Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Quan điểm của Triết học Mác Lê Nin về vấn đề con người và vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.27 KB, 21 trang )

Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ CON NGƯỜI
1.1. Bản chất của con người
1.1.1. Một số quan điểm trước Mác về con người
Con người là một trong những vấn đề trung tâm của triết học. Vì thế, vấn
đề con người đã được đề cập từ rất sớm trong lịch sử triết học. Ngay từ thời cổ
đại, Socrate đã đưa ra nhận xét : ‘Con người hãy nhận thức chính mình’. Khi
nghiên cứu con người, trong lịch sử, trong lịch sử khoa học đã có hai cách tiếp
cận cơ bản trên hai phương diện khác nhau. Đó là :
Thứ nhất, nghiên cứu con người ở từng bộ phận, nhằm đưa ra những kết
luận có tính chất riêng biệt về con người như khảo cổ học, nhân chủng học, phân
tâm học, y học, tâm lý học,v.v
Thứ hai, nghiên cứu con người trong chỉnh thể nhằm đưa ra những kết
luận có tính chất khái quát về bản chất con người, đó chính là khoa học triết học.
Theo phương diện thứ hai, trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác
nhau.
a. Quan điểm triết học duy tâm khách quan
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng, con người có nguồn gốc siêu tự
nhiên, được sinh ra từ thế giới ý niệm, ý niệm tuyệt đối, đạo, thái cực, v.v Hầu
hết các tôn giáo đều cho rằng con người là do thượng đế, thần thánh sinh ra. Họ
quan niệm rằng, con người có hai phần : thể xác và linh hồn, hai phần này tồn tại
độc lập với nhau. Thể xác chỉ là tạm bợ, thoáng qua, tội lỗi, còn linh hồn mới cái
cao cả, bất tử và tồn tại vĩnh cửu : Bản chất của con người chính là cái linh hồn
bất tử đó. Cuộc sống trần gian có tính chất tạm bợ, đau khổ và con người không
thể tìm thấy hạnh phúc nơi trần thế. Chẳng hạn, Thánh Saint Augustine ( 354 –
430) đã nói, ‘Chúa hoàn toàn làm chủ và định đoạt số phận của con người và số
phận của thế giới. Chúa ban phát cho con người nguồn sống. Vì vậy, con người
không thể kì vọng vào điều gì khác ngoài sự ân sủng của chúa. Con người chỉ là
kẻ bộ hành trên trái đất, là cây nêu trước gió mạnh’.
Chính vì vậy, con người phải dốc lòng tu luyện, từ bỏ những ham muốn


dục vọng tầm thường để mưu cầu hạnh phúc vĩnh cửu ở thế giới bên kia.
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
b. Quan điểm duy tâm chủ quan
Tuy không thừa nhận nguồn gốc siêu tự nhiên của con người nhưng lại
tuyệt đối hóa đời sống tinh thần của con người, không nhìn thấy mối quan hệ
gắn bó mật thiết giữa ý thức với cơ thể và đời sống vật chất của con người.
Chẳng hạn, George Berkeley (1685 – 1753) đã tuyệt đối hóa vai trò ý thức của
con người, của cái ‘tôi’ cá nhân và cho rằng : ‘Tồn tại tức là trị giác’ và ‘tất cả
các sự hợp thành vũ trụ đều không tồn tại ở ngoài tinh thần Sự tồn tại của
chúng là ở chỗ được tri giác hay được nhận thức và do đó, nếu trong hiện thực
chúng không được tôi tri giác hay không có ở trong trí óc một tinh thần nào
khác, thì tức là chúng không tồn tại, hoặc tồn tại trong trí óc một tinh thần vĩnh
viễn nào đó’.
c. Quan điểm duy vật trước Mác
Những nhà triết học duy vật trước Mác đã nhìn thấy sự thống nhất giữa cơ
thể và ý thức, bác bỏ quan niệm duy tâm, tôn giáo về nguồn gốc siêu tự nhiên
của con người, về linh hồn bất tử và cuộc sống ở kiếp sau. Tuy nhiên, quan điểm
duy vật trước Mác đã tuyệt đối hóa mặt sinh học của con người, chưa thấy vai
trò quyết định của mặt xã hội của con người.
Nhiều nhà triết học phương Tây thế kỉ XVII-XVIII coi con người như một
cái máy, lấy qui luật cơ học hoặc lấy yếu tố bản năng để giải thích bản chất con
người. Các nhà triết học khai sáng thế kỉ XVIII coi con người là sản phẩm thụ
động của hoàn cảnh và giáo dục, chưa đánh giá đúng mức vai trò to lớn của yếu
tố chủ quan và hoạt động thực tiễn của con người trong việc cải tạo hoàn cảnh
sống của mình.
L. Feuerbach – nhà triết học cổ điển Đức cho rằng, con người là sản phẩm
của tự nhiên, là ‘cái gương của vũ trụ’, thông qua đó con người nhận thức được
chính bản thân mình. Bản chất của con người là tổng thể các khát vọng, khả
năng, nhu cầu, ham muốn và cả khả năng tưởng tượng của mình. Những điều
kiện sống, môi trường và hoàn cảnh có tác động to lớn đến tư duy và ý thức của

con người. Như vậy, hạt nhân hợp lý trong quan niệm về con người của ông là :
Thứ nhất, khẳng định con người, xã hội loài người là sản phẩm, là bộ phận của
giới tự nhiên ; Thứ hai, ông đề cao năng lực cá thể của con người trong môi
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
trường tự nhiên ấy. Tuy nhiên, hạn chế của L. Feuerbach là ở chỗ, ông không
nhận thấy bản chất xã hội của con người, không hiểu được vai trò hoạt động
thực tiễn của con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Con người
trong quan niệm của ông là con người phi lịch sử, phi giai cấp, dân tộc và vì thế
đưa đến kết luận con người là trừu tượng, không cụ thế.
d. Các trào lưu triết học phương Tây hiện đại
Các trào lưu triết học phương Tây hiện đại, đã có những cách nhìn phiến
diện về con người. Chẳng hạn, chủ nghĩa Frued cho rằng bản năng tính dục
( libido) là cơ sở quan trọng nhất cho mọi hành vi của con người. Như vậy, họ
đã đề cao dẫn đến tuyệt đối hóa cái vô thức và bản năng của con người. Chủ
nghĩa hiện sinh lại tuyệt đối hóa cảm xúc cá nhân và tự do cá nhân. Họ cho cuộc
sống con người là phi lý nên đề cao tự do cá nhân trong việc lựa chọn con đường
riêng cho mình, phủ nhận mọi tính tất yếu và quy luật khách quan.
1.2. Quan điểm của Triết học Mác – Lê Nin về con người
1.2.1. Quan điểm triết học Mác – Lênin về bản chất con người
a. Con người là một thực thể sinh vật – xã hội trong đó mặt xã hội giữ
vai trò quyết định
Kế thừa những quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học về vấn đề con
người, dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên trong đầu XIX, trực tiếp
là thuyết tiến hóa và học thuyết tế bào, C.Mác khẳng định, con người vừa là sản
phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của hoạt động thực
tiễn của chính bản thân con người. Như vậy, theo quan điểm mácxít, con người
bao gồm hai mặt là : mặt sinh vật và mặt xã hội trong một chỉnh thể thống nhất,
tạo nên con người hiện thực.
Mặt sinh vật bao gồm cơ thể, mối quan hệ giữa cơ thể với giới tự nhiên
xung quanh, cùng những nhu cầu sinh vật và những quy luật sinh học chi phối

đời sống của cơ thể con người. Là một thực thể sinh vật, con người là một động
vật cao cấp, là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên. Cũng giống
như những động vật khác, con người có đầy đủ những đặc điểm sinh học và chịu
sự chi phối bới những quy luật sinh học.
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
Ph.Ăngghen viết : ‘Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà
ra cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi
những đặc tính vốn có của con vật’.
Mặt xã hội bao gồm ‘tổng hòa những quan hệ xã hội’, những hoạt động xã
hội, đời sống tinh thần của con người. Nói cách khác, con người sở dĩ trở thành
người là do quá trình lao động, trong đó xã hội đã sản xuất ra con người ‘ với
tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như
thế’. Chính vì vậy, trong cơ thể con người không chỉ có những nhu cầu và các
quy luật tâm – sinh lý, tình cảm, xã hội. Hơn nữa, ngay những nhu cầu tự nhiên
của con người cũng không còn là thuần túy tự nhiên nữa, nó đã mang tính xã hội
cao và ngày càng được xã hội sâu sắc hóa. C.Mác viết : ‘ Người là giống vật duy
nhất có thể bằng lao động mà thoát ra khỏi trạng thái thuần túy là loài vật’.
Triết học Mác tuy nhấn mạnh mặt xã hội, nhưng không coi nhẹ mặt sinh
vật khi xem xét con người. Vì vậy, theo Mác, ‘ Điều cụ thể đầu tiên cần phải xác
định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể
ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của tự nhiên’ . Như vậy, theo quan điểm của
triết học Mác con người khác với các sinh vật khác ở mặt xã hội.
Nhiều nhà triết học trong lịch sử cũng đã thấy đặc điểm này. Aristotle đã
gọi con người là một ‘động vật xã hội’, Blaise pascal coi con người là một ‘cây
sậy biết suy nghĩ’. Franklin cho rằng con người khác con vật ở chỗ biết sử dụng
công cụ lao động. Các cách nhìn nhận trên đây về bản chất con người đều đúng
cả nhưng còn phiến diện. Triết học Mác nhìn nhận bản chất con người một cách
toàn diện.
Con người khác con vật ở lao động sản xuất là hoạt động xã hội có ý thức,
có mục đích và quan hệ giữa người với tự nhiên không phải là chỉ khai thác tự

nhiên, mà còn tái tạo lại tự nhiên. Trên cơ sở hoạt động sản xuất vật chất, con
người còn có những hoạt động xã hội đa dạng khác. Tính xã hội của con người
còn thể hiện ở quan hệ giao tiếp và đời sống cộng đồng, ở văn hóa và đạo đức.
Không chỉ khác ở phương diện lao động mà con người còn được phân biệt
với động vật ở hoạt động tư duy và ngôn ngữ.
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
Hai mặt sinh vật và xã hội ở con người hợp thành một thể thống nhất có
quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng
vật chất tự nhiên của con người ; mặt xã hội giữ vai trò quyết định bản chất của
con người.
b. Bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, C. Mác chỉ ra hạn chế của
Feuerbach, nhà triết học duy vật nổi tiếng trong triết học cổ điển Đức trong việc
xem xét con người như là một cơ thể sinh vật có ý thức và tình cả, như tình yêu,
tình bạn, không thấy mặt xã hội và thực tiễn của con người.
C. Mác vạch rõ : ‘Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là
tổng hòa những mối quan hệ xã hội’.
Bản chất con người không phải là cái có sẵn của mỗi cá nhân khi con
người sinh ra. Vì mới khi sinh ra, con người chỉ là một cơ thể sinh vật, chưa có
mặt xã hội. Bản chất con người được hình thành, phát triển và biểu hiện ra tổng
thể các quan hệ xã hội của cá nhân.
Bản chất của con người không ngừng hoàn thiện cùng với hoạt động thực
tiễn và sự phát triển các mối quan hệ xã hội của con người.
c. Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử
Con người là kết quả tiến hóa lâu dài của tự nhiên và lịch sử xã hội. Con
người hiện tại là kết quả của toàn bộ nền văn hóa, văn minh của dân tộc và nhân
loại trong suốt mấy ngàn năm lịch sử. Con người sáng tạo ra lịch sử bắt đầu
bằng hoạt động lao động sản xuất, sau đó là các hoạt động chính trị xã hội, văn
hóa, khoa học, nghệ thuật Con người ngày càng trở thành chủ thể có ý thức đối
với quá trình phát triển xã hội của mình cùng với trình độ phát triển của sản xuất

vật chất và khoa học kĩ thuật.
Quan điểm mácxít về bản chất của con người là cơ sở lý luận khoa học để
hiểu con người một cách đúng đắn, khắc phục các quan điểm duy tâm, tôn giáo
và duy vật siêu hình về bản chất con người ; góp phần nhận thức một cách đúng
đắn vấn đề mục đích, ý nghĩa của cuộc sống của con người vấn đề giáo dục con
người, vấn đề mưu cầu hạnh phúc của con người. Chống quan điểm duy vật tầm
thường, đồng thời chống ảo tưởng tôn giáo.
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
CHƯƠNG 2
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
2.1. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên
thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu
"Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại
hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách
mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học của con
người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành
công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài môi trường chính
trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ
với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng
mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá không giống nhau, trong đó nguồn nhân lực phải đủ về số
lượng mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động
lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Con người vừa là điểm khởi đầu vừa là sự kết thúc, đồng thời lại vừa là
trung tâm của sự biến đổi lịch sử, nói cách khác con người là chủ thể chân chính
của các quá trình xã hội. Trước đây trong sách báo con người được xem xét trên

phương diện "con người tập thể" "con người giai cấp" con người xã hội.
Ở đây tính tích cực của con người với tư cách là chủ thể được tập trung
chú ý khai thác và bồi dưỡng chủ yếu ở những phẩm chất cần cù, trung thành,
nhiệt tình, quyết tâm với cách mạng. Một quan niệm và một cách làm như vậy
đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và khôi phục kinh tế
sau chiến tranh. Tuy nhiên quan niệm và cách làm này cũng bộc lộ những hạn
chế nhất định trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Trong xã hội con người không chỉ tạo ra các hệ thống và các quá trình
khác nhau của xã hội (giai cấp, đảng phái, nhà nước, sản xuất, văn hoá), mà họ
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
còn làm người, chính họ đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử (suy
đến cùng) cũng chính là lịch sử phát triển cá nhân của con người, dù họ có nhận
thức được điều đó hay không. Từ đây cho phép tách ra một bình diện đặc biệt
trong việc xem xét "con người chủ thể" bình diện " con người cá nhân" có nghĩa
là nâng nhận thức lên một trình độ mới - quan niệm "cái cá nhân" là sự thể hiện
(hiện thân) một cách cụ thể sinh động của "cái xã hội" khi con người trở thành
chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường con người không chỉ nhận được sự
tích cực, mà còn cả những tác động tiêu cực của nó trước con người không chỉ
có những thời cơ và những triển vọng tươi sáng mà còn chứa đựng những thách
thức, nguy cơ, thậm chí là cả những tai hoạ khủng khiếp. (Thất nghiệp, ô nhiễm
môi trường, bệnh tật và những tệ nạn xã hội). Vì vậy trong mỗi con người luôn
có những "giằng xé" bởi những cực "chủ tớ" giàu nghèo, thiện ác, … trong điều
kiện này cần xem xét con người chủ thể với những phẩm chất nghề nghiệp
chuyên môn cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể của họ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc
toàn bộ đời sống xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao với người "chủ thể", ở đây chỉ
cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều quan trọng
hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng động
luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản

lý, kỹ thuật kinh doanh…
Như vậy trong điều kiện mới cần xem xét đánh giá bồi dưỡng "con người
chủ thể" không chỉ trên bình diện "con người - xã hội" mà còn trên cả bình diện
"con người cá nhân".
Hơn nữa là "con người - chuyên môn nghề nghiệp" nhất định (như nhà
lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp công nhân…). Bởi vì ấn dấu
đằng sau những chủ thể cụ thể này là lợi ích tương ứng với chúng. Chỉ có quan
niệm và cách làm như vậy chúng ta mới biết tác động vào đâu và tác động như
thế nào để nâng cao tích cực của chủ thể hành động.
Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên nó không phải là chủ thể biệt lập riêng
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
rẽ, mà là chủ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng hành
động. Nói cách khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tổng hợp những chủ thể
với những phẩm chất nhất định tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Nhưng cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này không phải là
tập hợp giản đơn số lượng người mà nó là sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể
người trong hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là những phẩm chất
vốn có bên trong của mỗi chủ thể và nó được nhân lên gấp đôi trong hoạt động
thực tiễn. Động lực công nghiệp hoá, hiện đại hoá là những gì thúc đẩy quá trình
vận động và phát triển. Vì vậy khi nói "nguồn lực với tính chất là động lực của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá" là chủ yếu nói đến những phẩm chất
tích cực của tổng hợp những chủ thể được bộc lộ trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy quá trình này vận động phát triển và thể hiện mặt
tích cực, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực tối đa của mình.
Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng chỉ có tác dụng và có ý thức
của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và
ý chí biết lợi dụng các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức
mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. các

nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và
chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người biết cách tác
động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người
lao động là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác.
Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận.
Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh
mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng phát triển về
chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó
là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát
triển như một quá trình vô tận. Xét trên bình diện cộng đồng nhân loại.
Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài
nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên.
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
Với bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản
xuất mới đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển
không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự
động hoá được xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao,
từ đó nói lên trình độ vô tận của con người.
Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được
vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và
đang trở thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp
phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). Ở những nước
này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn
lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc
gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con
người có thể tạo ra những máy móc "bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính
trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do
chính bàn tay khối óc con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến

đổi thần kỳ của mình.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho
thấy sự thành công của công nghiệp hoá hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào
hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc
vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Việc thực hiện và hoàn thành tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
có ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng hoàn thiện nhiều mặt.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ,
sản xuất, tăng năng suất lao động công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là thực
hiện xã hội hoá nhiều mặt, góp phần ổn định, ngày càng nâng cao đời sống vật
chất và văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các
ngành, các vùng trong phạm vi mỗi nước và các nước với nhau, nâng cao trình
độ quản lý kinh tế của nhà nước nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất.
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố
con người trong nền sản xuất và đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ
thuật cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có khả
năng thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố
con người.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và
tăng cường tiềm lực quốc phòng khả năng đảm bảo an ninh và quốc phòng, các
yếu tố vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá có
tác dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phòng.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn tạo nhiều khả năng cho việc thực hiện
tốt sự phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học, công nghệ văn hoá xã
hội v.v
2.2. Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa của
đất nước ta hiện nay
Mục tiêu "Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật

chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ của lực lượng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng an ninh giữ vững, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Đó
trước hết là cuộc cách mạng con người vì con người và do con người. Bởi khi
chúng ta nói về những ưu việt của chủ nghĩa xã hội thì những ưu việt đó không
do ai đưa đến. Đó phải là kết quả những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân
ta với những con người phát triển cả về trí lực về cả khả năng lao động và tính
tích cực chính trị - xã hội và đạo đức tình cảm trong sáng.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-2-
1930) đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý nhất
chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ
ta". Trên thực tế trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiều việc theo
hướng đó. Sự chăm lo cho hạnh phúc con người chưa có nhiều thành công như
mong muốn, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho những người lao
động còn thấp, song phần nào đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, của những
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
người lao động chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân". Việc gì có lợi cho dân, ta
phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh" đã được Đảng ta
đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ Trung tâm. Lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh - "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người"
và "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa" - đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
Đảng ta với tư cách là Đảng cầm quyền ngay từ đầu mọi chủ trương, chính sách,
đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố
con người.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội" Đảng ta đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy
nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời

sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với
chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội". Định
hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì con người, của
mục tiêu phát triển con người Việt Nam, toàn diện trong công cuộc xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi
chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá tị lớn lao và có ý
nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn
của cải vật chất và văn hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách
nghĩ, cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con
người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tính tất yếu
khách quan của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cách mạng con người phải được nhận
thức là hai mặt thống nhất, không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
không thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không phát
triển con người Việt Nam toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã hội ta
thành một xã hội "công bằng, nhân ái", "tốt đẹp và toàn diện" để bồi dưỡng và
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng
bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội và chúng ta "tăng trưởng nguồn
lực con người khi hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ
sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy
những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc" chỉ có trên cơ sở đó khi phát triển
nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường chúng ta mới có thể tránh được nguy
cơ tha hoá, không xa rời những giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân
tộc, đánh mất bản thân mình trở thành cái bóng của người khác.
Nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì mục tiêu phát triển con người
toàn diện thì con người ở đây không chỉ hiểu với tư cách là người lao động sản
xuất mà còn với tư cách là công dân của xã hội, một cá nhân trong tập thể, một

thành viên trong cộng đồng dân tộc, một con người trí tuệ trước vận mệnh quốc
gia. Đó không chỉ là đội ngũ những người lao động có năng suất cao những nhà
khoa học giỏi, các chuyên gia kỹ thuật, các nhà doanh nghiệp biết làm ăn, những
nhà quản lý, lãnh đạo có tài, mà đó còn là hàng triệu những công dân yêu nước,
ý thức được cuộc sống đói nghèo và nguy cơ tụt hậu để cùng nhau gắn bó vì sự
nghiệp chung.
Qua sự phân tích trên có thể khẳng định rằng bước sang thời kỳ phát triển
mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện
đại làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh, bền vững phải gắn tăng trưởng
kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội. Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì sự nghiệp
phát triển con người, thì con người phải được coi là giá trị tối cao.
2.3. Nguồn lực con người là yếu tố quyết định cho sự nghiệp công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ thành công hay thất bại nó chỉ được trả
lời khi yếu tố con người được đáp ứng. Việc định hướng đi vào sự phát triển con
người đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều. Nghiên cứu con người để phát triển con
người, phát triển con người để đáp ứng các sự phát triển khác. Sự phát triển con
người quyết định sự phát triển của mọi mặt. Sự thách thức đối với sự phát triển
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
con người đó là quá trình công nghiệp hoá, do đó con người cần phải được chăm
lo đào tạo về trí lực và thể lực.
Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người trước hết phải là trí tuệ, bởi "tất
cả những gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc
của nó", tức nói cách khác đi là trí tuệ làm chủ con người trình độ trí tuệ phản
ánh qua trình độ học vấn và tài năng sáng tạo. Nó biểu hiện ở khả năng áp dụng
những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật tiên tiến, ở sự nhạy
bén, thích ứng nhanh và làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại, có kỹ năng
lao động nghề nghiệp, có năng lực hoạch định chính sách lựa chọn giải pháp và

tổ chức thực hiện.
Sau trí tuệ là yếu tố sức khoẻ - yêu cầu không thể thiếu được đối với
người lao động. Sức khoẻ là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ,
là phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn để biến tri
thức thành sức mạnh vật chất.
Sản xuất công nghiệp đòi hỏi ở người lao động hàng loạt các phẩm chất
như có tính kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, tích cực bảo
dưỡng thiết bị máy móc, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp
có lương tâm nghề nghiệp có trách nhiệm cao đôí với sản phẩm.
Mặt khác quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, còn đụng chạm đến
vấn đề phức tạp trong quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Đây là vấn đề cấp
bách sống còn không chỉ với mỗi quốc gia mà còn đối với nền văn minh nhân
loại. Vì vậy sự hiểu biết và trách nhiệm cao trước vấn đề môi trường cũng là
một năng lực và phẩm chất quan trọng của người lao động trong quá trình tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khó có thể đạt được kết quả tốt
nếu không có những công dân yêu nước ham học hỏi, cần cù lao động và sáng
tạo có tinh thần hợp tác, ý chí tự chủ vươn lên và lòng tự trọng dân tộc cao
không cam chịu nghèo nàn, lạc hậu, có hiểu biết và tôn trọng pháp luật, đạo lý,
biết kết hợp hài hoà yếu tố truyền thống và hiện đại… Điều mà chúng ta cần
phải học tập nhiều nước đã đi trước ta một bước, ở các nước đó việc coi trọng
giáo dục là quốc sách hàng đầu bởi vì sự yếu kém về trí tuệ, coi thường tài năng
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
và đầu óc hẹp hòi, đố kỵ, thờ ơ trước tương lai của cộng đồng dân tộc sẽ là lực
cản nguy hại đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.4. Hiện trạng và giải pháp nguồn lực con người ở đất nước ta
Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, chúng ta phải sử dụng đúng nguồn lực trong đó nguồn lực con người là
nguồn lực quan trọng nhất. Muốn sử dụng tốt nguồn lực này chúng ta phải hiểu
rõ thực trạng và tiềm năng của nó. Khi đó chúng ta mới có thể khắc phục và phát

triển nguồn nhân lực được.
Nhìn thực trạng nguồn lực nước ta hiện nay không thể không có những
băn khoăn. Bên cạnh những ưu thế như, lực lượng lao động dồi dào (hơn 53
triệu lao động). Con người Việt Nam cần cù chịu khó, thông minh và sáng tạo
có khả năng vận dụng và thích ứng nhanh, thì những hạn chế về mặt chất lượng
người lao động, sự bất hợp lý về phân công lao động được đào tạo trong các lĩnh
vực sản xuất và những khó khăn trong phân bổ dân cư cũng không phải là nhỏ.
Đại bộ phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người đào tạo mới
chỉ chiếm khoảng 15.4%, nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động và cán
bộ có tay nghề và trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao trong tổng số người lao động
chỉ hơn 1,65% có trình độ cao đẳng trở lên 30% tốt nghiệp phổ thông trung học,
50% chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Mặt khác mặt bằng dân trí còn thấp, số
năm đi học của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên mới đạt bình quân 4,5 năm. Điều
đáng kể lo ngại và đau đầu nhất của nhà nước ta đó là nạn mù chữ, tới nay nước
ta 3% dân số mù chữ. Mặt khác người lao động Việt Nam còn hạn chế về thể
lực, sự phát triển về phương diện sinh lý và thế lực dường như còn chững lại,
hơn nữa người lao động nước ta nói chung văn hoá còn kém, lao động công
nghiệp quen theo kiểu sản xuất nhỏ và lao động giản đơn.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường thực trạng đội ngũ cán
bộ tri thức Việt Nam đặc biệt là tri thức cao đang đặt ra một vấn đề được giải
quyết, sự già hoá của đội ngũ trí thức, trong các ngành khoa học trọng yếu tuổi
bình quân của tiến sỹ là 52,8, phó tiến sỹ 48,1, giáo sư 59,5, phó giáo sư 56,4.
Cấp viện trưởng là 55 (số liệu này cho tới nay đã thay đổi). Như vậy đến năm
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
2001 hơn 80% số người có học hàm, học vị hiện nay đã đến tuổi về hưu. Điều
đó gây nên sự hẫng hụt cán bộ khoa học kế cận.
Trong khi số người có học vấn cao giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại
học và cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên phải chăng chúng ta đã
quá thừa những người có học vấn chắc chắn là không. Sự thừa đó chính là tác
động của mặt trái của kinh tế thị trường. Rõ ràng sự chậm cải tạo giáo dục và

nội dung đào tạo không theo kịp những đòi hỏi của người sử dụng đã dẫn đến sự
lãng phí trong đầu tư cho giáo dục, lực lượng lao động ở nước ta hiện nay rất
hạn chế về chất lượng nhất là trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng lao
động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp. Thêm vào đó việc sử dụng và
khai thác số lao động, đã được đào tạo, có trình độ lại không hợp lý và kém hiệu
quả. Nếu chúng ta không có một nỗ lực phi thường bằng hành động thực tế
trong việc xây dựng và sử dụng nguồn lực lao động thì sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá khó có thể thực hiện được thành công; và đó cũng là lý do vì
sao nhiều nhà khoa học kêu gọi phải tiến hành một cuộc cách mạng về con
người mà thực chất là cách mạng về chất lượng lao động mỗi bước tiến của
"cách mạng con người" sẽ đem lại những thành tựu to lớn cho quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá, như chúng ta đã biết "cách mạng con người" với công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là hai mặt của một quá trình phát triển thống nhất, giữa
chúng có một quan hệ biện chứng lần nhau.
Để tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng trong nguồn lực con người
cần có hàng loạt những giải pháp thích ứng nhằm phát triển tốt yếu tố của con
người trong sự nghiệp đi lên của đất nước.
Chăm sóc đào tạo phát huy nguồn lực con người phục vụ cho công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới vì công nghiệp hoá, hiện đại
hoá tập trung thành vấn đề quan trọng bậc nhất trong "kết cấu hạ tầng xã hội,
kinh tế" tức là một trong những tiền đề cơ bản để phát triển xã hội, đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội VIII của Đảng ta là đại hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá mở ra
bước ngoặt lịch sử đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển toàn diện. "Lấy
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững". Vì vậy cần được tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát
huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực
lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát

triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác cạnh tranh trong kinh
tế thị trường mở cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức
mạnh của con người và các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Phải thể hiện
thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ phận nhân tài trên nền dân
trí với cốt lõi là nhân cách nhân phẩm đậm đà bản sắc dân tộc của từng người,
từng nhà cộng đồng, giai cấp và cả dân tộc.
Nói đến nguồn lực con người là nói đến sức mạnh trí tuệ tay nghề.
Phương hướng chủ yếu của đổi mới giáo dục - đào tạo là phục vụ đắc lực cho
công cuộc phát triển đất nước, tức là cuối cùng phải tạo ra được nguồn lực con
người. Các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo nguồn nhân
lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, công nghệ coi như báo cáo chính
trị đại hội VIII đã chỉ ra. Phải mau chóng làm cho khoa học và công nghệ trở
thành nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giáo dục đại học phải kết hợp
với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo
đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá với
diện đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý tới mũi nhọn - có chính sách phát hiện bồi
dưỡng và sử dụng người tài mau chóng tăng cường đội ngũ nhân lực có trình độ
và năng lực cao, từ các nghệ nhân làm các nghề truyền thống đến các chuyên gia
công nghệ cao. Giáo dục và đào tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học kỹ thuật công
nghệ mới có thể đóng góp xứng đáng vào phát huy nguồn lực con người, tuy
nhiên một yếu tố mà ngày nay con người cần phải hoàn thiện đó là. Cần coi
trọng mặt đạo đức nhân cách của nguồn lực con người.
Muốn có nguồn lực con người đáp ứng được công cuộc đổi mới giáo dục
nhà trường cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát
động một cao trào học tập trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo
nên những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp công nghiệp
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
hoá, hiện đại hoá, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vậy mọi chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi

dưỡng và phát triển nhân tố con người.
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM CỦA BẢN THÂN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu duy nhất để đưa nước
ta từ một nước kém phát triển đạt được những thành tựu to lớn cả những mặt
kinh tế cũng như xã hội nhưng để thành công quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hoá, chúng ta phải biết tận dụng các nguồn lực sẵn có trong nước cũng như nước
ngoài. Một trong những nguồn lực đó là nguồn nhân lực, con người không
những chỉ có vai trò về sự vận đồng và phát triển của xã hội mà trong điều kiện
nay, con người là nguồn lực cho quá trình đổi mới đất nước. Sự phát triển vượt
bậc về mặt trí tuệ. Đồng thời trí tuệ còn giúp con người khám phá ra khoa học
kỹ thuật giúp con người phát triển lực lượng sản xuất từ giản đơn đến phức tạp
để từ đó biến con người từ lạc hậu sang văn minh như ngày nay. Còn đối với
công nghiệp hoá, hiện đại hoá con người là nguồn lực chủ thể quan trọng trong
suốt quá trình tiến hành. Bởi tiềm năng con người với trí tuệ và lao động định
hướng, trí tuệ đó đã và đang là sản phẩm quý giá nhất của nguồn lực, quyết định
sự tiến bộ của mỗi quốc gia.
Làm thế nào để nhanh chóng tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng
trong nguồn lực con người? Để giải quyết vấn đề này cần phải có hàng loạt các
giải pháp thích ứng nhằm phát huy tốt yếu tố con người. Với bản thân tôi cũng
có những ý kiến nhằm nâng cao trình độ nhận thức và phát huy tối đa nguồn lực
con người thì cần phải đề cập hai vấn đề khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Thứ nhất: Quan tâm đúng mức tới nhu cầu và lợi ích của người lao động
trong sản xuất cũng như trong hoạt động xã hội, con người luôn luôn bị kích
thích, bị thôi thúc bởi hàng loạt các động lực ở nước ta hiện nay, nền kinh tế tuy
đã thoát khỏi khủng hoảng và bước vào thời kỳ phát triển mới, nhưng đời sống

vật chất của người lao động còn khó khăn, do đó cần có sự quan tâm đúng mức
tới nhu cầu và lợi ích của người lao động mà trước hết là lợi ích kinh tế. Trước
đây chúng ta đã có lúc chúng ta nặng về kêu gọi nhân dân “ thắt lưng buộc
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
bụng” để xây dựng chủ nghĩa xã hội mà ít chú ý đến lợi ích kinh tế của họ cho
nên ở chừng mực nhất định, chúng ta chẳng những đã không kích thích người
lao động, hăng say sản xuất, mà còn có khi ngược lại, làm cho họ quay lưng lại
với sản xuất chúng ta đã quên rằng nhu cầu thiết thực trước mắt bảo đảm sự tồn
tại của người lao động chính là những động lực to lớn thúc đẩy lợi ích, kinh tế
cho người lao động làm một khâu rất quan trọng tạo ra động lực phát huy tính
năng động.
Thứ hai: Xây dựng môi trường xã hội, tạo điều kiện để phát huy yếu tố
con người. Con người là chủ thể, đồng thời con người cũng là sản phẩm của sự
vận động xã hội, của chế độ xã hội. Vì vậy muốn phát huy được yếu tố con
người cần phải có môi trường thích ứng. Việc giải phóng lực lượng sản xuất
được thực hiện trước tiên và chủ yếu nhất là ở khâu xoá bỏ những cơ chế đã và
đang kìm hãm tính tích cực chủ động sáng tạo của người lao động, do đó xây
dựng môi trường là tiềm đề cho xây dựng con người mới trong công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba: Cần phải phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cần
huy động mọi nguồn lực đầu tư, tăng quy mô và chất lượng cho việc đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực. Công tác giáo dục và đào tạo cần phải phù hợp với
yêu cầu và thực tế phát triển của nền kinh tế. Vì thế, ngành giáo dục – đào tạo
phải không ngừng cải cách chương trình, nội dung cũng như phương pháp giảng
dạy ở tất cả các cấp, mà đặc biệt quan tâm đến giáo dục ở bậc đại học và dạy
nghề cho phù hợp với thực tế. Đào tạo nghề cần căn cứ trên định hướng phát
triển kinh tế, định hướng và quy hoạch phát triển các ngành, coi trọng công tác
dự báo nhu cầu lao động theo các trình độ, chuyên môn nhằm tránh khỏi tình
trạng thừa ở một số ngành này, nhưng lại thiếu ở một số ngành khác.
Thực hiện phương châm giáo dục và đào tạo không ngừng, suốt đời. Việc

giáo dục và đào tạo không chỉ trong quá trình học tập trên ghế nhà trường, mà
phải học ở cả thực tế, học ở ngoài xã hội. Không ngừng mở rộng giao lưu quốc
tế nhằm học hỏi các kinh nghiệm, nâng cao kiến thức. Người lao động không chỉ
giải quyết chuyên sâu về một ngành nghề mà còn phải biết các kiến thức tổng
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
hợp khác như : ngoại ngữ, vi tính, giao tiếp ngoài xã hội, các kỹ năng mềm
khác…
Nghiên cứu ban hành các chính sách phân luồng học sinh ngay từ khi tốt
nghiệp phổ thông trung học như quy định đối tượng được phép tham gia thi vào
các trường đại học, cao đẳng thông qua điểm học tập; khuyến khích tham gia
vào các trường dạy nghề bằng các học bổng từ ngân sách nhà nước …
Tiểu luận môn Triết Học –Chương trình cao học
CHƯƠNG IV
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội do con người, vì con người. Do vậy hình thành mối
quan hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát triển xã
hội nói chung trong xã hội, xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề không thể
thiếu được của thế giới quan Mác - Lênin.
Con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể, trong
sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Nếu chỉ dừng lại ở một số trước tính sinh học của con người thì không thể
giải thích được bản chất của con người, con người là một thực thể đặc biệt hoạt
động có ý thức, có khả năng sáng tạo cho mình. Từ tự nhiên và chính trong quá
trình hoạt động đó những quan hệ xã hội được hình thành có tác động mạnh mẽ
tới sự hình thành nhân cách, bản chất con người Mác viết “Con người là tổng
hoà của những quan hệ xã hội”.
Con người là chủ thể lịch sử, sáng tạo và lịch sử. Trong Cách Mạng
XHCN con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích
của một chính sách kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội chủ nghĩa là xây dựng một
xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh thần.

Việt Nam đã làm được điều đó hay chưa; cho tới nay tuy chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể nhưng đời sống vật chất tinh thần của đại đa số,
người dân còn thiếu. Do vậy lý luận chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và quan
điểm chủ nghĩa Mác Lênin về con người là kim chỉ nam để hướng đất nước ta
cần phải đi đâu, làm gì và làm như thế nào, để thực hiện thành công công cuộc
công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước, có như vậy chúng ta mới vượt qua được
cái ngưỡng của nghèo nàn và lạc hậu

×