Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

NHỮNG CAM kết mở cửa của VIỆT NAM đối với NGÀNH CHĂN NUÔI của NGÀNH CHĂN NUÔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.47 KB, 17 trang )

NHỮNG CAM KẾT MỞ CỬA CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI NGÀNH CHĂN NUÔI
CỦA NGÀNH CHĂN NUÔI .
I. ĐẶC ĐIỂM NGÀNH CHĂN NUÔI VIỆT NAM
Chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chủ yếu của nông nghiệp, với đối tượng
sản xuất là các loại động vật nuôi nhằm cung cấp các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con
người. Ngành chăn nuôi cung cấp các sản phẩm có giá trị kinh tế cao như thịt, trứng, sữa,
mật ong nhằm đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu hàng ngày của người dân. Một
xu hướng tiêu dùng có tính qui luật chung là khi xã hội phát triển thì nhu cầu tiêu dùng về
các sản phẩm chăn nuôi ngày càng tăng lên một cách tuyệt đối so với các sản phẩm nông
nghiệp nói chung. Chăn nuôi là ngành cung cấp nhiều sản phẩm làm nguyên liệu quí giá
cho các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và dược liệu. Chăn nuôi là ngành ngày
càng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các sản phẩm đặc sản tươi sống và sản
phẩm chế biến có giá trị cho xuất khẩu.
Sau đây là 1 số đặc điểm tiêu biểu của ngành chăn nuôi tại Việt Nam:
1. Cơ cấu ngành chăn nuôi chưa đồng đều.
Ngành chăn nuôi đóng góp trên 21% tổng GDP từ nông nghiệp ( tương đương 6%
tổng GDP quốc gia. Các thành phần chính của ngành chăn nuôi là chăn nuôi gia súc, gia
cầm và các sản phẩm không qua giết thịt ( vd: ong … )
Giá trị ( tỷ đồng) Tổng số Gia súc Gia cầm Sản phẩm không qua giết thịt
2007 106.454,8 84.157,6 10.440,8 11.347,0
2008 114.543,8 87.962,9 13.362,8 12.095,2
2009 126.614,4 96.192,2 15.972,4 13.223,1
2010 135.137,2 97.685,4 19.884,2 15.280,1
2011 141.204,2 99.494,9 25.760,7 13.606,6
2012 144.863,0 101.377,7 26.921,7 14.141,1
Sơ bộ 2013 147.979,5 102.589,8 27.596,5 15.295,8
Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi phân theo nhóm vật nuôi và loại sản phẩm
Theo: Tổng cục thống kê
Trâu Bò Ngựa Dê, cừu Lợn Gia cầm (Triệu con)
Số lượng (Nghìn con )
2007 2.996,4 6.724,7 103,5 1.777,7 26.560,7 226,0


2008 2.897,7 6.337,7 121,2 1.483,4 26.701,6 248,3
2009 2.886,6 6.103,3 102,2 1.375,1 27.627,7 280,2
2010 2.877,0 5.808,3 93,1 1.288,4 27.373,1 300,5
2011 2.712,0 5.436,6 88,1 1.267,8 27.056,0 322,6
2012 2.627,8 5.194,2 1.343,6 26.494,0 308,5
Sơ bộ 2013 2.559,6 5.156,0 1.345,4 26.261,4 314,8
Số lượng gia súc gia cầm Việt Nam giai đoạn 2007-2013
Theo: Tổng cục thống kê
Có thể thấy, ngành chăn nuôi nước ta chủ yếu phát triển chăn nuôi gia súc nhưng trâu, bò,
lợn. Trong đó chăn nuôi lợn chiếm tỉ trọng lớn nhất, chiếm ¾ tổng giá trị chăn nuôi gia
súc. Nước ta cũng tập trung nuôi trâu, bò nhưng chủ yếu để lấy sức kéo cho sản xuất
nông nghiệp. Do vậy quy mô đàn trâu bò tăng chậm. Những năm gần đây chăn nuôi trâu
bò ở nước ta chuyển mạnh sang chăn nuôi với mục đích lấy thịt và sữa trong đó cơ cấu
đàn bò là chủ yếu.
2. Các trại chăn nuôi quy mô nhỏ và phân tán.
Ngành chăn nuôi của Việt Nam đặc trưng bởi các trại chăn nuôi quy mô nhỏ và
thiếu tập trung. Quy mô điển hình của các trại chăn nuôi lơn là từ 1- 5 con. Các trang trại
thường phân bố nhiều hơn ở các vùng ngoại ô các thành phố nhưng các vùng nông thôn
cũng có các trang trại chủ yếu cung cấp cho thị trường địa phương thay vì cung cấp sản
phẩm cho đô thị lớn. Những năm gần đây, trang trại chăn nuôi phát triển nhanh cả về số
lượng, chủng loại và quy mô. Tuy nhiên, theo số liệu chưa đầy đủ, hiện toàn quốc có
23.000 trang trại (TT) chăn nuôi, trong đó miền Bắc chiếm khoảng 40%; miền Nam là
chiếm 60 %.
3. Ngành chăn nuôi phụ thuộc vào cơ sở nguồn thức ăn.
Trong chăn nuôi, thức ăn được coi như “nguyên liệu” cho sản xuất “công nghiệp”.
Điều quan trọng hơn là cỗ máy “công nghiệp” chăn nuôi lại vận hành liên tục không
được phép dừng hoạt động sản xuất, dù chỉ một ngày, nên nguồn nguyên liệu thức ăn
chăn nuôi đòi hỏi phải được đảm bảo một cách đầy đủ kịp thời thường xuyên liên tục.
Tính chất sản xuất và cung cấp thức ăn, đặc điểm và tính hữu hiệu của thức ăn chăn nuôi
sẽ quyết định tính chất, đặc điểm và năng suất sản phẩm ngành chăn nuôi. Do vậy phát

triển sản xuất đảm bảo cung cấp đầy đủ nguồn thức ăn là một nội dung và là cơ sở quan
trọng của phát triển ngành chăn nuôi.
Hiện tại ở nước ta có 3 nguồn thức ăn chăn nuôi chính:
- thức ăn tự nhiên
- thức ăn từ sản xuất trồng trọt
- thức ăn được chế biến, sản xuất.
Do chăn nuôi còn mang tính nhỏ lẻ và phân tán, chủ yếu là chăn nuôi hộ gia đình nên
nguồn thức ăn được ng chăn nuôi Việt Nam sử dụng chính là thức ăn tự nhiên và thức ăn
từ sản xuất trồng trọt. Điều này không có lợi cho việc phát triển, ngành chăn nuôi cần đi
đôi, song hành với chế biến sản xuất thức ăn chăn nuôi để đạt được sản lượng và chất
lượng tốt hơn.
Tuy nhiên ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn. Sản
xuất thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu dùng trong chế biến
phải nhập khẩu từ nước ngoài, trung bình khoảng 8 triệu tấn/ năm. Trong các nguyên liệu
sản xuất thức ăn chăn nuôi thì Việt Nam mới chủ động được cám gạo còn các nguyện liệu
khác phần lớn phụ thuộc vào nhập khẩu. Trong đó, các loại nguyên liệu giàu đạm như
khô dầu đậu tương, bột xương thịt, bột cá nhập tới 90% và khoáng chất, vitamin, phụ gia
phải nhập khẩu 100%. Tính đến 12/2013 Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên
liệu từ 26 thị trường trên thế giới, trong đó Achentina là thị trường cung cấp chính, đạt
kim ngạch 62,4 triệu USD, tăng 72,30% so với cùng kỳ năm trước. Đứng thứ hai là thị
trường Hoa Kỳ với kim ngạch 31 triệu USD, tăng 97,64%. Việc phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu và thức ăn nhập khẩu là một khó khăn lớn đối với ngành chăn nuôi Việt
Nam.
4. Ngành chăn nuôi chuyển hướng chuyên môn hóa.
Để tiếp tục phát triển, ngành chăn nuôi nước ta đang dần chuyển hướng chuyên
môn hóa. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với đề án tái cơ cấu lại ngành nông
nhiệp trong đó có ngành chăn nuôi.
Mô hình chăn nuôi đang được chuyển hướng quản lý theo chuỗi sản phẩm. Những hộ
chăn nuôi nhỏ lẻ sẽ được sắp xếp và tập hợp lại thành chuỗi liên kết thông qua hợp tác xã
hoặc câu lạc bộ chăn nuôi nhằm nâng quy mô lượng hàng hóa sản xuất.

Cải thiện chất lượng sản phẩm bằng nhiều biện pháp trong đó có sang lọc lựa chọn, tạo ra
giống vật nuôi mới cho năng suất cao, hạn chế lây nhiễm các dịch bệnh.
Đẩy mạnh nghiện cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, thục đẩy ngành chăn nuôi
theo hướngc huyện môn hóa. Các đơn vị chăn nuôt bắt đầu áp dụng khoa học kĩ thuật vào
chăn nuô để nâng cao chất lượng thành phẩm.
II. NHỮNG CAM KẾT MỞ CỬA CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI NGÀNH
CHĂN NUÔI.
Hiện tại, liên quan đến thị trường sản phẩm chăn nuôi, Việt Nam đã có cam kết mở cửa
trong khuôn khổ các Hiệp định thương mại khác nhau, quan trọng nhất là:
Cam kết gia nhập WTO; và Cam kết trong khuôn khổ khu vực ASEAN và các đối tác của
ASEAN.
Mức độ cam kết mở cửa đối với các mặt hàng này chủ yếu thể hiện ở cam kết giảm thuế
nhập khẩu (để hàng hóa nước ngoài tiếp cận thị trường Việt Nam dễ dàng hơn). Ngoài ra
có thể có một số cam kết chung khác về việc hạn chế sử dụng các biện pháp phi thuế (ví
dụ hạn ngạch nhập khẩu…).
Cam kết về thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm chăn nuôi được thể hiện trong Bảng
dưới đây.
Giải thích Bảng:
- Thuế suất ban đầu: là mức thuế áp dụng năm đầu tiên khi gia nhập WTO
- Thuế suất cuối cùng: là mức thuế phải giảm xuống sau một số năm nhất định (trường
hợp để trống “ - ” là không cam kết mức thuế suất cuối cùng/năm thực hiện)
- Năm thực hiện: là số năm thực hiện giảm thuế từ mức ban đầu xuống mức cuối cùng
- AFTA: Cam kết trong khuôn khổ “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN” (mức thuế suất
cam kết sẽ áp dụng cho hàng nông sản từ các nước ASEAN vào Việt Nam);
- AC-FTA: Cam kết trong khuôn khổ Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc (mức thuế suất cam kết sẽ áp dụng cho hàng hóa từ các nước ASEAN hoặc Trung
Quốc vào Việt Nam);
- AK-FTA: Cam kết trong khuôn khổ Hiệp định khu vưự mậu dịch tự do ASEAN - Hàn
Quốc (mức thuế suất cam kết sẽ áp dụng cho hàng hóa từ các nước ASEAN hoặc Hàn
Quốc vào Việt Nam).

Bảng 5 – Biểu cam kết WTO về một số loại sản phẩm chăn nuôi

số HS
Sản phẩm TS hiện
hành
(2007)
Cam kết WTO AFTA AC-FTA AK-FTA
TS
ban
đầu
TS cuối
cùng
Năm
thực
hiện
2006 2010 2008 2010 2008 2010
SP chăn nuôi
Gia súc, gia cầm
sống

01 Nhóm gia súc sống
(trâu, bò, lợn)

- Để làm giống 0 0 - - 0 0 0 0 0 0
- Loại thương phẩm 5 5 - - 0 0 0 0 5 5
01 Nhóm gia cầm sống
(gà, vịt, ngan,
ngỗng…)

- Để làm giống 0 0 - - 0 0 0 0 0 0

- Loại thương phẩm 5 5 - - 5 5 5 5 5 5
- Riêng gà thương
phẩm
5 20 10 2012 5 5 5 5 5 5
Các loại thịt (1)*
0201-
0202
Thịt trâu, bò ướp lạnh,
cấp đông

- Loại có xương 20 20 - - 5 5 0 0 15 15
- Loại không xương 20 20 14 2012 5 5 0 0 15 15
0203 Thịt lợn ướp lạnh, cấp
đông

- Thịt lợn ướp lạnh 30 30 25 2012 5 5 0 0 25 20
- Thịt lợn cấp đông 30 30 15 2012 5 5 0 0 25 20
0206 Phụ phẩm trâu bò, lợn
(lòng, lưỡi, gan…)
15 15 8 2011 5 5 0 0 15 10
0207 Thịt gia cầm
- Loại cả con (ướp
lạnh, ướp đông)
20 40 20 10 15 15 15 15
- Loại chặt mảnh 20 20 20 10 15 15 15 15
0209 Mỡ động vật 20 20 10 2012 5 5 0 0 15 15
0210 Thịt muối, sấy khô,
hun khói
20 20 10 2012 5 5 0 0 15 15
1601-

1602
SP chế biến từ thịt
(Xúc xích, thịt hộp…)
40 40 22 2012 50 30 30 30 35 25
Sữa, trứng, mật ong
0401 Sữa chưa cô đặc 20 20 18 2009 5 5 0 0 15 15
0402 Sữa cô đặc 10 10 5 5 0 0 15 15
0402 Sữa bột nguyên liệu
hoặc thành phẩm
15-
20- 30
15-20-
30
10-15-
25
2010 5 5 0 0 10-15-
25
8-10-
20
0404 Whey (váng sữa) 20-30 20-30 10 2012 5 5 0 0 15-25 15-20
0407 Trứng gia cầm
- Trứng giống 0 0 0 0 0 0 0 0
- Trứng thương phẩm 40 40 40 40 20
0409 Mật ong 10 10 10 0 0 0 0 10 8
Thức ăn chăn nuôi
2301-
230
Tấm, cám 10 10 7 2010 0 0 10 10 10 8
Khô dầu các loại 0 5 0 0 0 0 0 0
TA hỗn hợp thành

phẩm
10 10 7 2010 5 5 10 10 10 8

III. TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÀNH CHĂN NUÔI KHI MỞ CỬA.
1. Về sản lượng.
Sau hơn 8 năm gia nhập WTO, ngành chăn nuôi của Việt Nam phát triển chậm hơn trước
do không được đầu tư tương xứng. Cụ thể về kết quả phát triển nhóm sản phẩm chăn nuôi
được phản ánh qua biểu sốliệu sau:
Kết quả phát triển chăn nuôi 2006-2014
Chỉ tiêu Đơn
vị
2006 2007 2008 2009 2012 2014
1.Tốc độ tăng % 6,9 4,6 6,0 8,0 4,5 -
2.Tỷtrọng giá trị sản
xuất trong nông nghiệp
% 24,5 24,4 27,0 30 - 31,5
. sốTrâu Nghìn
con
2.921,1 2.996,4 2.897,7 2.950 2.627,8 2.511,9
5. số Bò Nghìn
con
6.510,8 6.724,7 6.337,7 6.836 5.194,1 5.234,2
6. sốLợn Nghìn
con
26.855 26.561 26.702 28.000 26.943,9 26.761,5
7. sốGia cầm Triệu
con
214,6 226,0 247,3 272 308,4 327,6
8. Thịt hơi các loại Ngàn
tấn

3.073 3.295 3.487 3.801 4.271,9 4.583,5
9. Trứng Triệu
quả
3.970 4.466 4.938 5.562 - -
10 Sữa Ngàn
tấn
216 234 262 301 - -
Nguồn: BộNN và PTNT; Báo cáo KH NN 2011-2015
Kết quả biểu trên cho thấy:
- Tăng trưởng phân ngành chăn nuôi năm 2006 là 6,9%, năm 2007 giảm còn 4,6%, tăng
lên 8% năm 2009 và gần đây giảm chỉ còn 4,5% năm 2012;
- Tỷtrọng chăn nuôi trong giá trịSXNN tăng từ24,5% (2006) lên 31,5% (2014);
- Số đầu con gia súc có sự giảm
+Trâu 2006 là 2921,1 nghìn con đến 2014 là 2511,9nghìn con
+Bò 2006 là 6510,8 nghìn con đến 2014 là 5234,2nghìn con
+Lợn 2006 là 26.855nghìn con đến 2014 là 26.761,5nghìn con
-Gia cầm tăng 2006 là 214,6 triệu con, 2014 là 327,6 triệu con
-Các sản phẩm trứng, sữa tăng nhẹ.
2. Về giá trị xuất- nhập khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu thịt các tháng, năm 2012 – 2014 (USD)
Nguồn: TCHQ
Tính chung 5 tháng đầu năm 2014, trị giá xuất khẩu thịt đạt 20,92 triệu USD, giảm, chỉ
giảm nhẹ gần 2,4% so với cùng kỳ năm 2013
Thịt lợn (dạng tươi, ướp lạnh, đông lạnh) vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: 5 tháng đầu
năm 2014 đạt trị giá 14,46 triệu USD, giảm 17,2% so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm
69,1% tổng trị giá xuất khẩu thịt các loại.
Nếu như trong những năm qua, thịt lợn là mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng chi phối
trong khi xuất khẩu các loại thịt khác rất hạn chế thì đến 2014 đã xuất hiện một điểm
sáng trong hoạt động xuất khẩu thịt gia cầm (chủ yếu là thịt gà). Theo thống kê, trong 5
tháng đầu năm 2014 xuất khẩu thịt gà đều tăng mạnh gấp nhiều lần so với các tháng cùng

kỳ năm 2013. Tính chung 5 tháng đầu năm 2014, trị giá xuất khẩu thịt gà đạt 2,22 triệu
USD, tăng 576% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 10,6% tổng trị giá xuất khẩu thịt các
loại.
Trị giá nhập khẩu thịt các tháng năm 2012 – 2014 (USD)

Nguồn: TCHQ
Nhập khẩu
Tính chung 5 tháng đầu năm 2014, trị giá nhập khẩu thịt đạt 89,25 triệu USD, tăng 28,6%
so với cùng kỳ năm 2013.
Về chủng loại, thịt gia cầm là mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất trong 5 tháng đầu
năm 2014, đạt 36,26 triệu USD, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm 2013 và chiếm 45,2%
tổng kim ngạch xuất khẩu thịt các loại. Tiếp đến là thịt trâu bò, với trị giá đạt 35,84 triệu
USD, tăng mạnh 51% so với cùng kỳ năm 2013 và chiếm tỷ trọng kim ngạch 40,2%.
Trong đó, nhập khẩu thịt bò dạng đông lạnh chiếm khoảng 92% và nhập khẩu dạng tươi
sống chỉ chiếm 8%. Nhập khẩu thịt lợn đạt 2,63 triệu USD, tăng nhẹ 6,2% so với cùng
kỳ, chiếm tỷ trọng chỉ khoảng 3%. Nhập khẩu thịt chế biến các loại đạt trị giá 1,14 triệu
USD, tăng gần gấp hai lần so với mức 0,62 triệu USD của cùng kỳ năm 2013.

Như vậy ta có thể thấy rằng sản lượng nhập khẩu lớn hơn rất nhiều so với sản lượng xuất
khẩu cho thấy sự xuất hiện của thịt ngoại vào thị trường Việt Nam. Lượng xuất khẩu thịt
ngành ngày càng giảm dogiá của các yếu tố sản xuất tăng do tăng cầu đi cùng với tăng
thu nhập đồng thời thịt chăn nuôi ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu VSAT của
một số nước
Nhập khẩu con giống và sản phẩm thịt: (cập nhật 12/12/2014)
TT Chủng loại
T11/2014
So T10/2014
(%)
11T/2014
So 11T/2013

(%)
Lượng Trị giá Lượng
Trị
giá
Lượng Trị giá Lượng Trị giá
1
Heo giống
(con, usd)
203 296,675 -1.0 44.2 2,146 2,160,887 90.6 36.0
2
Gia cầm
giống (con,
usd)
76,443 421,811 -64.8 -54.6 1,540,797 6,134,289 -9.7 -4.9
3
Thịt heo
(tấn, usd)
578 1,379,583 138.0 98.5 3,172 6,670,682 7.3 13.8
4
Thịt gà (tấn,
usd)
7,466 8,082,581 13.8 13.9 82,782 87,988,937 19.3 18.8
5
Trâu bò
sống (con,
usd)
5,782 5,699,151 -78.0 -77.7 208,723 186,965,743 46.2 164.8
6
Thịt trâu bò
không

xương (tấn,
usd)
71 827,525 13.2 8.1 559 6,257,899
7
Thịt trâu bò
có xương
(tấn, usd)
1,516 4,209,265 -22.5 -28.2 24,246 67,575,015
8
Thịt dê cừu
(tấn, usd)
45 360,221 -47.3 -38.1 861 5,950,665
Nguồn: Tổng hợp từ TCHQ, tháng 12/2014
Tómlại
Khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, ngành chăn nuôi đa có những chuyển biến
tích cực cả về năng suất, sản lượng, cơ cấu, chủng loại vật nuôi theo hướng tích cực.
Tuy nhiên, những thay đổi đó vẫn chưa tương xứng, khi những thách thức mà ngành chăn
nuôi phải đối mặt nhiều hơn cơ hội có được rất nhiều. Nếu không có sự tái cơ cấu ngành
chăn nuôi thì Việt Nam sẽ mất dần thị trường và rất khó cạnh tranh.
3. Tác động đến tư duy của người nông dân
Với những chính sách thương mại rộng mở, ngành chăn nuôi có cơ hội tiếp cận với công
nghệ hiện đại. Người chăn nuôi phải thay đổi những thói quen, tập quán chăn nuôi truyền
thống hoặc thiếu tính bền vững như trước đó. Không chỉ phải quan tâm tới năng suất, sản
lượng mà còn phải đặc biệt quan tâm tới chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Từ chỗ chỉ cung cấp cho nhu cầu người tiêu dùng trong nước, đã mở rộng ra xuất khẩu.
Những đòi hỏi về tiêu chuẩn xuất khẩu đã tác động đến các chủ thể của ngành chăn nuôi,
buộc họ phải thay đổi cách thức sản xuất, kinh doanh. Nhiều nông dân từ chỗ chỉ biết áp
dụng những phương tiện và phương pháp thủ công nay đã biết tiếp cận với khoa học công
nghệ, nhất là những công nghệ mới, làm cho năng suất tăng lên, chủng loại phong phú, đa
dạng và đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng ở nhiều quốc gia trên thế giới

Từ chỗ chủ yếu là những đơn vị sản xuất nhỏ lẻ, sử dụng sức lao động thủ công là chủ
yếu sang mô hình các trang trại chăn nuôi với quy mô lớn. Khi chăn nuôi tập trung sẽ
thuận lợi hơn trong chăm sóc vật nuôi và phòng chống dịch bệnh cũng như thuận tiện
trong tiêu thụ sản phẩm. Nhờ chăn nuôi tập trung nhiều hộ gia đình đã có điều kiện liên
kết với các viện nghiên cứu để có được những giống vật nuôi cho năng suất cao, chất
lượng tốt, có khả năng cạnh tranh cao và kháng bệnh tốt.
IV. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH SAU KHI MỞ CỬA.
1. Năng lực cạnh tranh tại thời điểm gia nhập WTO.
Trong điều kiện mức sống của người Việt Nam được cải thiện, nhu cầu đối với các thực
phẩm giàu đạm của Việt Nam cũng tăng lên (thịt, trứng, sữa). Cầu đối với ngành chăn
nuôi vì vậy ngày càng tăng.
Vào thời điểm 2006, trước khi Việt Nam gia nhập WTO, ngành chăn nuôi chiếm 23%
trong tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp Việt Nam với sản lượng thịt các loại đạt khoảng
3,4 triệu tấn. Vật nuôi chủ yếu bao gồm lợn, gia cầm, trâu bò và ong.
Năng lực cạnh tranh của hầu hết các sản phẩm chăn nuôi Việt Nam thấp do quy mô sản
xuất nhỏ, năng suất thấp, tỷ lệ hao hụt đàn do dịch bệnh cao. Trong số các sản phẩm chăn
nuôi, mỗi năm, Việt Nam mới chỉ xuất khẩu được 20-30 ngàn tấn thịt lợn (chiếm khoảng
2-3% sản lượng thịt lợn của cả nước), mật ong 10-15 ngàn tấn. Các sản phẩm còn lại đều
để tiêu dùng trong nước. Sữa tươi mới chỉ đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu tiêu dùng
sữa tươi trong nước, số còn lại phải nhập khẩu hoàn toàn.
Năm 2007, ra nhập WTO, với một nền nông nghiệp yếu kém lại không được đầu tư tương
xứng, vậy nên ngành chăn nuôi Việt Nam gặp rất nhiều trở ngại. Một trong những thách
thức đó là mức độ cạnh tranh trong ngành chăn nuôi hiện tại rất là thấp, cụ thể như là
năng suất sản xuất, chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm chăn nuôi thị trường nội địa
đều có mức cạnh tranh thấp hơn so với cạnh tranh quốc tế.
Thách thức thứ hai là các sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam sẽ phải đối mặt là trợ cấp
của các nước giàu. Ví dụ một con bò của EU được hưởng trợ cấp một ngày là 2,62 USD,
nhiều hơn thu nhập của người nông dân nghèo Việt Nam. Đây là một ví dụ để thấy trình
độ phát triển chênh lệch quá lớn.
Ngoài ra đối với những nước không còn dùng trợ cấp chăn nuôi như Australia, hoặc New

Zealand thì ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ phải đương đầu với hệ thống sản xuất rất hiện
đại và hiệu quả. Một thách thức khác là Việt Nam sẽ không được tiếp cận với cơ chế tự
vệ đặc biệt để chống lại những đột biến về nhập khẩu cho những mặt hàng chăn nuôi (thịt
lợn, thịt bò).
Như vậy, trong trường hợp khi Việt Nam mở cửa thị trường một cách mạnh mẽ thì việc
tăng các sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu sẽ có tiềm năng tác động đến giá của các mặt
hàng trong nước. Trong khi đó, trình độ sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi của Việt Nam
còn quá thấp, đặc biệt là của nhóm người nghèo thì họ phải cạnh tranh trên một sân chơi
không bình đẳng.
2. Năng lực cạnh tranh sau 8 năm ra nhập WTO.
Không như kì vọng về sự phát triển của nền kinh tế sau khi ra nhập WTO, nhưng cũng
không nằm ngoài dự đoán, ngành chăn nuôi Việt Nam sau từng ấy năm ra nhập WTO bộc
lộ rõ yếu kém, khi không tận dụng được cơ hội mở cửa, ngược lại- không đủ khả năng
chống chọi với thách thức. Thời điểm hiện tại, trước thềm hiệp định TPP được ký kết,
người ta lo ngại ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ bị “nhấn chìm”, khi mà dự kiến thuế NK
nhiều mặt hàng thịt sẽ là 0%.
Quy mô manh mún, nhỏ lẻ, giá thành sản xuất cao, chưa kiểm soát tốt dịch bệnh…vẫn là
những điểm yếu cố hữu mà ngành chăn nuôi Việt Nam vẫn chưa khắc phục được từ sau
khi ra nhập WTO. Đánh giá một cách tổng quát, hiện ngành chăn nuôi còn rất nhiều yếu
kém.
• Trước hết là đầu vào thức ăn phụ thuộc quá lớn vào NK, dẫn tới chi phí sản xuất
cao. Trong khi, đối với chăn nuôi thì giá thành thức ăn đã chiếm tới 65-70% chi
phí. So với các nước trong khu vực, giá thành thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam luôn
cao hơn khoảng 10%.
• Tiếp đó là vấn đề kiểm soát dịch bệnh chưa thực sự hiệu quả. Mặc dù đa số các
bệnh đều đã được kiểm soát nhưng một số loại dịch bệnh như lở mồm long móng,
cúm gia cầm vẫn hoành hành, gây nhiều thiệt hại cho người chăn nuôi. Một trong
những điểm yếu cố hữu nữa của ngành chăn nuôi Việt Nam là con giống. Chất
lượng con giống đưa tới người chăn nuôi chưa đảm bảo. Bên cạnh đó, tình trạng
giết mổ chủ yếu là thủ công, thiếu điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm cũng góp

phần làm giảm giá trị gia tăng của sản phẩm chăn nuôi. Hiện nay, giết mổ công
nghiệp, bán công nghiệp còn khá ít, chỉ chiếm khoảng 20% trên tổng lượng thịt.
• Tổng giá trị sản xuất của toàn ngành chăn nuôi hiện đạt khoảng 140-150 nghìn tỷ
đồng. Hiện cả nước chủ yếu vẫn là quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chỉ có khoảng 23
nghìn trang trại (trang trại là đơn vị chăn nuôi đạt doanh thu từ 500 triệu đồng/năm
trở lên), ít hơn nhiều so với các quốc gia khác. Mật độ ngành chăn nuôi lợn ở Việt
Nam lớn hơn hẳn các quốc gia khác, do đó ngành chăn nuôi sẽ gặp nhiều khó khăn
trong việc xử lý ô nhiễm và dịch bệnh.
• Cũng vì quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún, không áp dụng những thành tựu
KH-KT nên giá cả không cạnh tranh được với thị trường quốc tế. Dễ thấy, ngành
chăn nuôi yếu thế hơn khi tham gia TPP, điển hình như đối với mặt hàng thịt bò,
hiện mặt hàng này dù vẫn có thuế nhưng không thể cạnh tranh nổi với thịt NK.
Bởi trong nước ngoài một số ít trang trại, thì chủ yếu vẫn duy trì chăn nuôi hộ gia
đình, mỗi hộ một vài con bò, trong khi các quốc gia như Mỹ, Úc bò được chăn
nuôi công nghiệp trên những đồng cỏ bạt ngàn. Trong năm 2012, Việt Nam nhập
khoảng 3000 con bò từ Úc, đến năm 2013 đã lên tới 67.000 con- trung bình nhập
5.000 con/tháng. Trong năm 2014, con số đã lên tới 130.000 con, tăng 4300%
trong vòng 2 năm. Điểm đáng lưu ý là, giá thành thịt bò NK cũng rất hợp lý, hiện
NK từ Úc cũng chỉ khoảng 2,2-2,4 USD/kg (tương đương 46-50 nghìn đồng/kg)
thịt hơi. Trong khi đó, giá thịt bò hơi tại Việt Nam lên tới 65-80 nghìn đồng/kg.
Ngoài ra các loại thịt khác kèm phụ phẩm cũng ồ ạt được nhập vào Việt Nam. Với
tâm lý “ sính ngoại” của người Việt, thì ngành chăn nuôi Việt Nam ngày càng lao
đao trước con sóng hội nhập cũng là điều dễ hiểu.
Có thể tổng hợp 3 điểm yếu lớn của ngành chăn nuôi Việt Nam là sự phát triển thiếu bền
vững về năng suất, giá cả, chất lượng giống vật nuôi và hình thức tổ chức chăn nuôi kiểu
cũ. Về con giống Việt Nam đi quá chậm. Cụ thể như, trong khi lợn giống tại các nước
sinh sản đạt 25-26 con/lứa thì Việt Nam vẫn cứ ì ạch ở mức 17-20 con. Chăn nuôi thì còn
manh mún, thiếu tính liên kết giữa khâu sản xuất và thị trường tiêu thụ nên hiệu quả kinh
tế không cao.
3. Liệu có còn cơ hội cho ngành chăn nuôi Việt Nam?

Nhiều chuyên gia cho rằng ngành chăn nuôi vẫn còn đủ thời gian để nâng cao sức cạnh
tranh nếu được xốc lại ngay từ bây giờ. Thị hiếu tiêu dùng thịt tươi sống từ các chợ
truyền thống đang là hàng rào bảo hộ tự nhiên với các nhà sản xuất trong nước.Mỗi khi
có dịch bệnh ở lợn thì có 40,55% số người tiêu dùng tạm ngừng mua thịt lợn; 31,45%
chuyển thịt lợn sang mua các loại thịt khác Mỗi khi có dịch cúm gà, thì 75% số người
tiêu dùng ngừng mua thịt gà; 21,3% sẽ mua ít hơn trước; 24,6% chuyển sang thịt lợn, bò.
Và chỉ 11% chuyển sang chọn mua thịt đông lạnh sạch ở trong các siêu thị.
Cho đến nay đa số người Việt Nam vẫn tiêu dùng thịt tươi, trong khi NK chủ yếu là thịt
đông lạnh. Thói quen tiêu dùng này sẽ là “lá chắn” giúp Việt Nam còn đủ thời gian để tái
cơ cấu nhanh ngành chăn nuôi. Cách đối phó khôn ngoan nhất là tìm những sản phẩm có
tính rủi ro thấp nhất để mở cửa trước cho các nước trong các thành viên TPP đưa hàng
vào. Với ngành chăn nuôi, một trong những sản phẩm ưu tiên lựa chọn để các nước khác
XK vào là thịt bò. Với gia cầm, gà lông trắng không là lợi thế, nhưng gà lông màu, gà
bản địa đang phát triển với giá trị gia tăng cao nên có thể phát triển giống gà này. Thời
gian tới, chăn nuôi nên tập trung chế biến các sản phẩm gia cầm ở quy mô công nghiệp.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, để ngành nông nghiệp gia tăng năng lực cạnh tranh, thu
hút được tỷ lệ lợi nhuận thì cần phải giải quyết hai bài toán trong khu vực nông nghiệp,
nông thôn là lao động và phát triển những vùng chuyên canh, sản xuất nông nghiệp trên
quy mô lớn. Giải quyết vấn đề này bản thân một mình nông nghiệp không làm được, mà
đòi hỏi cả khu vực công nghiệp và dịch vụ phát triển để hút lao động ra, tạo thuận lợi cho
tích tụ đất đai, sản xuất hàng hoá
V. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHO NGÀNH CHĂN NUÔI VIỆT NAM.
Để cạnh tranh có hiệu quả trong bối cảnh mở cửa hội nhập theo các quy định của
WTO, các doanh nghiệp chăn nuôi của Việt Nam cần tập trung phát triển các lĩnh vực
như chủ động về nguồn thức ăn;lai tạo giống mới cho năng suất cao;cải thiện chất lượng
hoạt động thú y;đào tạo, nâng cao kiến thức cho người chăn nuôi nhằm mục đích cuối
cùng là nâng cao cả về chất lượng và số lượng sản phẩm chăn nuôi phục vụ thị trường.
Có thể tổng kết lại các chính sách như sau:
1. Chính sách giống.
- Hỗ trợ cho các trung tâm nghiên cứu, công tác giống để kiểm tra, thử nghiệm các

giống mới và các giống lai phù hợp để cải tiến nguồn gen động vật chăn nuôi ở
Việt Nam từ đó đạt được năng suất cao nhất về thịt, sữa, giống có khả năng kháng
bệnh và sinh sản tốt
- Duy trì, nhân rộng những con giống đặc sản, có giá trị kinh tế cao như : Gà chín
cựa, gà Đông Tảo, lợn mán,
2. Thú y.
- Nâng cao việc giám sát dịch bệnh cho gia súc từ cấp xã.
- Cải thiện cơ sở vật chất các trạm thú y.
- Thành lập các hệ thống thanh tra thú y nghiêm ngặt tại các cơ sở giết mổ.
- Có biện pháp nhanh chóng khi xuất hiện dịch.
3. Thức ăn.
- Chính phủ có thể hỗ trợ các doanh nghiệp chăn nuôi bằng cách xoá bỏ/giảm hàng
rào thuế quan đối với các nguyên liệu thô và nguyên liệu thức ăn khác dùng để sản
xuất thức ăn công nghiệp chất lượng cao.
- Nâng cao hiệu quả hệ thống nhân giống cây trồng để đạt được sự tăng trưởng
nhanh trong năng suất các loại lương thực làm thức ăn gia súc.
- Hỗ trợ các chương trình nghiên cứu để phát triển các giống cây năng suất cao và
các nguyên liệu thô giầu đạm sử dụng trong chế biến thức ăn gia súc.
- Quản lý chất lượng thức ăn chăn nuôi: Để tối đa hoá khả hiệu quả của thức ăn
chăn nuôi, người sản xuất phải tìm hiểu, theo dõi sát sao để có được những thông
tin chính xác về thành phần và hàm lượng dinh dưỡng có trong thức ăn tổng hợp.
Nhà nước cầntăng cường thanh kiểm tra, có những chế tài mạnh tay đối với các cơ
sở sản xuất thức ăn chăn nuôi kém chất lượng, công bố tiêu chuẩn hàm lượng chất
dinh dưỡng sai sự thât.
4. Tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm
Tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm cho toàn bộ chuỗi ngành hàng là yếu tố
thiết yếu xây dựng lòng tin của người tiêu dùng vào chất lượng thịt sản xuất trong nước.
Để ngành chăn nuôi phát triển và đứng vững trong bối cảnh mở rộng hội nhập quốc tế
cần phải xây dựng và ban hành các qui chế quản lý, các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm
thích hợp. Đồng thời phải tổ chức thanh tra giám sát để đảm bảo sự tuân thủ của các nhà

sản xuất và cung ứng sản phẩm. Bên cạnh đó, phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý
dịch bệnh gia súc gia cầm ở các hộ và các trại chăn nuôi, đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay khi mà dịch cúm gia cầm đang là mối đe doạ lớn đối với nông dân. Các công đoạn
trong chuỗi cung ứng cần được thực hiện chặt chẽ qua các khâu: Vận chuyển gia súc, gia
cầm→Giết mổ gia súc, gia cầm→ Chế biến thịt →Vận chuyển thịt → Phân phối bán lẻ
thịt
Cần có sự phối hợp hành động đồng bộ ở các cấp ban ngànhtrong tất cả các khâu
để hoạt động kiểm dịch có hiệu quả nhất.
5. Tập huấn đào tạo kĩ năng cho người chăn nuôi
- Các hộ nông dân chăn nuôi quy mô nhỏ ở Việt Nam thường thiếu hiểu biết về các
nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thịt. Họ thường chưa được trang bị kiến thức
đầy đủ về khai thác các giống gia súc cải tiến và nguồn nguyên liệu thức ăn gia
súc có giá cạnh tranh hơn 20 vào việc nâng cao hiệu quả chăn nuôi của mình. Vấn
đề này cần phải được đầu tư giải quyết và phải xây dựng một chương trình thích
hợp nhằm nâng cao kiến thức về kỹ thuật và thị trường cho các hộ nông dân.
- Bên cạnh đó cũng cần tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn, cử cán bộ về cơ sở để
đào tạo, nâng cao năng lực cho người chăn nuôi để họ
6 . Những biện pháp từ chính phủ.
Chính phủ cần thấy được giá trị của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế- xã
hội, từ đó có các điều chỉnh thích hợp, tương xứng với ngành nông nghiệp nói chung,
chăn nuôi nói riêng để tăng sức cạnh tranh trong ngành, nhằm trước hết bảo vệ thị
trường nội địa, sau đó hướng tới xuất khẩu
Chính phủ có thể thực hiện một số biện pháp phi thuế để bảo vệ thị trường trong
nước như kiểm soát chặt chẽ việc buôn lậu, tiêu thụ các sản phẩm không rõ nguồn gốc
từ nước ngoài. Việc làm này cũng là bảo vệ sức khảo và niềm tin tiêu dùng của người
dân.
Bên cạnh đó, chính phủ có thể xem xét các rào cản kĩ thuật như Thái Lan, Nhật
Bản là buộc heo, gà nhập khẩu phải nguyên con thì thịt nội mới không lo mất thị
trường. Vì giá heo, gà nguyên con nhập khẩu xấp xỉ giá trong nước, trong khi nếu để
doanh nghiệp nhập khẩu riêng đùi, cánh thì hiện nay ở nhiều nước các loại này là phụ

phẩm, bán giá rất rẻ.
Nhìn chung, các chính sách trên sẽ giúp ngành chăn nuôi nước ta phần nào cải
thiện được chất lượng thịt nói riêng và chất lượng sản phẩm chăn nuôi nói chung
nhằm tăng vị thế của ngành chăn nuôi nội địa trong cạnh tranh với các nhà cung cấp
nước ngoài trong thời buổi hội nhập, khi người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn
cho nhu cầu của mình và cũng đòi hỏi cao hơn về chất lượng và chủng loại sản phẩm,
những người tiêu dùng thuộc nhóm thu nhập trung bình sẽ tăng nhu cầu đối với thịt
nhập khẩu chất lượng cao, nếu như chất luợng thịt sản xuất trong nước không được
cải thiện.

×