có thể xem qua chất lượng bằng
cấp, kinh nghiệm,… của người lao động. Đó được gọi là những tín hiệu được phát ra của
người lao động. Như vậy việc phát tín hiệu này đã làm giảm thông tin bất cân xứng giữa
những người lao động và ông chủ.
c. Joseph Stiglitz (1975): Cơ chế sàng lọc
Cơ chế sàng lọc của J. Stiglitz cũng là lý thuyết phát triển lý thuyết của Michael
Spence.
Theo Ông bất cứ hàng hóa nào cũng đều có những đặc tính khác nhau như chất
lượng khác nhau, mẫu mã khác nhau nên cần phải phân loại chúng. Đối với lao động cũng
có lao động có khả năng, tay nghề cao và lao động có khả năng, tay nghề thấp. Vì vậy
không thể trả lương theo một mức lương cân bằng. Để khuyến khích người có khả năng
cao, tạo ra năng suất lao động cao thì cần phải trả lương cao để khuyến khích họ. Đối với
người có khả năng thấp, việc cố gắng đạt được một mức năng suất sản xuất để nhận được
lương cao sẽ tốn chi phí rất lớn so với người có khả năng cao. Vì vậy việc phân nhóm lao
động để trả lương là việc làm cần thiết để khuyến khích những người có khả năng nâng cao
trình độ và mang lại hiệu quả cao cho xã hội.
Nhiều đóng góp của Joseph Stiglitz đã làm thay đổi cách nghĩ của các nhà kinh
tế học khác về hoạt động của các thị trường. Cùng với những đóng góp mang tính nền
4
tảng của George Akerlof và Micheal Spence, cả ba tác giả đã thiết lập nên tư tưởng
nòng cốt cho kinh tế học thông tin hiện đại.

2. Các khái niệm về thông tin bất cân xứng:
Tìm hiểu về thông tin không hoàn hảo ( imperfect information)
Thông tin không hoàn hảo là tình trạng một hay nhiều người tham gia thị trường
không có những thông tin họ cần để ra quyết định.
Thông tin không hoàn hảo bao gồm:
- Thông tin không đầy đủ.
- Thông tin không chính xác.
- Thông tin không thể thu thập được.
- Thông tin bị che dấu.
a. Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao
dịch có nhiều thông tin hơn một bên khác. Điển hình là
người bán biết nhiều về sản phẩm hơn đối với người mua
hoặc ngược lại. (Trang từ điển Wikipedia).
b. ‘Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên đối
tác nắm giữ thông tin còn bên khác thì không biết đích
thực mức độ thông tin ở mức nào đó.’ (Nguyễn Trọng
Hoài, 2006).
c. Thông tin không đối xứng, hay còn gọi là thông
tin bất cân xứng là việc các bên tham gia giao dịch cố tình
che đậy thông tin. Khi đó, giá cả không phải là giá cân
bằng của thị trường mà có thể quá thấp hoặc quá cao.
3. Một số ví dụ về thông tin bất cân xứng:
Tình trạng thông tin bất cân xứng có thể xảy ra ở một số lĩnh vực như: Ngân hàng,
thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường đồ cũ, thị trường nhà đất, thị trường bảo
hiểm, thị trường chứng khoán
a. Người buôn ngựa mang một con ngựa vừa già vừa xấu ra chợ. Bỏ một con lươn
còn sống vào trong cổ họng của nó. Con ngựa sẽ thể hiện sự tràn đầy sức sống Đó là
những thủ đoạn lừa gạt.
b Thị trường chứng khoán có những hiện tượng bất cân xứng thông tin như:
- Doanh nghiệp che giấu các thông tin bất lợi, thổi phồng thông tin có lợi

- Doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư:ưu tiên
cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tổ chức mà không công
bố rộng rãi.
- Doanh nghiệp sau khi phát hành cổ phiếu không chú trọng vào đầu tư sản xuất
kinh doanh mà chỉ tập trung vào việc “làm giá” trên thị trường chứng khoán;
- Có sự rò rỉ thông tin nội gián chưa hoặc không được phép công khai.
- Một số nhà đầu tư tạo cung cầu ảo trên thị trường dẫn đến phản ánh sai lệch giá trị
của doanh nghiệp.
- Một số kẻ xấu tung tin đồn thất thiệt cho doanh nghiệp.
5
- Các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch; các trung gian tài chính
cung cấp, xử lý thông tin không chính xác

4. Hệ quả của thông tin bất cân xứng:
Ba dạng thất bại của thị trường được nhắc đến là: Các ngoại ứng (Externalities),
hàng hóa công cộng (Public good), thông tin không đối xứng (Asymmetric Information).
Nghĩa là nó đem lại tổn thất vô ích hay phúc lợi xã hội không lớn nhất, khi đó, thị trường
chỉ có hàng xấu hoặc không tồn tại.
Thông tin bất cân xứng là một thất bại của thị trường vì nó gây ra: sự lựa chọn bất
lợi và tâm lý ỷ lại.
a. Sự lựa chọn bất lợi (sự lựa chọn ngược) - Adverse Selection - AS
a.1. Khái niệm:
- Lựa chọn bất lợi là hậu quả của thông tin bất cân xứng trước khi giao dịch xảy
ra.
- Lựa chọn bất lợi (lựa chọn ngược, lựa chọn đối nghịch, lựa chọn trái ý) là một tình
trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình trạng thông tin bất cân xứng, người lựa chọn
thứ tốt lại chọn phải thứ không tốt.
- ‘Lựa chọn bất lợi là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực
hiện giao dịch hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng’ (Nguyễn Trọng Hoài, 2006).
a.2 Khái quát:

Trong điều kiện thông tin đối xứng, các bên trong giao dịch nắm thông tin ngang
nhau và đầy đủ về thứ được giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm được thứ tốt hoặc thứ
tương xứng với cái giá mà họ phải bỏ ra.
Nhưng trong điều kiện thông tin bất cân xứng, nghĩa là một bên trong giao dịch có
nhiều thông tin về đối tượng giao dịch hơn bên kia, người có ưu thế về thông tin có thể
cung cấp những thông tin không trung thực về đối tượng được giao dịch cho bên kém ưu
thế thông tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành giao dịch và nhận
được thứ không như mình mong muốn.
a.3 Ví dụ:
- Trong ngành bảo hiểm:
Bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm chấp nhận mức trả bảo hiểm cao cho khách hàng ít
nguy cơ. Song họ lại có ít thông tin về thứ họ được đề nghị bảo hiểm hơn so với người
mua bảo hiểm.
Nếu người mua bảo hiểm-biết rõ về vấn đề cần bảo hiểm-cung cấp những thông tin
không trung thực, thì công ty bảo hiểm có thể sẽ có thể ký hợp đồng trả tiền cao cho đối
tượng bảo hiểm nhiều nguy cơ.
Ví dụ, người mua bảo hiểm nhân thọ có thể dấu thông tin về tình trạng sức khỏe tồi
(ung thư) của mình, cam đoan với công ty bảo hiểm rằng mình có sức khỏe tốt, dẫn tới
công ty bảo hiểm có thể đi ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho một người sắp chết.
Hậu quả là: khách hàng có mức độ rủi ro cao được lợi.
- Trong giao dịch bất động sản:
Bên bán là bên có ưu thế thông tin về một lô đất hay ngôi nhà (gặp những điều kiện
không tốt như: trong diện giải tỏa, hay ở nơi dễ ngập lụt, v.v…) còn bên mua có nhu cầu
6
mua đất nhưng không đủ khả năng tìm hiểu về các thông tin liên quan-là bên kém ưu thế
thông tin. Kết quả là bên mua gánh chịu bất lợi khi mua phải đất hay nhà không tốt.

- Trong thị trường lao động:
Người xin việc là người biết rõ năng lực của mình. Trong khi người sử dụng lao
động không biết được thực sự năng lực của người xin việc: họ có chất lượng cao hay thấp?

Do đó, người lao động trình độ thấp có thể cung cấp thông tin không chính xác về mình,
kết quả là họ được nhận làm việc với mức lương trung bình.
- Trong lĩnh vực ngân hàng:
Những người đi vay tiềm ẩn rủi ro cao lại là những người tích cực trong việc tìm
kiếm khoản vay. Như vậy những người có nhiều khả năng đem lại kết quả không mong
muốn lại là những người mong muốn trở thành một bên trong giao dịch. Ví dụ, những
người liều lĩnh hay có động cơ lừa đảo thường là những người hăm hở chấp nhận khoản
vay, bởi vì họ biết rõ rằng khả năng trả lại khoản vay là khó hoặc không xảy ra. Ngân hàng
là người không có thông tin đầy đủ về khách hàng, không biết rõ về khả năng trả nợ của
khách hàng. Do đó, sự lựa chọn đối nghịch có thể xảy ra làm tăng khả năng khoản tín dụng
sẽ được cấp cho người có rủi ro cao, ngược lại, người cho vay có thể từ chối bất kỳ khoản
tín dụng nào cho những người đáng tin cậy trên thị trường.
- Trong giao dịch chứng khoán:
Một số nhà đầu tư không biết rõ về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty:
công ty hoạt động có hiệu quả hay không? Công ty biết rõ về tình hình kinh doanh của
mình, nếu họ cung cấp thông tin không chính xác, nhà đầu tư có thể lựa chọn mua cổ phiếu
(hoặc trái phiếu) của công ty này. Kết quả là chỉ có công ty hoạt động kém bán được cổ
phiếu, thị trường cổ phiếu trở nên kém hiệu quả.
- Hay, những hoạt động giao dịch nội bộ (người trong công ty phát hành chứng
khoán và người thân quen với họ có cơ hội tiếp cận các thông tin không công bố về công
ty, từ đó có ưu thế thông tin trong giao dịch chứng khoán với người kém ưu thế thông tin).
- Thị trường những quả chanh là ví dụ điển hình về sự lựa
chọn bất lợi.
a.4. Phân tích thị trường những quả chanh:
G.A. Akerlof nghiên cứu thị trường xe hơi cũ. Ông giả định
rằng: trên thị trường xe hơi cũ chỉ có xe tốt và xe xấu. Nếu xác suất
để mua xe tốt là q thì xác suất mua xe xấu là (1-q).
Khi đó mức giá trung bình (P) được giả định mua xe là: P =
P1*q + P2*(1-q).
Trong đó: P1 là giá xe tốt; P2 là giá xe xấu.

Ông lại cho rằng người mua xe tiềm năng xem mức giá của
các loại xe tốt hay xấu là ngang nhau, vì họ không thể phân biệt đặc tính của xe nên họ chỉ
có thể mua xe (bất kể tốt hay xấu) tại mức giá trung bình trên thị trường. Nghĩa là họ đánh
giá cao hơn giá xe xấu và đánh giá thấp hơn giá xe tốt.
Thực tế, đối với xe tốt thì giá cao hơn mức giá trung bình. Rõ ràng, người bán hàng
luôn luôn hiểu rõ hơn về chiếc xe của mình so với khách hàng tiềm năng – anh ta đã bị khổ
sở vì hỏng hóc, thay bộ lọc, sửa chữa xe.
7
Nếu người bán bán xe tốt với mức giá trung bình thì họ sẽ thua lỗ, trong khi bán xe
xấu với giá trung bình thì họ sẽ có lợi nhuận cao hơn. Vì thế tại mức giá trung bình đó chỉ
có những xe xấu được giao dịch.
Khi đó xác suất để mua xe tốt bây giờ là q’ < q. Như vậy người mua thường là mua
được những chiếc xe xấu, việc lựa chọn xe để mua trong trường hợp này gọi là sự lựa
chọn bất lợi vì họ có thể trả giá cao hơn đối với xe xấu và người bán lại không thể bán
được do giá bán thấp hơn chất lượng xe tốt.
G.A. Alkerlof đã gọi đó là "thị trường của những quả chanh"- “a lemon” – một từ
thông dụng dùng để chỉ một chiếc xe cũ có khuyết tật – đây là một cách nói ẩn dụ phổ biến
trong từ vựng của các nhà kinh tế với một lý do rằng nhìn bề ngoài chiếc xe hơi cũ người
mua không thể biết nhiều về chất lượng của nó so với người bán. Điều này cũng tương tự
như khi ta quan sát một quả chanh, chúng ta nhìn cái vỏ xanh đẹp mà không biết liệu bên
trong nó sẽ thế nào.
Từ đó có thể thấy hậu quả của sự lựa chọn bất lợi:
- Chất lượng xe tham gia thị trường ngày càng giảm và giá ngày càng giảm.
- Thị trường chỉ còn lại xe xấu
- Hàng tốt bị hàng xấu đẩy ra khỏi thị trường
- Thị trường xe cũ có nguy cơ biến mất
b . Rủi ro đạo đức (Tâm lý ỷ lại) - moral hazard :
b.1 Khái niệm:
Rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin bất cân xứng sau khi giao dịch đã xảy ra.
Rủi ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ một

loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái, nghĩa là họ thực hiện
những hành vi che đậy.
Rủi ro đạo đức hay tâm lý ỷ lại là tình trạng cá nhân hay tổ chức không còn động cơ
để cố gắng hay hành động một cách hợp lý như trước khi giao dịch xảy ra.
b.2 Khái quát:
Rủi ro đạo đức nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin bất
cân xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng
làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin.
Hành vi tha hóa theo hướng như thế của bên có ưu thế thông tin được bên kém ưu thế
thông tin cho là không đứng đắn, là một thứ nguy hiểm, rủi ro cho mình.
Một dạng đặc biệt của hiện tượng rủi ro đạo đức là vấn đề đại lý. Bên ủy thác là bên
kém ưu thế thông tin, còn bên được ủy thác (đại lý) là bên có ưu thế thông tin. Bên ủy thác
không giám sát được đầy đủ hành vi của bên nhận ủy thác, và bên nhận ủy thác hiểu được
điều này. Tình trạng này khiến cho bên được ủy thác tự nhiên nảy sinh động cơ hành động
theo hướng mà bên ủy thác cho là không phù hợp.
b.3 Ví dụ:
Rủi ro đạo đức được các nhà kinh tế học nhìn thấy trong rất nhiều tình huống.
- Thiếu thông tin dẫn tới giám sát không đầy đủ của chính phủ có thể dẫn tới các rủi
ro đạo đức ở chủ thể kinh tế được chính phủ ủy thác thực hiện các nhiệm vụ chi ngân sách,
đó là việc các chủ thể này sử dụng lãng phí ngân sách.
- Thiếu thông tin dẫn tới giám sát không đầy đủ của bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm
có thể dẫn tới rủi ro đạo đức ở bên được bảo hiểm, đó là việc họ thay đổi hành vi của mình
8
khác đi so với hình vi mà bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhận thức được khi ký hợp đồng
bảo hiểm. Chẳng hạn, trở nên thiếu ý thức giữ gìn sức khỏe khi có bảo hiểm y tế, hay cố ý
phá hoại xe ô tô để được nhận bảo hiểm ô tô, hay tự làm cháy nhà để được nhận bảo hiểm
hỏa hoạn, hay thậm chí giết người thân để được nhận bảo hiểm nhân thọ.
- Thị trường lao động: Người lao động không cố gắng khi đã được tuyển dụng chính
thức hay được đề bạt.
- Rủi ro đạo đức trong hợp đồng vốn: vấn đề ủy thác - đại lý.

b4. Phân tích vấn đề ủy thác – đại lý:
Hợp đồng vốn ( Equity Contracts), ví dụ cổ phiếu thường, là quyền được chia lợi
nhuận và tài sản của công ty. Hợp đồng vốn chứa đựng rủi ro đạo đức, được thể hiện bởi
vấn đề “ủy thác – đại lý”. Trong khi những nhà quản lý là những đại lý nhỏ chỉ nắm giữ
một tỷ lệ nhỏ, các cổ dộng còn lại là những người ủy thác nắm giữ chủ yếu vốn cổ phần
của công ty. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý công ty làm phát sinh rủi
ro đạo đức. Nhà quản lý công ty có thiên hướng hành động có lợi cho riêng mình hơn là vì
quyền lợi của các cổ đông còn lại, bởi vì nhà quản lý không có động lực nhằm tối đa hóa
lợi nhuận công ty như các cổ đông mong muốn.
Tình huống đưa ra: Ông A mời bạn cộng tác đầu tư để mở một cửa hàng bán kem.
Để mở được cửa hàng cần 100 triệu đồng, ông A bỏ ra 10 triệu đồng còn lại 90 triệu đồng
được bạn mua hết dưới dạng cổ phiếu. Như vậy bạn sở hữu công ty là 90%, ông A sở hữu
10%. Ông A làm quản lý cửa hàng. Lúc này, bạn không có đầy đủ thông tin về những việc
ông A làm, trong khi ông A lại có nhiều thông tin hơn bạn về việc quản lý cửa hàng của
mình. Có 2 trường hợp có thể xảy ra:
- Nếu ông A làm ăn chăm chỉ, cửa hàng có nhiều khách đến ăn. Sau khi trừ các
khoản chi phí, cửa hàng có lãi 50 triệu đồng, thì bạn nhận được 45 triệu và ông A là 5
triệu.
- Tuy nhiên, nếu ông A cho rằng 5 triệu đồng là phần
thưởng không xứng đáng với nỗ lực của mình để trở thành
một người quản lý giỏi, mà phải là 10 triệu đồng, thì ông sẽ
không còn động cơ muốn trở thành người quản lý giỏi nữa.
Vì số tiền thu được của cửa hàng kem là tiền mặt, do đó,
ông A có thể sử dụng toàn bộ 50 triệu đồng để mua sắm cho
văn phòng của mình, hoặc trốn đi du lịch, không tiếp tục sản
xuất những thứ kem ngon miệng nữa. Điều đó làm cửa hàng
không sinh lời được như trước nữa, bạn sẽ mất 45 triệu đồng ( so với phương án ông A làm
ăn chăm chỉ). Hoặc ông A sẽ biển thủ toàn bộ 50 triệu đồng, và nói với bạn cửa hàng làm
ăn không có lãi, lúc đó, bạn sẽ trắng tay.
5. Giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng:

a. Giải pháp lý thuyết:
Trong nhiều lĩnh vực tồn tại tình trạng thông tin bất cân xứng thì giải pháp chung
thường được sử dụng để hạn chế mức độ thông tin bất cân xứng là: Cơ chế phát tín hiệu,
Cơ chế sàng lọc, Cơ chế giám sát.
- Cơ chế phát tín hiệu: Michael Spence chỉ ra được cơ chế phát tín hiệu
(signaling):
Bên có nhiều thông tin có thể phát tín hiệu đến những bên ít thông tin một cách
trung thực và tin cậy.
9
Spence đã đặt câu hỏi là làm thế nào mà các cá nhân có được thông tin tốt hơn về
một thị trường nào đó lại có thể truyền, “phát tín hiệu” những thông tin này có một cách
đáng tin cậy cho những cá nhân được thông tin kém hơn, nhằm tránh được những vấn đề
liên quan đến sự lựa chọn ngược. Việc phát tín hiệu này đòi hỏi các tác nhân kinh tế phải
có những công cụ có thể quan sát được và tốn kém nhằm làm cho các tác nhân khác tin vào
khả năng của họ, hoặc một cách tổng quát hơn là về giá trị hoặc chất lượng sản phẩm của
họ.
Như vậy, với việc phát tín hiệu này, người bán những sản phẩm chất lượng cao phải
sử dụng những biện pháp được coi là quá tốn kém với người bán hàng hóa chất lượng thấp.
Spence lấy ví dụ bằng thị trường lao động. Người bán là những ứng cử viên đi xin
việc và người mua là nhà tuyển dụng. Nhà tuyển dụng không thể trực tiếp quan sát các khả
năng của ứng cử viên mà chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua bằng cấp của họ. Nếu
những người kém năng lực phải mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn những người có năng
lực để đạt được cùng trình độ học vấn thì những người có năng lực có thể phát tín hiệu
bằng cách đạt được những bằng cấp mà người kém năng lực không thể đạt được. Hay một
ví dụ khác, việc triển khai các chương trình quảng cáo đắt tiền, việc duy trì chế độ bảo
hành cho sản phẩm, việc chia cổ tức cho cổ đông đó đều là những cách phát tín hiệu trên
thương trường.

- Cơ chế sàng lọc:
Stiglitz đặt ra vấn đề là bản thân những người có ít thông tin hơn cũng có thể tự cải

thiện tình trạng của mình thông qua cơ chế sàng lọc (screening).
Bên có ít thông tin hơn có thể thu thập thông tin từ bên kia bằng cách đưa ra các
điều kiện giao dịch hợp đồng khác nhau.
Ví dụ điển hình là các công ty bảo hiểm thường cung cấp những loại hợp đồng bảo
hiểm với các mức phí bảo hiểm khác nhau, tương ứng với mức bồi thường khác nhau. Các
khách hàng sẽ tự lựa chọn loại hợp đồng bảo hiểm phù hợp với mình, do đó tự phân hóa
thành các loại khách hàng khác nhau. Những khách hàng có rủi ro thấp thường thích loại
hợp đồng có phí bảo hiểm thấp trong khi khách hàng có rủi ro cao lại lựa chọn hợp đồng có
phí bảo hiểm cao.
- Cơ chế giám sát:
Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại, cơ chế bao gồm:
giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp:
* Giám sát trực tiếp: bên ít thông tin hơn sẽ bỏ ra nguồn lực để đạt được kiểm soát thông
tin, cơ chế giám sát này tốn nhiều chi phí và sức lực, khả năng giám sát của
họ muốn giám sát
đối phương sẽ bị hạn chế
* Giám sát gián tiếp: như giám sát thị trường…
b. Giải pháp thực tế:
Đối với mỗi thị trường có những biện pháp khác nhau để hạn chế tình trạng thông
tin bất cân xúng như:
Thị trường đồ cũ:
- Người mua thu thập thông tin: thuê chuyên gia, hỏi người mua trước hoặc chạy
thử, mua thông tin
- Người bán phát tín hiệu chứng minh uy tín của cửa hàng thông qua danh tiếng,
thương hiệu, cấp giấy bảo hành…
Thị trường lao động:
10
- Người xin việc phát tín hiệu: trưng bằng cấp, đòi mức lương cao
- Nhà tuyển dụng: phỏng vấn, đề ra thời gian thử việc
Thị trường bảo hiểm

- Công ty bảo hiểm yêu cầu khám sức khỏe trước khi ký hợp đồng bảo hiểm.
- Chỉ định phòng khám đối với hợp đồng lớn.
- Không chi trả bảo hiểm toàn phần (đồng chi trả).
- Giảm phí bảo hiểm đối với khách hàng có đăng ký các chương trình phòng chống
bệnh tật hoặc không hút thuốc.
Giải pháp của chính phủ:
- Cấp giấy phép chứng nhận (trước hoạt động): Chứng nhận tư cách pháp nhân,
Chứng nhận chất lượng sản phẩm.
- Kiểm tra, kiểm soát (trong quá trình hoạt động): Kiểm tra an toàn vệ sinh thực
phẩm, đóng dấu chất lượng và cấp phép lưu thông, Kiểm tra, đối chiếu thực tế và tiêu
chuẩn đăng ký.
- Thành lập hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng.
- Cung cấp thông tin: Về quy hoạch, Về dịch bệnh, Về nhà đầu tư, Dự báo về cung
cầu thị trường trong nước và quốc tế.
- Thiết lập thể chế (xây dựng khung pháp lý) để có biện pháp chế tài, xử phạt.

Tóm tắt mô hình thông tin bất cân xứng. Nguồn: Nguyễn Trọng Hoài 2006.
I I. TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. Khái niệm tín dụng:
Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng
Anh gọi là Credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam là sự vay mượn.
Có rất nhiều khái niệm về tín dụng:
- Tín dụng là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay dựa
trên nguyên tắc hoàn trả.
11
Thông tin bất cân
xứng
Trước khi
ký hợp
đồng

Thông tin che đậy
Hành vi che đậy
Sau khi ký
hợp đồng
Sàng lọc Phát tín hiệu Cơ chế Giám sát
Sự lựa chọn bất lợi Rủi ro đạo đức
- Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (người cho vay) chu cấp
tiền hay hàng hóa dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của bên kia (người đi vay).
Tập trung lại tín dụng có nghĩa là: sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá
trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định từ người sở
hữu sang người sử dụng, và khi đến hạn người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu
với một lượng giá trị lớn hơn, khoản giá trị dôi ra này được gọi là lợi tức tín dụng.
Quá trình vận động của tín dụng được thể hiện theo sơ đồ sau:
(1) Cho vay
(2) Trả nợ
Dựa vào chủ thể trong quan hệ tín dụng được chia thành 3 hình thức tín dụng sau:
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp được thực hiện
dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa hoặc ứng tiền trước khi nhập hàng hóa.
- Tín dụng Nhà nước: là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước với
các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội Nhà nước vừa là người đi vay vừa là người
cho vay.
- Tín dụng ngân hàng: là tín dụng giữa ngân hàng và các cá nhân, tổ chức xã hội
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại
rủi ro cao nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng.
2. Tín dụng Ngân hàng:
a. Khái niệm:
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng và bên kia là
các tác nhân (doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội ) trong nền kinh tế quốc dân.
Trong hình thức này, Ngân hàng xuất hiện với vai trò vừa là người đi vay vừa là

người cho vay.
b. Đặc điểm:
Tín dụng Ngân hàng có những đặc điểm sau:
- Huy động vốn và cho vay được thực hiện chủ yếu dưới hình thức tiền tệ:
Tất cả những nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân được Ngân
hàng huy động để hình thành nguồn vốn cho vay. Trên cơ sở nguồn vốn đã có, Ngân hàng
cho vay đối với các tác nhân cần vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Cả hai mặt
hoạt động huy động cốn và cho vay đều được thực hiện chủ yếu dưới hình thức tiền tệ.
Đây là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng nhu cầu tín dụng cho mọi khách
hàng.
- Các Ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tín dụng:
Khi huy động vốn trong nền kinh tế, Ngân hàng sử dụng nhiều hình thức thu hút
tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, phát hành các loại giấy nhận nợ (kỳ phiếu, trái phiếu,
12
Người cho vay
(Người sở hữu vốn)
Người đi vay
(Người sử dụng vốn)
chứng chỉ ) ngắn hạn cũng như trung và dài hạn, vay trên thị trường liên ngân hàng, ký
kết các hiệp định vay nợ.v.v
Khi cho vay, Ngân hàng chủ yếu sử dụng các hình thức cấp tín dụng theo tài khoản
cho vay, gửi vốn tại các Ngân hàng khác, đầu tư để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách
hàng.
Như vậy, Ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian, đi vay để cho vay.
- Quá trình vân động và phát triển của tín dụng Ngân hàng độc lập tương đối với
sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội.
Vốn tín dụng Ngân hàng là một Ngân hàngộ phận không thể thiếu được của quá
trình tái sản xuất xã hội. Khối lượng hàng hóa sản xuất và lưu thông tăng lên thì nhu cầu
vốn tín dụng bb cũng tăng lên. Trường hợp này vồn tín dụng Ngân hàng vận động phù hợp
với sự vân động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Nhưng trong nhiều trường

hợp, vốn tín dụng Ngân hàng không tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hóa, mà chúng được sử dụng vào những mục đích phi sản xuất như: Chiết khấu hoặc cầm
cố các thương phiếu “khống”, trái phiếu của Chính phủ. Cũng có thể vốn tín dụng Ngân
hàng được sử dụng vào những vụ “áp phe” chứng khoán hoặc sai mục đích, thiếu đảm bảo,
không có hiệu quả kinh tế.
Những trường hợp trên mặc dù nhu cầu tín dụng Ngân hàng có gia tăng, nhưng sản
xuất và lưu thông hàng hóa không tăng. Trường hợp khác, hiện tượng ngược lại có thể xảy
ra, đó là trong thời ký hưng thịnh các doanh nghiệp mở mang sản xuất kinh doanh, khối
lượng hàng hóa sản xuất cà luân chuyển lớn, nhưng tín dụng Ngân hàng lại không đáp ứng
kịp. Những mâu thuẫn này thường xuyên diễn ra đó là hiện tượng tất yếu của nên kinh tế
thị trường.
Huy động vốn và cho vay của Ngân hàng chủ yếu được thực hiện bằng một số tiền
nhất định. Có nghĩa là tiền ở đây là công cụ thực hiện quan hệ tín dụng, đó là tiền tín dụng
hay còn gọi là công cụ lưu thông tín dụng. Tiền tín dụng có những đặc điểm là lưu thông
vô thời hạn, lưu thông bắt buộc và thống nhất trên toàn lãnh thổ.
Tuy sử dụng chung một công cụ là tiền nhưng huy động vốn và cho vay của Ngân
hàng có tính chất không giống nhau. Còn trong cho vay, giữa Ngân hàng và khách hàng ký
kết hợp đồng tín dụng để thực hiện các khoản cho vay.
So với tín dụng thương mại và các hình thức tín dụng khác trong nền kinh tế thị
trưởng, tín dụng ngân hàng có nhiều đặc điểm nổi bật, đó là:
Thứ nhất, khối lượng tín dụng lớn. Cả hai mặt huy động vốn cà cho vay đều có thể
đạt được với một khối lượng vốn lớn. Do đó, tín dụng Ngân hàng có thể thỏa mãn một
cách tối đa nhu cầu vốn của các tác nhân trong nên kinh tế. Khác với tín dụng thương mại,
nguồn vốn cho vay Ngân hàngằng hoàng hóa bán chịu, chỉ bó hẹp trong số lượng hàng hóa
mà doanh nghiệp tự sản xuất ra. Do vậy không thể thỏa mãn được nhu cầu vốn vay của
người đi vay.
Thứ hại, thời hạn tín dụng đa dạng. Tín dụng Ngân hàng huy động các nguồn vốn
và thực hiện các khoản cho vay có thời hạn phong phú, đa dạng. Có nghĩa là có thể huy
động các nguồn vốn và cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Thời hạn của một khoản
tín dụng Ngân hàng tùy thuộc vào thời hạn nhàn rỗi của các nguồn vốn và nhu cầu xin vay

của khách hàng. So với tín dụng thương mại chỉ là bán chịu hàng hóa với thời hạn ngắn.
Thứ ba, phạm vi hoạt động rộng. Tín dụng Ngân hàng huy động và cho vay vốn đối
với mọi tác nhân và thể nhân. Như vậy tín dụng Ngân hàng không chỉ giao dịch với các
13
doanh nghiệp mà còn với các tác nhân khác thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực
trong nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại, tín dụng Ngân hàng có được những ưu điểm và được coi là hình thức tín
dụng cơ bàn và quan trọng nhất. Bởi lẽ huy động vốn và cho vay bằng tiền dưới nhiều
hình thức khác nhau nên đảm bảo tính linh hoạt. Ngân hàng có chức năng “tạo tiền” để
bổ sung nguồn vốn cho vay. Hệ thống Ngân hàng có mạng lưới chi nhánh rộng khắp lãnh
thổ, thậm chí ngoài lãnh thổ. Tín dụng Ngân hàng còn sử dụng công cụ lãi suất trong việc
điều chỉnh cung cầu tín dụng của nền kinh tế quốc dân. Do đó tín dụng ngân hàng đảm
bảo kịp nhu cầu về vốn cho mọi khách hàng.
3. Phân loại tín dụng ngân hàng:
Việc phân loại tín dụng dựa trên một số tiêu thức nhất định tùy theo yêu cầu của
khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại:
a. Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên
quan mật thiết đến tính an toàn, sinh lợi của tín dụng và khả năng hoàn trả của khách hàng.
Có 3 loại:
-Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống, được sử dụng để bù đắp
sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá
nhân.
-Tín dụng trung hạn: từ 12 tháng đến 60 tháng, được sử dụng để đầu tư mua
sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh,
xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
-Tín dụng dài hạn: trên 60 tháng, được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu dài hạn
như xây dựng nhà ở, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ
tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
b .Căn cứ vào hình thức tín dụng:

Dựa vào tiêu chí này tín dụng bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê,
trong đó:
-Chiếu khấu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị
của một giấy nợ trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một giấy nợ chưa đến hạn.
-Cho vay: là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải
hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Cho vay bao gồm các loại sau:
 Thấu chi : là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong
khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn
là không có đảm bảo. Do đó chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập
đều đặn và ổn định.
 Cho vay trực tiếp từng lần : là hình thức cho vay của ngân hàng đối với
các khách hàng có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mà không có nhu cầu
vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi.
14
 Cho vay theo hạn mức : là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa
thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế
hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
 Cho vay luân chuyển : là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Ngân hàng cho doanh nghiệp vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi bán hàng.
 Cho vay trả góp : là hình thức tín dụng mà khách hàng trả gốc làm nhiều
lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận.
Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài
hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
 Cho vay gián tiếp : đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung
gian. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ,
người vay phân tán, cách xa ngân hàng, nhằm giảm bớt chi phí và rủi ro.
-Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện

các nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ như cam kết.
Phân theo mục tiêu có các loại bảo lãnh như sau:
 Bảo lãnh dự thầu : là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ thầu)
về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp
đồng dự thầu.
 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng : là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn
thất thay khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây
tổn thất cho bên thứ ba.
 Bảo lãnh tiền ứng trước : là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền
ứng trước cho bên thụ hưởng bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không trả.
 Bảo lãnh vay vốn : là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay (tổ
chức tín dụng, các cá nhân…) về việc sẽ trả gốc lãi đúng hạn nếu khách hàng (người đi
vay) không trả được.
 Bảo lãnh thanh toán : là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền
theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không
thanh toán đủ.
-Cho thuê: là việc ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho
ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi (thời hạn
khoảng 80-90% đời sống kinh tế của tài sản). Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài
sản đó.
c.Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: có 2 loại:
-Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp,
cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba bằng tài sản. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân
hàng có được nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ.
-Tín dụng không bảo đảm: là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh của bên thứ ba. Loại tín dụng này có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, kinh
doanh thường xuyên có lãi, tình hình tài chính hiệu quả, vững mạnh.
d. Phân loại theo rủi ro:
Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các

khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời hiệu quả. Có 2 loại như sau:
-Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
15
-Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ, gặp thiên tai, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, trì hoãn nộp
báo cáo tài chính…
Tín dụng có vấn đề được chia làm 2 loại, đó là:
 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi : là các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn, thanh khoản
cao…
 Nợ quá hạn khó đòi : là các khoản nợ quá hạn khá lâu, khả năng trả nợ
kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
4. Hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại:
Cấp tín dụng là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chính của các ngân hàng.
Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa "Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả
thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp
vụ khác."
Có thể hiểu cấp tín dụng một cách đơn giản là việc ngân hàng cho khách hàng "vay"
một khoản tiền hoặc uy tín của mình trong một khoảng thời gian nhất định. Sau đó khách
hàng có nghĩa vụ hoàn trả "khoản vay" nên trên cho ngân hàng cộng với khoản "lãi" kèm
theo.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TỚI HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. Tình hình hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại:
NHTM là doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh về tiền tệ và tín dụng. Hoạt
động kinh doanh cơ bản của các NHTM là các hoạt động đem lại lợi nhuận cho NHTM
bao gồm: hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay và hoạt động kinh doanh dịch vụ
khác. Như vậy, NHTM VN “sống” bằng tín dụng. Khảo sát cho thấy, thu nhập từ tín dụng
của các NHTM VN chiếm trên 80%, ngay cả NHTM lớn, thu nhập từ tín dụng cũng chiếm

hơn 90%.
16
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2008

Tình hình tăng trưởng tín dụng:
Tăng trưởng tín dụng là sự tăng lên của các khoản cho vay cho khối tư nhân, cá
nhân, tập thể hoặc tổ chức công cộng. Tăng trưởng tín dụng là chỉ tiêu phản ánh lượng tiền
được “bơm” ra lưu thông - một trong những điều kiện quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
Biểu đồ: Tình hình tín dụng một số Ngân hàng thương mại các năm từ 2005-2007
17
Nếu như năm 2007, ngân hàng Á Châu có tổng huy động cao hơn hẳn, thì trong
tăng trưởng tín dụng, ngân hàng Sài Gòn Thương tín lại có dư nợ tín dụng nhiều hơn,
khoảng 35 ngàn tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng 136%, cùng tốc độ tăng trưởng đó là ngân
hàng Kỹ thương với dư nợ tín dụng hơn 20 ngàn tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao
nhất vẫn là ngân hàng An Bình, 506%.
2. Tại sao các Ngân hàng thương mại phải xử lý vấn đề thông tin bất cân xứng?
a. Nợ xấu là gì?
Nợ xấu là một trong những vấn đề luôn làm đau đầu các nhà quản trị Ngân hàng.
Theo tiêu chuẩn quốc tế, “nợ xấu” là những khoản nợ quá hạn 90 ngày mà không đòi được
và không được tái cơ cấu. Tại Việt Nam, nợ xấu bao gồm những khoản nợ quá hạn có hoặc
không thể thu hồi, nợ liên quan đến các vụ án chờ xử lý và những khoản nợ quá hạn không
được Chính phủ xử lý rủi ro.
Nợ xấu là khoản nợ có các đặc trưng cơ bản sau đây:
-Khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết đã hết
hạn.
-Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả
năng ngân hàng không thu hồi được cả gốc lẫn lãi.
-Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất 90 ngày.
Nợ xấu được phân chia thành nhiều nhóm mục đích giúp các nhà quản trị ngân hàng
dễ quản lý, kiểm soát và đề ra phương pháp xử lý khác nhau cho từng nhóm tương ứng.

Theo quyết định 149/QĐ-TTg ngày 05/01/2001 thì nợ xấu có thể chia thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Nợ xấu có tài sản đảm bảo, gồm có: nợ tồn đọng ngân hàng đã thu giữ tài
sản dưới hình thức gán, xiết nợ; nợ tồn đọng ngân hàng chưa thu giữ tài sản như nợ có tài
sản liên quan đến vụ án chờ xét xử, nợ có tài sản đảm bảo đã quá hạn trên 360 ngày.
Nhóm 2: Nợ xấu không có tài sản đảm bảo và không có đối tượng để thu, gồm có:
nợ xóa thiên tai chưa có nguồn và còn hạch toán nội bảng; nợ khoanh doanh nghiệp đã giải
18
thể, phá sản; nợ khoanh doanh nghiệp thuộc các vụ án; nợ khoanh do thiên tai của hộ sản
xuất…
Nhóm 3: Nợ xấu không có tài sản đảm bảo nhưng con nợ vẫn còn tồn tại, đang hoạt
động, gồm có: nợ khoanh doanh nghiệp khó thu hồi; nợ tín dụng chính sách còn khả năng
thu hồi; nợ quá hạn trên 360 ngày.
Ngoài ra còn có nhóm nợ phát sinh sau ngày 31/12/2000, là những khoản nợ không
thu được nhưng không đủ điều kiện để khoanh, xoá.
b. Tình hình nợ xấu:
Theo báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, đến cuối năm 2003,
tỷ lệ nợ xấu (quá hạn) của các ngân hàng thương mại Việt Nam chiếm 4,74% trong tổng
dư nợ cho vay gần 300.000 tỷ VNĐ (tương đương với 14.200 tỷ VNĐ). Nhưng theo ý kiến
của bà Susan Adams đại diện thường trú cao cấp của IMF tại Việt Nam và ông Klaus
Rohland - Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam thì nợ xấu của hệ
thống ngân hàng Việt Nam vào khoảng 15-20% (tương đương 45.000-60.000 tỷ VNĐ),
chiếm từ 7-10% GDP Việt Nam.
Tỉ trọng nợ xấu trong tổng dư nợ năm 2004 là 2.85% giảm so với tỉ trọng nợ xấu
trong tổng dư nợ của năm 2003.
Bảng tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của một số Ngân hàng thương mại các năm 2005,
2006, 2007.
2005 2006 2007
ACB 0.30% 0.20% 0.08%
SACOM 0.55% 0.72% 0.24%
ĐÔNG Á 0.98% 0.77% 0.45%

AN BÌNH 1.23% 2.70% 1.51%
TCB 1.01% 0.73% 0.82%
EXIMBANK 1.12% 0.85% 0.88%
MHB 2.46% 2.88% 2.20%
PHƯƠNG NAM 2.06% 3.12% 3.77%
Nhìn chung, các ngân hàng thương mại cổ phần đang nghiên cứu đều có tỷ lệ nợ
xấu trên tổng dư nợ ở mức an toàn cho phép.
Tỷ lệ này của ngân hàng Á Châu và Đông Á giảm dần qua các năm và dưới 0.5%,
đối với ngân hàng An Bình, MHB, Phương Nam tỷ lệ này lớn hơn 1.5%. Riêng ngân hàng
Phương Nam có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ lớn hơn 3% và tăng dần qua các năm.
Chính sách tiền tệ nới lỏng năm 2009 cộng với việc thực hiện cơ chế cho vay theo
lãi suất thỏa thuận đã khiến nảy sinh vấn đề rủi ro về nợ xấu, tính đến thời điểm cuối năm
2009, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống ở mức 2,46%.
c. Nguyên nhân của nợ xấu:
Theo kinh nghiệm của nhiều nước và từ nhiều nghiên cứu, nguyên nhân gây ra tình
trạng nợ xấu bao gồm:
 Tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô:
19
- Môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp
địa phương trong việc triển khai.
- Công tác thống kê, dự báo còn hạn chế, cho nên những điều chỉnh trong điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN chưa theo kịp diễn biến của nền kinh tế và kết quả đạt chưa
cao.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN
- Rủi ro do hệ thống thông tin quản lý còn bất cập, yếu kém.
Cách đây 10 năm, Việt Nam bị đánh giá là có môi trường thông tin kém minh bạch và
thiếu nguồn dữ liệu thông tin. Đến nay môi trường thông tin đã được cải thiện, các cơ quan thông
tin sau một thời gian hoạt động trong nền kinh tế thị trường đã thu thập và lưu trữ được những
thông tin tối thiểu cần thiết. Một vài cơ quan thông tin đang hoạt động ở Việt Nam như Trung tâm
Thông tin doanh nghiệp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm Thông tin của Tổng cục Thống

kê, Trung tâm Đăng ký tài sản thế chấp của Bộ tư pháp, các trung tâm thông tin tín dụng ngân
hàng (CIC).
Trong đó, kênh cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng tốt nhất ở Việt Nam
hiện nay chính là trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của ngân hàng Nhà nước. CIC đã
hoạt động được hơn một thập niên, cung cấp kịp thời về tình hình tín dụng nhưng vẫn còn nhiều
hạn chế và yếu kém. Thông tin thiếu cập nhật, cung cấp đơn điệu, chưa đáng tin cậy tuyệt đối.
Việt Nam vẫn còn hạn chế trong khâu quản lý thông tin, cung cấp thông tin minh bạch, do đó sẽ là
thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng. Nếu các ngân hàng
cạnh tranh bằng cách cố gắng chạy theo thành tích, tăng trưởng tín dụng trong điều kiện môi
trường thông tin bất đối xứng thì không tránh khỏi nguy cơ nợ xấu gia tăng.
 Nguyên nhân khách quan: Do những cú sốc bất ngờ như:
- Sự thay đổi của môi trường tự nhiên: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây tổn thất cho
khách hàng vay vốn kinh doanh.
- Do biến động của môi trường thế giới như khủng hoảng kinh tế
 Tuy nhiên, nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu nhiều nhất là nguyên
nhân chủ quan.
- Nguyên nhân từ phía ngân hàng:
* Thông tin tín dụng chưa đầy đủ, chính xác.
* Lạm dụng tài sản thế chấp
* Thiếu kiểm tra giám sát vốn vay
Thông thường, các ngân hàng vẫn chưa chú trọng đến công tác giám sát quản lý
sau cho vay mà tập trung chủ yếu trước cho vay. Tuy nhiên việc theo dõi giám sát sau cho vay là
rất cần thiết và quan trọng. Thường xuyên thăm hỏi khách hàng sẽ giúp ngân hàng sớm phát hiện
ra được vấn đề khó khăn, nguy cơ tiềm ẩn của khách hàng cũng như những cơ hội bán chéo sản
phẩm, vừa mang lại thêm lợi nhuận cho ngân hàng vừa giảm thiểu được rủi ro.
* Sự lỏng lẻo trong công tác kiểm soát nội bộ ngân hàng
Mỗi ngân hàng nên có kiểm toán nội bộ thường xuyên thanh tra, kiểm tra giám sát
hoạt động của ngân hàng mình. Ưu thế của kiểm toán nội bộ là nhanh chóng, kịp thời và sâu sát
với những vấn đề phát sinh để khắc phục ngay, phòng ngừa hạn chế được rủi ro. Tuy nhiên trong
thời gian trước đây, công việc kiểm toán nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình

thức, chưa triệt để và nghiêm túc, do đó vẫn chưa thật sự hiệu quả trong việc quản lý rủi ro tại
các ngân hàng.
* Năng lực, đạo đức của đội ngũ cán bộ tín dụng còn hạn chế
Nếu nhân viên thiếu đạo đức, yếu kém về trình độ chuyên môn nghiệp vụ sẽ gây
hậu quả không nhỏ cho ngân hàng. Cụ thể có nhiều vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tiền vốn ngân
20
hàng nguyên nhân xuất phát từ sự tiếp tay của các nhân viên ngân hàng như làm giả hồ sơ, lập
khống chứng từ, định giá tài sản đảm bảo cao hơn nhiều so với thực tế. Riêng nhân viên yếu kém
thiếu năng lực không nhận biết được thật giả trong hồ sơ giấy tờ, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Đạo đức của nhân viên là một trong các yếu tố quan trọng, cần thiết trong việc hạn chế rủi ro tín
dụng. Một nhân viên kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một nhân viên tha hóa về đạo
đức mà lại giỏi về nghiệp vụ thì vô cùng nguy hiểm khi bố trí trong khâu tín dụng.
* Sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy
theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất
lượng khoản vay.
* Sự hợp tác giữa các NHTM lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu
quả.
- Nguyên nhân từ phía khách hàng:
* Năng lực quản lý vốn, năng lực tài chính của khách hàng yếu kém.
Hiện nay báo cáo tài chính của các doanh nghiệp cung cấp vẫn chưa phải là nguồn
thông tin xác thực, mặc dù có những báo cáo tốt, có lợi nhuận nhưng bên trong tiềm ẩn, chứa
đựng nhiều vấn đề, rủi ro. Do đó ngân hàng không có căn cứ chính xác đáng tin cậy dựa vào
thông tin doanh nghiệp cung cấp mà phải dùng tài sản thế chấp làm chỗ dựa để phòng chống rủi
ro tín dụng.
* Năng lực quản trị kinh doanh yếu kém.
Nếu chiến lược kinh doanh không được quản lý hoạch định tốt sẽ ảnh hưởng đến
nguồn trả nợ. Ngân hàng cho vay dựa trên kế hoạch, chiến lược kinh doanh vì đấy là nguồn trả nợ
tốt nhất, tuy nhiên nếu sự quản lý hoạch định ấy yếu kém, sẽ làm cho phương án kinh doanh có thể
đi vào phá sản.
* Khách hàng gian lận cố ý không trả nợ.

Khi cho vay các ngân hàng đều mong muốn khách hàng sử dụng vốn đúng mục
đích, có mục đích hợp lý, sử dụng hiệu quả để có thể tái sinh đủ bù đắp các khoản nợ vay. Đối với
các doanh nghiệp, khi vay vốn đều có mục đích rõ ràng, phương án kinh doanh cụ thể và khả thi;
đối với các thể nhân thì có kế hoạch trả nợ cụ thể và khả thi. Tuy nhiên khách hàng sau khi vay lại
sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trả nợ sẽ làm cho các ngân hàng bị tổn thất và rủi ro
trong vấn đề thu hồi nợ.
d. Hậu quả của nợ xấu:
Đối với các NHTM phải lập các khoản dự phòng nợ phải thu quá hạn 90 ngày, theo
dõi các khoản nợ riêng trên bản cân đối kế toán và sổ kế toán và phải có những biện pháp
để thu hồi nợ. Như vậycác khoản nợ xấu ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của
các chủ nợ, họ sẽ mất nhiều thời gian, công sức, tiền của để đôn đốc thu hồi nợ.
Nợ xấu về lâu về dài sẽ gây ra tình trạng thâm thủng ngân sách và lạm phát tăng
cao, có hại nhiều cho nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại trong tình trạng thông
tin bất cân xứng?
Tình trạng thông tin bất cân xứng xảy ra trong hoạt động tín dụng của các NHTM
khi Ngân hàng là bên có ít thông tin hơn, Khách hàng có nhiều thông tin hơn về vấn đề cần
giao dịch.
21
Hai hành vi phổ biến nhất do thông tin bất cân xứng gây ra cho hoạt động tín dụng
của ngân hàng thương mại là lựa chọn bất lợi (adverse selection) và tâm lý ỷ lại (moral
hazard).
- “Sự lựa chọn bất lợi" xảy ra trước cho vay, khi ngân hàng bị khách hàng che
giấu một số thông tin dẫn tới việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín dụng không
hiệu quả.
Khách hàng với dự án rủi ro càng cao, sẽ thu được càng nhiều lợi nhuận nếu dự án
thành công, do đó, họ là những người hăm hở nhất để được vay tiền. Họ là sẵn sàng chấp
nhận mọi điều kiện của khoản vay, nên thường là những người được lựa chọn để cho vay.
Hậu quả của sự lựa chon đối nghịch có thể dẫn đến việc cấp tín dụng cho khách
hàng có rủi ro cao.

Rõ ràng là, họ là những người ít được mong đợi cho vay nhất, bởi vì khả năng
không hoàn trả được nợ vay là rất lớn. Trong trường hợp này các ngân hàng có thể sẽ cắt
giảm cho vay hoặc không tiếp tục cho vay mặc dù trên thị trường vẫn có nhiều khách hàng
tốt.
- "Rủi ro đạo đức" xảy ra sau cho vay, khi khách hàng có động cơ đầu tư vào
những dự án có độ rủi ro cao. Nếu dự án đó thành công thì khách hàng sẽ thu được lợi rất
lớn, ngược lại nếu dự án thất bại thì ngân hàng (người cho vay) sẽ phải gánh chịu hậu quả
do khách hàng thua lỗ.
Rủi ro đạo đức cũng có thể xảy ra khi khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục
đích, đầu tư vào dự án kém hiệu quả, lừa đảo ngân hàng Nghĩa là có phát sinh những
động cơ dính líu cào các hoạt động không được người cho vay mong muốn. Xung đột về
lợi ích giữa người vay và ngân hàng từ vấn đề rủi ro đạo đức dẫn đến tình trạng một số
ngân hàng quyết định giảm cho vay, ảnh hưởng đến cả nền kinh tế.
Có thể thấy rằng, vấn đề thông tin bất cân xứng xảy ra khi các ngân hàng không
có đầy đủ thông tin từ phía khách hàng của mình mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực trong
công tác thẩm định. Nói một cách đơn giản, là do cơ chế sàng lọc chưa đủ hiệu lực nên
các ngân hàng đã để "lọt" những khách hàng có khả năng che đậy hành vi và thông tin
của kho trong giao dịch vay vốn để thực hiện những dự án có rủi ro cao.
Như vậy, chuẩn đoán không tốt vấn đề thông tin bất cân xứng có thể là nguyên
nhân của “nợ xấu” từ đó gây ra những trục trặc trong hoạt động tín dụng hệ thống
ngân hàng Việt Nam.
Rõ ràng, vấn đề thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của các ngân
hàng thương mại gây ra hậu quả không chỉ với hoạt động của ngân hàng thương mại,
mà còn tác động đến nền kinh tế. Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng luôn là
người có ít thông tin về dự án, về mục đích sử dụng khoản tín dụng được cấp hơn
khách hàng. Do đó, để đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình, bản thân các tổ
chức tín dụng phải xử lý thông tin bất cân xứng để hạn chế lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ
lại nhằm cho vay đúng người đúng đối tượng và giám sát chặt chẽ để khách hàng vay
vốn có hành vi đúng đắn nhằm đảm việc thu hồi cả gốc và lãi khoản tín dụng đã cấp ra.
3. Giải pháp hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng?

a. Về phía Chính Phủ:
* Xây dựng cơ sở pháp lý hoàn thiện:
22
Ở Việt Nam, hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng được
quy định bởi văn bản cao nhất là “Luật các tổ chức tín dụng”. Ngoài ra còn có các văn bản
hướng dẫn của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các văn bản liên quan
đến hoạt động tín dụng. Các quy định về hoạt động tín dụng tại Việt Nam được đánh giá là
tương đối đầy đủ và theo thông lệ chung với các hướng dẫn rõ ràng, quyền tự chủ dành cho
bên cấp tín dụng trên cơ sở bảo đảm những quy định về an toàn.
- Quy định về điều kiện cấp tín dụng.
- Quy định về điều kiện đảm bảo tiền vay.
- Quy định về việc thẩm định, xét duyệt cho vay và thẩm định thu hồi vốn vay.
Với các quy định pháp lý nêu trên, tổ chức tín dụng được tự chủ và phải chịu trách
nhiệm về hoạt động tín dụng của mình, đồng thời đảm bảo điều kiện để ngân hàng có thể
tìm đúng khách hàng, đúng dự án để cấp tín dụng, và giám sát để khách hàng thực hiện
những hành vi đúng sau khi được cấp tín dụng để hoàn trả cho ngân hàng khoản tín dụng
được cấp.
* Hệ thống thông tin phục vụ đánh giá xếp loại khách hàng:
Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: lịch sử hình thành và quá trình
phát triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành là cơ sở hết sức quan
trọng giúp cho việc thẩm định,xếp loại, lựa chọn khách hàng trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng. Nếu hệ thống này không đầy đủ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng đánh
giá, thẩm định khách hàng của các ngân hàng.
Hiện nay, Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (CIC) là tổ
chức duy nhất thực hiện công tác thu thập thông tin của các khách hàng có quan hệ tín
dụng với tất cả các tổ chức tín dụng. Cơ chế thu thâp thông tin của CIC theo quy chế hoạt
động thông tin tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành. Trong đó quy định các tổ chức
tín dụng theo định kỳ có trách nhiệm báo cáo các thông tin liên quan đến khách hàng cho
CIC và các tổ chức tín dụng được quyền khai thác thông tin của CIC.
Chia sẻ thông tin về khách hàng vay thông qua các trung tâm thông tin tín dụng

không chỉ mang lại lợi ích cho các ngân hàng mà còn tốt cho chính các khách hàng. Dựa
trên lý thuyết về thông tin không cân xứng, chia sẻ thông tin về người vay thông qua các
trung tâm thông tin tín dụng có bốn lợi ích chính sau đây:
Một là, các trung tâm thông tín dụng giúp các ngân hàng hiểu rõ hơn về khách
hàng và có thể dự đoán về khả năng trả nợ của khách hàng. Do vậy, ngân hàng có thể
quyết định cho vay hoặc không cho vay; định giá được khoản cho vay chính xác hơn, từ đó
làm giảm khả năng gây ra "sự lựa chọn đối nghịch".
Hai là, trung tâm thông tin tín dụng giúp ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh trên
thị trường. Nếu ngân hàng nhận thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng về một khách
hàng, ngân hàng đó sẽ có đánh giá đúng hơn về khách hàng và có thể sẽ áp dụng một mức
lãi suất thấp hơn so với mức lãi suất của ngân hàng không có thông tin. Lãi suất thấp hơn
làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Lãi suất thấp hơn cũng làm
giảm chi phí cho doanh nghiệp, tạo động cơ cho doanh nghiệp trong hoat động kinh
doanh.
Ba là, các khách hàng biết rằng nếu họ có quan hệ không tốt với một ngân hàng thì
tiếng tăm của họ với các ngân hàng khác cũng sẽ không tốt, như vậy sẽ không ngân hàng
nào tiếp tục cho những khách hàng này vay hoặc nếu cho vay thì với lãi suất rất cao. Có
23
thể nói sự tồn tại của các trung tâm thông tin tín dụng làm tăng động cơ trả nợ của khách
hàng và giảm rủi ro về đạo đức.
Bốn là, Trung tâm thông tin tín dụng giúp các ngân hàng nhận biết được tình trạng
vay nợ của khách hàng đồng thời tại nhiều ngân hàng, từ đó không tiếp tục cho vay quá
nhiều vào những khách hàng đó, từ đó giảm thiếu rủi ro của ngân hàng.
Tăng trưởng kho dữ liệu CIC Cung cấp thông tin của CIC
b.
Về
phía Ngân hàng:
* Một là, Hoàn thiện quy trình tín dụng
Để đảm bảo thực hiện đúng các quy định liên quan của Nhà nước đến công tác tín
dụng ĐTPT đòi hỏi NHTM phải thường xuyên cập nhật, hệ thống hoá và hoàn thiện các

quy trình thẩm định, tín dụng cho phù hợp.
* Hai là, hoàn thiện bộ máy quản lý rủi ro.
NHTM phải xây dựng và hoàn thiện bộ máy Quản Lý Rủi Ro(qlrr) phù hợp với
thông lệ quốc tế, trong đó quan trọng nhất là hình thành bộ phận QLRR ở hội sở chính và ở
các Chi nhánh. Mô hình QLRR có thể bao gồm: Uỷ ban QLRR trực thuộc Hội đồng quản
lý; Ban QLRR thuộc cơ quan điều hành ở Trung ương và Phòng QLRR tại các Chi nhánh.
Trong đó, bộ phận QLRR phải hoạt động theo nguyên tắc không tham gia vào quá trình tạo
ra rủi ro.
* Ba là, nâng cao chất lượng công tác thẩm định năng lực chủ đầu tư, thẩm định dự
án vay vốn.
Công tác thẩm định cần được thay đổi căn bản trên cơ sở việc quản lý tín dụng theo
khách hàng chứ không phải chỉ quản lý theo dự án. Để nâng cao chất lượng thẩm định, cần
bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm trong công tác thẩm định, thường
xuyên tổ chức các buổi thảo luận và khoá học về thẩm định dự án để cập nhật thông tin,
cách thức thẩm định. Đồng thời khi thẩm định cần chú trọng công tác thu thập, xử lý thông
tin về dự án, khoản vay; áp dụng các chỉ tiêu thẩm định như NPV, IRR, phân tích độ
nhạy… và cần đặc biệt lưu ý việc thẩm định năng lực, uy tín, khả năng tài chính của khách
hàng/chủ đầu tư…
* Bốn là, xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.
24
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tối thiểu phải bao gồm: (i) Các cơ sở pháp lý
liên quan đến thành lập và ngành nghề kinh doanh của khách hàng; (ii) Các chỉ tiêu kinh tế
tổng hợp liên quan đến tình hình kinh doanh, tài chính, tài sản, khả năng thực hiện nghĩa
vụ theo cam kết; (iii) Uy tín với các TCTD đã giao dịch trước đây; (iv) Các tiêu chí đánh
giá khách hàng chi tiết, cụ thể, có hệ thống (đánh giá yếu tố ngành nghề, địa phương) trên
cơ sở đó xếp hạng cụ thể đối với khách hàng. Kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ là cơ sở để
NHTMVN xác định giới hạn tín dụng, xác định các điều kiện tín dụng thích hợp với khách
hàng; tiến hành phân loại nợ và trích lập DPRR theo quy định.
* Năm là, tăng cường kiểm tra giám sát, quản lý nợ vay
Việc tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý nợ vay là biện pháp quan trọng nhằm

hạn chế RRTD đối với ngân hàng, nhất là rủi ro đạo đức khi khách hang sử dụng vốn vay
sai mục đích. Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi tiền vay phải được chuyển trực tiếp cho
đơn vị thụ hưởng. Việc giải ngân phải được thực hiện qua hệ thống thanh toán của NHTM;
định kỳ (quí) phải phân tích, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp; tăng cường
kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, tài sản đảm bảo tiền vay và tình hinh sản xuất kinh
doanh của khách hàng đặc biệt khách hàng có nợ quá hạn và lãi treo.
* Sáu là, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra nội bộ
Để hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ thì công
việc này cần phải tiến hành theo hướng tổ chức lại bộ máy và hoạt động của Ban kiểm soát
và Ban kiểm tra nội bộ (KTNB) tại hội sở chính.
* Bảy là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro
Để có thể triển khai có hiệu quả các biện pháp nhằm hạn chế RRTD thì NHTM
phải xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro thông qua
việc tăng cường thu thập thông tin về khách hàng, dự án, thông tin về kinh tế - xã hội;
ngành hàng, thị trường … thông qua các kênh thông tin khách nhau; đồng thời phải sàng
lọc, xử lý và lưu trữ thông tin cho khoa học, và phải tăng cường đầu tư nâng cấp hệ thống
công nghệ thông tin, các phần mềm nghiệp vụ và khẩn trương thực hiện tốt các thanh toán
cho khách hàng.
* Tám là, thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro như đối
với các ngân hàng thương mại, đẩy mạnh công tác xử lý rủi ro.
* Chín là, nâng cao trình độ cán bộ tín dụng về năng lực chuyên và đạo đức nghề
nghiệp.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố đảm bảo cho sự thành công của việc thực
hiện các biện pháp hạn chế RRTD. Để có thể tạo dựng nguồn nhân lực đủ mạnh, đáp ứng
được yếu cầu nhất là trong công tác quản lý RRTD, NHTM phải tập trung giải quyết một
số nhiệm vụ trọng tâm: chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tín dung; có chính sách đào tạo và đại
ngộ hợp lý thông qua chế độ tiền lương, tiền thưởng, chế độ đào tạo, cơ hội thăng tiến…
đối với những cán bộ làm công tác tín dụng, thẩm định, QLRR. Đồng thời, NHTM cũng
cần phải ban hành qui định liên quan đến vấn đề trách nhiệm cá nhân (nhất là trách nhiệm
vật chất) trong việc để xaỷ ra rủi ro gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng.

c. Về phía khách hàng: Phát tín hiệu
Người đi vay phải phát tín hiệu rằng mình là người có khả năng trả được nợ tốt.
Vấn đề phát tín hiệu trong trường hợp này là: Uy tín của công ty, qui mô và danh tiếng
công ty, năng lực tài chính, tài sản đảm bảo
25

×