Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận môn phương pháp nghiên cứu khoa học phân tích quá trình phát triển của phần mềm internet explorer và đưa ra các nguyên lý sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.8 KB, 19 trang )

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
ĐỒ ÁN MÔN HỌC:
PHƯƠNG PHÁP
PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN CỦA PHẦN MỀM
INTERNET EXPLORER VÀ ĐƯA
RA CÁC NGUYÊN LÝ SÁNG TẠO
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Đề tài:
GVHD: GS. TSKH. HOÀNG VĂN
KIẾM
HVTH: VŨ QUỐC HƯNG

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
Mục lục
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
Mở đầu
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động then chốt hàng đầu trong những ngành
khoa học. Kết quả từ Nghiên cứu khoa học là những phát hiện mới về kiến thức, về
bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới, sáng tạo phương pháp và
phương tiện kỹ thuật mới có giá trị cao.
Phải thừa nhận rằng nghiên cứu khoa học là công việc khó khăn, đòi hỏi sự
đam mê và lòng quyết tâm. Nghiên cứu khoa học là thực hiện phương châm học đi đôi
với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Thông qua nghiên cứu khoa học giúp chúng ta


tự tin hơn, có bản lĩnh khi hội nhập với thực tế. Nghiên cứu khoa học còn giúp chúng
ta hiểu rõ hơn lý thuyết, kiểm chứng những vấn đề của cuộc sống.
Nội dung bài thu hoạch này chủ yếu đi vào tìm hiểu quá trình phát triển của
một ứng dụng nào đó, cụ thể là chương trình internet explorer của Microsoft.Và từ đó
rút ra những quy tắc sáng tạo dựa vào 40 nguyên tắc sáng tạo cơ bản của giáo sư
Alshuller - người Nga là kỹ sư, nhà sáng chế, nhà văn viết truyện khoa học viễn
tưởng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
I. Giới thiệu
Chắc hẳn ai cũng biết đến phần mềm duyệt web nổi tiếng của Microssoft là
Internet Explorer (IE). Tuy có trải qua nhiều sóng gió, gặt hái được cả thất bại lẫn
thành công, nhưng đây từng là phần mềm duyệt web phổ biến nhất trên thế giới.
IE được phát hành lần đầu tiên với vai trò là một gói bổ sung Plus! for
Windows 95 vào năm 1995. Các phiên bản sau đó cho phép tải về miễn phí, hoặc nằm
trong các bản service pack, và kèm trong các bản phát hành dịch vụ OEM của
Windows 95 và các phiên bản Windows sau đó.
Các phiên bản khác có mặt từ cuối thập niên 1990 bao gồm một phiên bản
OEM nhúng có tên gọi Internet Explorer for Windows CE (IE CE) có trong các nền
tảng trên WinCE và hiện dựa trên IE6. Internet Explorer dành cho Pocket PC, sau đó
được đổi tên thành Internet Explorer Mobile dành cho Windows Mobile cũng đã được
phát triển, và vẫn tiếp tục phát triển cùng với các phiên bản dành cho máy tính để bàn
với nhiều chức năng hơn.
IE đã gắn liền với Microsoft Windows từ khi mới chập chững những bước đầu
tiên và cho đến tận bây giờ IE là một phần không thể thiếu trong bộ cài đặt Windows.
Ngoài chức năng duyệt web thông thường như các web browser khác, IE còn tích hợp
để người dúng có thể tùy chỉnh một số thành phần liên quan đến mạng trong chính nó
II. Phân tích quá trình phát triển
Dự án Internet Explorer được bắt đầu vào mùa hè năm 1994 bởi Thomas

Reardon và sau đó do Benjamin Slivka làm trưởng nhóm, lấy ý tưởng mã nguồn từ
Spyglass, Inc. Mosaic, một trình duyệt web thương mại có mặt từ sớm với hình thức
gắn liền với trình duyệt tiên phong Mosaic của NCSA. Vào cuối năm 1994, Microsoft
đã xin được phép từ Spyglass Mosaic với sự hỗ trợ chi phí hàng quý cùng với một số
phần trăm trong lợi nhuận thu được từ các sản phẩm không phải Windows của
Microsoft để đổi lấy phần mềm. Mặc dù có tên tương tự như Mosaic của NCSA,
Spyglass Mosaic dùng không nhiều mã nguồn của NCSA Mosaic.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
1. Internet Explorer 1
Ra mắt vào tháng 8 năm 1995. Nó là phiên bản chỉnh sửa của Spyglass Mosaic
mà Microsoft đã có phép, giống như nhiều công ty khác bắt đầu việc phát triển trình
duyệt cho riêng mình, từ Spyglass Inc. Nó đi kèm với Microsoft Plus! for Windows 95
và bản phát hành OEM của Windows 95. Phiên bản này được cài đặt thành một phần
của Internet Jumpstart Kit trong Plus!. Nhóm Internet Explorer bắt đầu khoảng sáu
người trong giai đoạn phát triển đầu tiên. Internet Explorer 1.5 được phát hành vài
tháng sau đó dành cho Windows NT và bổ sung tính năng hỗ trợ hiển thị bảng biểu cơ
bản. Tuy nhiên, với việc đưa kèm miễn phí nó vào hệ điều hành, họ không phải trả
tiền bản quyền cho Spyglass Inc., dẫn đến kiện cáo làm tiêu tốn hàng triệu đô la Mỹ
2. Internet Explorer 2
Được phát hành dành cho Windows 95, Windows NT 3.5, và NT 4.0 vào tháng
11 năm 1995 (sau bản 2.0 beta vào tháng 10). Nó hỗ trợ SSL, cookie, VRML, RSA,
và nhóm tin Internet. Phiên bản 2 cũng là bản phát hành đầu tiên dành cho Windows
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
3.1 và Macintosh System 7.0.1 (PPC hay 68k), mặc dù phiên bản Mac không được
phát hành cho đến tháng 1 năm 1996 dành cho PPC, và tháng 4 dành cho 68k. Phiên
bản 2.1 dành cho Mac ra mắt vào tháng 8 năm 1996, mặc dù vào thời điểm đó

Windows đã lên đến phiên bản 3.0. Phiên bản 2 được kèm trong Windows 95 OSR 1
và Internet Starter Kit for Windows 95 của Microsoft vào đầu năm 1996. Phần mềm
phát hành với 12 ngôn ngữ trong đó có tiếng Anh nhưng nó mở rộng ra đến 24, 20, và
9 lần lượt cho các phiên bản dành cho Win 95, Win 3.1 và Mac vào tháng 4 năm
1996. Bản 2.0i hỗ trợ bộ ký tự byte kép.
3. Internet Explorer 3
Phát hành vào tháng 8 năm 1996, và tiếp tục nổi tiếng hơn người tiền nhiệm.
Nó được phát triển mà không dùng mã nguồn Spyglass, mặc dù vẫn ghi công cho
"công nghệ" Spyglass trong tài liệu của chương trình. Internet Explorer 3 là trình
duyệt lớn đầu tiên có hỗ trợ CSS, mặc dù còn hạn chế. Được phát hành vào ngày 13
tháng 8 năm 1996, nó cũng cho ra mắt tính năng hỗ trợ ActiveX controls, Java applet,
đa phương tiện nhúng, và hệ thống PICS dành cho nội dung siêu dữ liệu (metadata).
Phiên bản 3 cũng được đóng gói chung với Internet Mail and News, NetMeeting, và
phiên bản đầu tiên của Windows Address Book, và nó cũng kèm trong Windows 95
OSR 2. Phiên bản 3 đã chứng tỏ mình là phiên bản nổi tiếng hơn của Internet
Explorer, nhờ sự chăm chút kỹ lưỡng cho nó. Trong nhiều tháng sau khi ra mắt, một
số lỗ hổng bảo mật và riêng tư được các nhà nghiên cứu và hacker tìm thấy. Phiên bản
này của Internet Explorer là phiên bản đầu tiên có logo "chữ e màu xanh". Nhóm
Internet Explorer bao gồm 100 người trong suốt quá trình 3 tháng phát triển. Lỗ hổng
bảo mật IE lớn đầu tiên, Princeton Word Macro Virus Loophole, được khám phá vào
ngày 22 tháng 8 năm 1996 trong IE3. Tính năng tương thích ngược xử lý bằng cách
cho phép những người nào nâng cấp lên IE3 vẫn có thể sử dụng IE trước đó, vì quá
trình cài đặt đã chuyển phiên bản trước vào thư mục riêng rẽ.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
4. Internet Explorer 4
Phát hành vào tháng 9 năm 1997 đào sâu hơn mức độ tích hợp giữa trình duyệt
web và hệ điều hành phía dưới. Việc cài đặt phiên bản 4 trên máy Windows 95 và
Windows NT 4 và chọn Windows Desktop Update có thể dẫn đến việc Windows

Explorer truyền thống bị thay bằng một phiên bản trông giao diện như trình duyệt
web, cũng như màn hình nền Windows cũng trở thành web được thông qua Active
Desktop. Tuy nhiên, sự tích hợp với Windows là chủ đề của rất nhiều những chỉ trích
về đóng gói. Tùy chọn này không còn tồn tại với các bản cài đặt dành cho các phiên
bản sau của Internet Explorer nhưng vẫn không bỏ ra khỏi hệ thống được nếu đã cài
đặt rồi. Internet Explorer 4 ra mắt sự hỗ trợ Group Policy, cho phép các công ty cấu
hình và khóa nhiều chức năng cấu hình của trình duyệt. Internet Mail and News được
thay bằng Outlook Express, và Microsoft Chat và một phiên bản NetMeeting cải tiến
cũng được đính kèm. Phiên bản này cũng kèm trong Windows 98. Các tính năng mới
được thêm vào cho phép người dùng lưu và truy xuất các nội dung đăng trong các
mẫu bình luận mà đến nay vẫn không được sử dụng. Internet Explorer 4.5 có thêm các
tính năng mới như mã hóa 128-bit dễ dàng hơn. Nó cũng có sự phát triển vượt bậc về
độ ổn định so với các phiên bản trước, đặc biệt là phiên bản 68k hoàn toàn không bị
treo.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
5. Internet Explorer 5
Phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 1999, và sau đó được kèm trong Windows
98 Second Edition và đóng gói chung với Office 2000, là một phiên bản nổi bật khác
có hỗ trợ văn bản hai hướng, ký tự ruby, XML, XSLT và khả năng lưu trang web dưới
định dạng MHTML. IE5 được đóng gói với Outlook Express 5. Ngoài ra, với việc
phát hành Internet Explorer 5.0, Microsoft cũng phát hành phiên bản
XMLHttpRequest đầu tiên, khai sinh ra Ajax (mặc dù thuật ngữ "Ajax" vẫn không
xuất hiện cho đến vài năm sau). Nó là phiên bản cuối cùng ở dạng 16-bit. Internet
Explorer 5.01, một phiên bản sửa lỗi, được phát hành vào tháng 12 năm 1999.
Windows 2000 có phiên bản này. Internet Explorer 5.5 tiếp nối vào tháng 7 năm 2000,
tăng cường khả năng xem thử trước khi in, hỗ trợ chuẩn CSS và HTML, và API cho
lập trình viên; phiên bản này đi cùng với Windows Me. Phiên bản 5.5 cũng hỗ trợ mã
hóa 128-bit. Tuy nhiên, phiên bản 5 là phiên bản cuối cùng dành cho Mac và UNIX.

Phiên bản 5.5 là phiên bản cuối cùng có Chế độ Tương thích, cho phép Internet
Explorer 4 có thể chạy song song với 5.x. Nhóm IE lúc này đã lên đến hơn 1000
người vào năm 1999, tiêu tốn 100 triệu USD mỗi năm.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
6. Internet Explorer 6
Phát hành vào ngày 27 tháng 8 năm 2001, một vài tháng trước khi Windows
XP ra mắt. Phiên bản này bao gồm cải tiến DHTML, các khung chứa nội dung, và hỗ
trợ một phần CSS cấp 1, DOM cấp 1 và SMIL 2.0. Bộ máy MSXML cũng được cập
nhật lên phiên bản 3.0. Các tính năng mới khác bao gồm một phiên bản mới của
Internet Explorer Administration Kit (IEAK), thanh Trình diễn, tích hợp Windows
Messenger, thu thập lỗi, tự thay đổi kích thước hình ảnh, P3P, và trải nghiệm giao
diện mới giống như phong cách hình ảnh Luna của Windows XP, khi dùng trong
Windows XP. Internet Explorer 6.0 SP1 có thêm những cải tiến bảo mật và phát hành
cùng lúc với phiên bản vá XP SP1. Vào năm 2002, giao thức Gopher đã bị tắt và
không còn được hỗ trợ trong Internet Explorer 7. Internet Explorer 6.0 SP1 phát hành
vào ngày 6 tháng 8 năm 2004 dành cho Windows XP SP2 và đưa nhiều cải tiến bảo
mật và các nút có màu mới trên giao diện. IE6 đã cập nhật biểu trưng "chữ e màu
xanh" sang màu xanh nhạt hơn và có hình dáng 3 chiều hơn.
7. Internet Explorer 7
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
Phát hành vào ngày 18 tháng 10 năm 2006. Nó gồm các sửa lỗi, cải tiến hỗ trợ
các tiêu chuẩn web, duyệt theo thẻ với tính năng xem trước và quản lý thẻ, một hộp
tìm kiếm tích hợp nhiều bộ máy, bộ đọc mẩu tin mạng, hỗ trợ Tên miền quốc tế hóa
(IDN), và bộ lọc chống lừa đảo. Với IE7, Internet Explorer đã được tách ra khỏi
Windows Shell - không như các phiên bản khác, Internet Explorer ActiveX control
không còn đặt trên tiến trình của Windows Explorer, mà chạy trên một tính trình

Internet Explorer riêng biệt. Nó được kèm trong Windows Vista và Windows Server
2008, và có thể tải về cho Windows XP Service Pack 2 trở về sau, và Windows Server
2003 Service Pack 1 trở về sau. Bản phát hành nguyên thủy của Internet Explorer 7
đòi hỏi máy tính phải vượt qua quy trình kiểm tra Windows Genuine Advantage trước
khi cài đặt, nhưng vào ngày 5 tháng 10 năm 2007, Microsoft đã bỏ yêu cầu này. Theo
như một số thống kê cho thấy, đến giữa năm 2008, Internet Explorer 7 đã vượt qua
Internet Explorer 6 về số người sử dụng.
8. Internet Explorer 8
Phát hành vào ngày 19 tháng 3 năm 2009. Nó đã được phát triển trễ nhất là từ
tháng 8 năm 2007. Vào ngày 5 tháng 3 năm 2008, bản beta công cộng đầu tiên (Beta
1) được phát hành cho công chúng. Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008, bản beta công
cộng thứ hai (Beta 2) được phát hành. Nó hỗ trợ Windows XP SP2 và SP3, Windows
Server 2003 SP2, Windows Vista và Windows Server 2008 trên cả kiến trúc 32-bit lẫn
64-bit. Internet Explorer 8 (IE8) RC1 được phát hành vào ngày 26 tháng 1 năm 2009.
Bảo mật, dễ dùng, và những cải tiến về RSS, CSS, và hỗ trợ Ajax là những ưu tiên của
Microsoft dành cho IE8. Nó tương thích chặt hơn với các tiêu chuẩn web, gồm có
tương thích đầy đủ với Cascading Style Sheets 2.1. Tất cả các thay đổi này cho phép
Internet Explorer 8 vượt qua kiểm tra Acid2. Tuy nhiên, để ngăn ngừa các vấn đề về
tương thích, IE8 cũng kèm cả khả năng hiển thị kiểu IE7. Các trang không muốn
chuyển đổi giao diện theo IE8 có thể tắt sự thay đổi này bằng cách thêm một thẻ vào
phần HEAD của trang web. IE8 cũng kèm thêm nhiều cải tiến đối với JavaScript cũng
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
như tăng cường hiệu năng, mặc dù nó vẫn chưa vượt qua được kiểm tra Acid3, với
phiên bản 8.0 RC1 ghi được 20/100 điểm. Nó bao gồm sự hỗ trợ Accelerators - cho
phép hỗ trợ ứng dụng web được kích hoạt mà không cần gọi tường minh - và
WebSlices - cho phép các thành phần trang được đăng ký và theo dõi từ một Favorites
Bar có sẵn. Các tính năng khác gồm có tính năng duyệt riêng tư InPrivate, và bộ lọc
lừa đảo SmartScreen.

9. Internet Explorer 9
Phát hành vào ngày 14 tháng ba năm 2011 . VIệc phát triển Internet Explorer 9
bắt đầu ngay sau khi phát hành Internet Explorer 8. Microsoft lần đầu tiên công bố
Internet Explorer 9 tại PDC 2009, và chủ yếu là nói về lợi thế tăng tốc phần cứng
trong DirectX để cải thiện hiệu suất của các ứng dụng web và chất lượng của web
typography. Tại MIX 10, Microsoft đã công khai phát hành các Platform Preview đầu
tiên cho Internet Explorer 9 (một khung cho IE9 mà không chứa bất kỳ giao diện
người dùng nào). Việc phát hành của bản trình duyệt cuối cùng, Microsoft phát hành
trước bản cập nhật nền tảng , để cải thiện tính năng biên dịch JavaScript (phiên bản
32-bit) Các phiên bản beta công khai đầu tiên được phát hành tại một sự kiện đặc
biệt ở San Francisco. Được phát hành vào ngày 10 tháng 2 năm 2011 , với các tính
năng cải thiện hiệu suất, cải tiến giao diện người dùng, và thêm các tiêu chuẩn hỗ trợ.
Phiên bản cuối cùng đã được phát hành ngày 14 tháng Ba năm 2011.
IE9 chỉ hỗ trợ trên Windows Vista SP2 , Windows 7 và Windows Server 2008.
Nó hỗ trợ một số CSS 3, và hỗ trợ ICC v2 hoặc color v4 thông qua hệ thống Windows
Color. Phiên bản 32-bit có hiệu suất xử lý JavaScript nhanh hơn, do một công cụ
JavaScript mới có tên là "Chakra" xử lý. Nó cũng có tính năng tăng tốc phần cứng đồ
họa sử dụng Direct2D, DirectWrite, media Foundation, Windows Imaging
Component, XPS print. IE9 cũng hỗ trợ video HTML5 và các thẻ âm thanh và các
định dạng Web Open Font. IE9 ban đầu được 95/100 điểm trên hệ thống thử nghiệm
Acid3 , nhưng đã ghi được 100/100 điểm kể từ bản cập nhật vào tháng 09/2011.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
IE đã được loại bỏ khỏi Windows 7 và Windows Server 2008 R2 ở châu Âu,
nhưng Microsoft vẫn hỗ trợ đóng gói nó, với một màn hình cho phép người dùng lựa
chọn số trình duyệt web (kể cả IE).
Hiện tại IE đã có trên Xbox 360 với sự hỗ trợ Kinect, tính đến tháng 10/2012.
10. Internet Explorer 10
Sau gần 2 năm ra mắt bản thử nghiệm sơ khai đầu tiên, Microsoft đã chính thức

phát hành trình duyệt web Internet Explorer 10 phiên bản mới nhất dành cho hệ điều
hành Windows 7, với sự cải tiến đáng kể về hiệu suất và mức độ an toàn.
Với phiên bản mới nhất Internet Explorer 10, Microsoft đã làm thay đổi hoàn
toàn suy nghĩ của người dùng khi đã có một sự nâng cấp ấn tượng cho trình duyệt web
của mình. Đây cũng là trình duyệt web mặc định cho hệ điều hành Windows 8 mới
nhất.
Microsoft cũng đã không bỏ rơi người dùng Windows 7 khi vừa chính thức ra
mắt bản chính thức của trình duyệt web IE10 trên hệ điều hành cũ này. Đây được xem
là một động thái của Microsoft để cạnh tranh với các đối thủ như Firefox hay Chrome
để chiếm lĩnh thị phần trình duyệt web, đặc biệt khi mà hiện nay Windows 7 vẫn
chiếm một lượng người dùng rất lớn trên toàn cầu.
Về mặt giao diện, IE10 trên Windows 7 hầu như không có sự thay đổi nào so
với giao diện IE9 trước đây, ngoại trừ việc các tab được thiết kế có phần trong suốt
hơn và đơn giản hơn, tạo phong cách như trên Windows 8.
Điểm thay đổi đáng chú ý nhất trên IE10 so với phiên bản cũ là đã được cải
thiện đáng kể về tốc độ. Microsoft cho biết phiên bản IE mới của mình đã nhanh hơn
phiên bản cũ đến 20% và hỗ trợ nhiều chuẩn web mới. Có được điều này là nhờ IE10
trên Windows 7 (cũng như trên Windows 8) được trang bị bộ xử lý Trident hoàn toàn
mới để thay thế cho bộ xử lý Charke cũ trước đây.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
“IE 10 là một trình duyệt web hiện đại với những điểm đặc trưng”, Ryan
Gavin, Giám đốc bộ phận Internet Explorer của Microsoft cho biết. “Chúng tôi xây
dựng một trình duyệt web tập trung hoàn toàn vào các trang web”.
IE10 cũng tăng khả năng xử lý chuẩn HTML5 lên gấp 60% so với phiên bản
IE9 trước đây. Điều này cho phép các nhà phát triển có thể xây dựng các ứng dụng
web bằng HTML5 có thể hoạt động trên IE10 tốt và hiệu quả hơn so với các phiên
bản IE cũ.
Ngoài ra, IE10 cũng được trang bị tính năng ‘Do Not Track’ mặc định ngăn

chặn các trang web tự động theo dõi thói quen của người dùng. Đây là một sự bổ sung
khá chậm trễ của Microsoft khi các trình duyệt web đối thủ như Firefox hay Chrome
vốn đã trang bị tính năng này từ cách đây khá lâu.
Cải tiến đáng chú ý khác trên IE10 dành cho Windows 7 đó là đã được tối ưu
để sử dụng ít năng lượng của hệ thống hơn khi sử dụng, điều này có tác dụng khi IE10
hoạt động trên laptop đang sử dụng nguồn điện từ pin.
Với việc mang IE10 lên Windows 7 hứa hẹn việc thị phần của trình duyệt web
này sẽ sớm được cải thiện trong thời gian sắp đến. Theo báo cáo mới nhất của hãng
thống kê thị trường Internet StatCounter, hiện IE đang là trình duyệt web đứng thứ 2
trên thế giới với 30% thị phần toàn cầu. Đứng đầu là Chrome với hơn 36% thị phần
trong khi đó Firefox đã bị tụt xuống thứ 3 với hơn 21% thị phần.
11. Internet Explorer 11
Là trình duyệt mặc định trong Windows 8.1, phát hành vào 17/10/2013 . Nó
bao gồm một cơ chế đầy đủ cho việc đồng bộ các tab. Đây là một bản cập nhật lớn
cho các công cụ phát triển của IE11, bằng việc tăng cường mở rộng quy mô cho màn
hình có DPI lớn, HTML5 prerender và prefetch, tăng tốc phần cứng cho việc giải mã
JPEG, HTML5 toàn màn hình, và là IE đầu tiên hỗ trợ WebGL và SPDY giao thức
của Google ( bắt đầu từ v3 ).
IE11 đã được phát hành cho người dùng Windows 7 vào 07/11/2013 , với việc
tự động cập nhật các bản cần thiết.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
Microsoft tuyên bố rằng trình duyệt IE11, chạy Benchmark WebKit SunSpider
JavaScript, là trình duyệt nhanh nhất kể từ 15/10/2013.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
III. Các nguyên tắc sáng tạo đã được áp dụng
 Nguyên tắc phân nhỏ: Internet Explorer đã chia nhỏ các chức năng thành các

phần riêng biệt như tách mail ra riêng, web browser riêng, chức năng tùy chỉnh
kết nối internet riêng, và mỗi chức năng sẽ thực hiện một công việc chuyên biệt
nào đó.
 Nguyên tắc phẩm chất cục bộ: Trong lịch sử của mình, IE dần đồng nhất với
hệ điều hành windows, từ giao diện bên ngoài cho đến lõi bên trong đều được
hệ điều hành Windows hỗ trợ, đồng thời giao diện IE cũng dần trở nên giống
với giao diện Windows, từ đơn giản đến hiệu ứng 3D và hiện tại là hiệu ứng
phẳng.
 Nguyên tắc kết hợp: Qua quá trình dài phát triển, IE đã được tích hợp rất
nhiều các công cụ, ngôn ngữ hỗ trợ như HTML, JavaScript, … làm cho chương
trình ngày càng đa dạng và hoàn thiện hơn, đáp ứng được nhu cầu luôn thay
đổi của người dùng.
 Nguyên tắc vạn năng: Ngoài chức năng chính là dùng để duyệt web, IE còn
được tích hợp chức năng bảo mật, chức năng tinh chỉnh kết nối Internet, và kết
hợp luôn bộ download dữ liệu từ mạng về máy tính, ngoài ra IE còn được tích
hợp khả năng phát nhạc, video ngay trên trình duyệt.
 Nguyên tắc chứa trong: Như đã đề cập ở trên, các ngôn ngữ hỗ trợ duyệt web
như HTML, cookie, JavaScript, Ajax, các chương trình xử lý đa phương tiện
đều được đưa vào trong IE, khiến cho IE trở thành công cụ đa phương tiện thực
thụ.
 Nguyên tắc thực hiện sơ bộ: Chúng ta để ý rằng các phiên bản của IE được
cập nhật sau này đều không ảnh hưởng gì đến các bản trước đó, điều này cho
thấy các chức năng được cập nhật theo từng phần, các phần này không liên
quan hoặc liên quan với nhau rất ít, điều này giúp cho người dùng IE có thể tự
do chọn phiên bản cần thiết của mình
 Nguyên tắc linh động: Ban đầu, IE bố trí mỗi trang Web là một cửa sổ, sau đó
được phát triển lên thành tab, và gom chung trong một cửa sổ, việc bố trí này
rất tiện cho người dùng vì chỉ cần một cửa sổ cũng có thể quản lý được tất cả
các trang web đang mở. Ngoài ra, khi cần người dùng vẫn có thể kéo tab ra
ngoài để thành cửa số khác cho tiện việc quản lý và theo dõi.

 Nguyên tắc vượt nhanh: Trong suốt quá trình phát triển của mình, Microsoft
đã vận dụng nguyên tắc này để liên tục đưa ra các bản vá lỗi của chương trình,
nếu hôm qua ban hành bản đầu tiên và nhận được phản hồi từ người dùng thì
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
ngay hôm sau sẽ có bản cập nhật để vá các lỗi đó, nhờ việc áp dụng nguyên tắc
này mà các phiên bản của IE gần như chạy ổn định và ít phát sinh vấn đề
nghiêm trọng.
 Nguyên tắc sử dụng trung gian: IE phổ biến một phần vì nó đã được tích hợp
vào hệ điều hành Windows, do thị phần người dùng máy tính sử dụng hệ điều
hành Windows khá lớn nên khi IE được tích hợp vào, nó cũng nhanh chóng trở
nên phổ biến, thông thường việc áp dụng nguyên tắc này khá rắc rối và tốn kém
cho phải trả chi phí cho bên trung gian, nhưng ở đây có cái lợi là Windows và
IE đều cùng do Microsoft phát triển nên việc áp dụng nguyên tắc sáng tạo này
diễn ra rất thuận lợi và không tốn bất cứ chi phí phát sinh nào.
 Nguyên tắc sao chép: Các phiên bản của IE có sự sao chép lẫn nhau về chức
năng chính và giao diện. Tuy các phiên bản IE sau này có khác nhau về hình
thức nhưng nhìn chung cốt lõi của quá trình xử lý ít bị thay đổi.
 Nguyên tắc thay đổi màu sắc: Theo thời gian, giao diện đồ họa của IE cũng
thay đổi cho kịp với thị hiếu của người dùng, với những bản đầu có giao diện
và mau sắc đơn giản thì các phiên bản IE sau này đã phát triển giao diện dạng
Aero trong suốt và gần đây nhất là quay về dạng phẳng nhưng cũng không kém
phần bắt mắt, bên cạch đó khi hỗ trợ nhiều tab, thì IE cũng làm cho người dùng
dễ nhận thấy các tab đang theo dõi bằng cách gắn màu sắc khác so với các tab
khác. Nhìn chung, việc thay đổi giao diện của IE cũng gắn liền với giao diện
của hệ điều hành mà nó đi kèm.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2

IV. Hướng phát triển
Hiện tại bản Interner Explorer 11 đã bắt kịp với các đối thủ khác về tốc độ và
việc xử lý các đối tượng trên web, tuy chiếm đến 60% thị phần trình duyệt web được
nhiều người sử dụng nhưng IE cần phải cố gắng nhiều hơn nữa để lấy được lòng tin
của người sử dụng.
Tuy IE11 là bản free nhưng nó chỉ dành cho hệ điều hành Windows 7 trở lên,
đây là một thiếu sót lớn khi thị phần người dùng các hệ điều hành khác cũng chiếm tỷ
lệ tương đối cao. Nếu Microsoft tạo ra các phiên bản free cho các hệ điều hành khác
thì có lẽ sẽ còn phổ biến hơn nữa.
Hơn nữa việc tích hợp quá nhiều các chức năng vào một chương trình là không
cần thiết và sẽ làm nặng chương trình. Có lẽ Microsoft chỉ nên tích hợp các chức năng
cần thiết để duyệt web, các chức năng khác sẽ chuyển thành Add on để người dùng tự
cài khi họ thấy cần thiết để sử dụng.
Việc download dữ liệu về máy cũng là một vấn đề cần xử lý, hiện tại chức
năng download của IE chạy khá chậm, chúng ta có thể cải tiến việc download nhanh
hơn bằng cách chia nhỏ gói tập tin ra và download thành nhiều phần, sau đó ghép các
phần đã download về để thành một tập tin hoàn chỉnh, việc này sẽ cải thiện đáng kể
tốc độ download dữ liệu.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
V. Kết luận
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã góp phần thúc đẩy công
tác nghiên cứu khoa học ngày càng trở nên sôi nổi hơn. Khoa học và công nghệ đã trở
thành động lực thúc đầy sự tiến bộ của nhân loại thông qua khả năng suy luận của
chính con người, do đó ngày càng nhiều phương pháp mới trong việc nghiên cứu khoa
học được tìm ra.
Khoa học ngày càng phát triển thì các phương pháp, cách thức nghiên cứu càng
đa dạng và phức tạp, nhưng 40 nguyên tắc sáng trạo triz vẫn là các nguyên tắc sáng
tạo cơ bản chính yếu và quan trọng nhất. Bất kỳ sự phát triển nào cũng đều dựa trên

40 nguyên tắc này và chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua phần trình bày trên.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CH1301016 - Vũ Quốc Hưng
Tr. 2
VI. Tài liệu tham khảo
[1] GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm, Slides bài giảng môn “Phương pháp nghiên cứu
khoa học trong tin học”
[2] GS. PTS Phan Dũng, 40 nguyên tắc sáng tạo cơ bản
[3] Lịch sử phát triển của Internet Explorer trên wikipedia.org,
2014/04/25

×