Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

khóa luận Kinh nghiệm tiến hành cung cấp dịch vụ thuê ngoài từ một số nước trên thế giới, bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.36 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THUÊ NGOÀI 3
1.1. Khái niệm thuê ngoài (Outsourcing) 3
1.2. Phân loại 3
1.3. Lợi ích của việc thuê ngoài 5
CHƯƠNG 2. KINH NGHIỆM TIẾN HÀNH CUNG CẤP DỊCH VỤ THUÊ NGOÀI CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CỦA
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 6
2.2. Kinh nghiệm tiến hành cung cấp dịch vụ thuê ngoài CNTT của Ấn Độ 7
2.3. Kinh nghiệm tiến hành cung cấp dịch vụ thuê ngoài CNTT của Trung Quốc 10
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM KHI TIẾN HÀNH CUNG CẤP DỊCH VỤ THUÊ NGOÀI CNTT TẠI VIỆT
NAM 14
3.1. Thực trạng ngành dịch vụ thuê ngoài CNTT của Việt Nam 14
3.2. Bài học kinh nghiệm 16
19
KẾT LUẬN 20
1
LỜI MỞ ĐẦU
Việc nhận thức được cơ hội, lợi ích thiết thực khi thâm nhập vào thị trường
thế giới đã khiến các công ty sản xuất kinh doanh không ngừng tìm ra cho mình
chiến lược phù hợp. Dù là công ty đa quốc gia hay những doanh nghiệp có qui mô
nhỏ, trung bình thì việc nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường mục tiêu là vô cùng quan
trọng. Các công ty có quy mô nhỏ, trung bình, bị hạn chế về trình độ khoa học kỹ
thuật cũng như về khả năng tài chính, do đó, chiến lược thâm nhập thị trường từ
sản xuất trong nước là phù hợp hơn hết. Trong khi đó, các công ty lớn, các tập
đoàn đa quốc gia lại có tiềm lực về vốn, con người, kỹ thuật… nên có thể thực
hiện linh động các chiến lược thâm nhập khác nhau đối với từng thị trường khác
nhau. Trong đó có ba phương thức thâm nhập cơ bản: thâm nhập từ sản xuất
trong nước, thâm nhập từ sản xuất ngoài nước và thâm nhập tại khu kinh tế tự do.
Một trong những chiến lược được đánh giá là mang lại hiệu quả cao và
đang được áp dụng phổ biến hiện nay đó là hình thức thâm nhập Outsourcing -
một trong những hình thức thâm nhập thị trường thế giới từ sản xuất nước ngoài.


Từ khi ra đời cho đến nay, Outsourcing luôn được các nhà kinh tế đặc biệt quan
tâm chú ý. Mặc dù ngành nó mới chỉ xuất hiện và thực sự phát triển mạnh trong
khoảng 20 năm gần đây, song đã giữ vai trò không nhỏ đối với sự phát triển của
các ngành công nghiệp và dịch vụ thế giới. Sự phát triển của outsourcing đã và
vẫn đang là tâm điểm của rất nhiều bài phân tích, bình luận trên các phương tiện
truyền thông công cộng như truyền hình, báo, đài và Internet.
Với đề tài:” Kinh nghiệm tiến hành cung cấp dịch vụ thuê ngoài từ một
số nước trên thế giới, bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam”, bài thảo luận
của nhóm 5 mong muốn sẽ giúp các bạn có một cái nhìn tổng quan về thuê ngoài
cũng như kinh nghiệm tiến hành cung cấp dịch vụ thuê ngoài công nghệ thông tin
của một số nước trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trong quá trình tiến hành cung cấp dịch vụ thuê ngoài.
2
CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THUÊ NGOÀI
1.1. Khái niệm thuê ngoài (Outsourcing)
Outsourcing đi vào thuật ngữ kinh doanh từ những năm 1980, dùng để chỉ
một phần/công đoạn nào đó của công việc trong sản xuất được thuê công ty khác
làm để tiết kiệm chi phí và nguồn lực cho doanh nghiệp. Phần công việc này chỉ
là các công đoạn phụ trong sản xuất.
1.2. Phân loại
1.2.1. Nếu căn cứ vào vị trí địa lý của 2 bên trong hoạt động outsourcing
thì có thể phân loại ra thành 2 loại outsourcing:
- Thuê ngoài nội biên (onshore outsourcing – tức là bên outsource và bên
cung cấp dịch vụ ở trong cùng một quốc gia).
- Thuê ngoài ngoại biên (offshore outsourcing – bên outsource và bên cung
cấp dịch vụ ở 2 quốc gia khác nhau).
1.2.2. Theo phân loại theo báo cáo “International Recommendation for
Industrial Statistics 2008” của Liên Hợp Quốc thì outsourcing gồm 3 dạng:
- Outsourcing những chức năng hỗ trợ: theo loại hình này, bên outsource sẽ
thuê ngoài những chức năng hỗ trợ nhất định, ví dụ như kế toán, các dịch vụ máy

tính, kiểm toán…
- Outsourcing một phần trong quy trình sản xuất: doanh nghiệp đi thuê
ngoài một phần của quy trình sản xuất.
- Outsourcing toàn bộ quy trình sản xuất: doanh nghiệp thuê ngoài toàn bộ
quy trình sản xuất.
1.2.3. Theo báo cáo “World Investment Report 2011: Non-equity Modes of
International Production and Development” của UNCTAD (2011), outsourcing
gồm 2 dạng:
- Outsourcing trong sản xuất (contract manufacturing – sản xuất theo hợp
đồng).
3
- Outsourcing trong lĩnh vực dịch vụ (services outsourcing – thuê ngoài các
dịch vụ).
1.2.4. Tuy nhiên, ngày nay trong hầu hết các báo cáo thống kê về hoạt động
outsourcing, thuật ngữ này được hiểu là outsourcing trong lĩnh vực dịch vụ bao
gồm 2 hình thức chính là thuê ngoài công nghệ thông tin (ITO) và thuê ngoài quy
trình sản xuất (BPO).
* Thuê ngoài công nghệ thông tin (ITO) gồm :
- Tư vấn CNTT (IT consulting): các chính sách khai thác, vận hành, nguồn
nhân lực.
- Phần mềm: phát triển và bảo trì các ứng dụng, tích hợp các ứng dụng,
quản lý giao diện.
- Hạ tầng công nghệ thông tin: quản lý các ứng dụng, quản trị mạng.
* Thuê ngoài quy trình kinh doanh (BPO) gồm:
- Công việc hành chính (thuế, sổ sách)
- Quản lý tài sản
- Tài chính (kế toán, quản lý ngân sách tài sản cố định, hệ thống tài chính,
…)
- Nguồn nhân lực (tiền trợ cấp, tiền lương, quản lý nhân sự,…)
- Công việc tổng hợp ( dịch vụ năng lượng, dịch vụ khách hàng…)

- Dịch vụ vật tư/logistics (lựa chon sản phẩm, chuyển phát, đóng gói. Quản
lý kho hàng, lắp đặt máy móc…)
- Tổng đài
- Xử lý các yêu cầu của khách hàng
- Quản lý dữ liệu
Trong những năm gần đây, hình thức thuê ngoài quy trình tri thức (KPO)
xuất hiện như một bước phát triển cao hơn của hoạt động BPO, khi các doanh
nghiệp thuê làm bên ngoài các công việc liên quan đến việc sáng tạo ra năng lực
cốt lõi của tổ chức, đòi hỏi nhiều kỹ năng chuyên biệt, chuyên môn hóa và trình
độ cao. Các động KPO phổ biến bao gồm nghiên cứu và phân tich tài chính, kinh
doanh và thị trường, nghiên cứu dược phẩm, nghiên cứu công nghệ sinh học,
nghiên cứu động vật.
4
1.3. Lợi ích của việc thuê ngoài
* Để giải quyết các vấn đề về lợi ích và chi phí, có một giải pháp chung:
outsourcing một phần hoặc toàn bộ dịch vụ về CNTT. Điều này mang đến những
điểm lợi về:
- Chuyên môn: nhà cung cấp outsourcing là đơn vị chuyên nghiệp về
CNTT nên có hệ thống đào tạo bài bản cho nhân viên, cũng như các phòng lab để
thử nghiệm giải pháp trước khi đưa ra cho khách hàng. Họ cũng có các hệ thống
giám sát về chất lượng công việc của nhân viên và đảm bảo quy trình dịch vụ.
Các dịch vụ họ cung cấp do đó có tính chuyên nghiệp cao.
- Hiệu suất: nhà cung cấp outsourcing có thể điều phối nhân lực, do đó với
những nhân lực quý hiếm, họ sẽ sử dụng triệt để. Kết quả là họ có thể tính mức
phí thấp hơn là khách hàng tự làm. Hầu hết các công ty chuyển sang dùng
outsourcing đều ghi nhận mức chi phí hỗ trợ CNTT giảm từ 20-30%.
- Dự phòng: là thế mạnh rõ ràng của outsourcing. Với lực lượng đông đảo,
các nhà cung cấp không khó khăn gì để đảm bảo khách hàng được phục vụ liên
tục. Họ thường có cơ chế để luôn luôn có một số nhân viên có thể thay thế lẫn
nhau cho một khách hàng. Nhiều nhà cung cấp outsourcing cẩn thận cất giữ một

bản sao các tham số hoặc cơ sở dữ liệu hệ thống của từng khách hàng, để nếu có
rủi ro vật lý (cháy, thiên tai) thì vẫn có thể khôi phục lại hệ thống. Các rủi ro về
gián đoạn hoạt động do thiếu dự phòng của DN do đó sẽ chuyển hết sang nhà
cung cấp outsourcing.
- Tâm lý: đối với nhà cung cấp outsourcing, nhân viên CNTT là lực lượng
lao động chính, nên họ có thể cất nhắc nhân viên lên các vị trí cao, thậm chí là
lãnh đạo công ty. Do đó các nhân viên cũng có động lực mạnh hơn để trau dồi
chuyên môn và gắn bó với nhà cung cấp.
* Theo các đánh giá trên thì outsourcing có nhiều điểm lợi. Nhưng việc gì
cũng có hai mặt, chúng ta thử điểm qua các điểm bất lợi:
- Bảo mật: là vấn đề nhiều CIO lo ngại nhất. Họ sợ các nhân viên
outsourcing sẽ tiết lộ thông tin của công ty ra ngoài, thậm chí cho các đối thủ.
- Trách nhiệm: nhà cung cấp thiếu trách nhiệm, chậm trễ và không cung
cấp nhân viên với phẩm chất cần thiết sẽ làm gián đoạn công việc của DN.
- Chất lượng: đây thường là vấn đề của giai đoạn chuyển tiếp từ dịch vụ nội
bộ sang outsourcing. Trong thời gian đầu (có thể kéo dài cả năm) nhân viên
outsourcing chưa nắm rõ hệ thống của DN, gây chậm trễ trong giải quyết sự cố
hoặc sai sót.
5
- Chi phí: thống kê chung cho thấy sử dụng outsourcing tiết kiệm hơn so
với tự làm, nhưng điều đó không có nghĩa là cứ outsourcing thì sẽ tiết kiệm chi
phí. Hợp đồng outsourcing không chặt chẽ có thể gây phát sinh chi phí lớn cho
DN (chẳng hạn khi phát hiện những nội dung dịch vụ chưa có trong hợp đồng).
CHƯƠNG 2. KINH NGHIỆM TIẾN HÀNH CUNG CẤP DỊCH
VỤ THUÊ NGOÀI CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CỦA MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Đánh giá chung
Như chúng ta đã biết cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất có
bản chất là quá trình cơ khí hoá, nội dung là sử dụng máy móc thay thế lao động
chân tay. Kết quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật này là sự ra đời của các

nước công nghiệp, cơ cấu kinh tế được chuyển đổi từ thuần tuý nông nghiệp sang
công nghiệp với tỷ trọng cao hơn nhiều lần. Từ những năm 50 con người bắt đầu
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai có bản chất là quá trình tin học hoá
nội dung là sử dụng “công nghệ thông tin” để thay thế một phần lao động trí óc,
để trợ giúp phần điều khiển bằng trí tuệ của con người.
Công nghệ thông tin là tập hợp các ngành khoa học kỹ thuật nhằm giải
quyết vấn đề thu nhận thông tin, quản lý thông tin, xử lý thông tin, truyền thông
tin và cung cấp thông tin. Trong công nghiệp CNTT thế giới, các nước công
nghiệp phát triển chiếm lợi thế và vị trí độc tôn về công nghiệp phần cứng, do
ngành này có đòi hỏi rất cao về vốn đầu tư, trình độ khoa học công nghệ, năng lực
nghiên cứu phát triển. Các tập đoàn lớn của Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức
như Intel, IBM, Fujitsu, Hitachi, Samsung, chi phối sự phát triển công nghiệp
phần cứng toàn cầu. Các nước đang phát triển hầu như không có cơ hội trong sản
xuất phần cứng, nhưng lại có lợi thế so sánh rất tốt trong công nghiệp phần mềm.
Do đặc thù của ngành phần mềm phát triển chủ yếu dựa vào nguồn lực con người,
khả năng cạnh tranh phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và chi phí lao động. Công
nghiệp phần mềm có tỷ lệ giá trị gia tăng rất cao trong doanh thu sản phẩm, qui
trình sản xuất mang tính quốc tế hoá cao, không phụ thuộc biên giới vật lý, chi
phí đầu tư cho máy móc, thiết bị sản xuất không cao… nên thực sự là cơ hội lịch
6
sử hiếm có cho các nước đang phát triển đi tắt, đón đầu bắt kịp các nước phát
triến. Hiện nay nhiều nước coi trọng phát triển gia công phần mềm và có xu
hướng biến ngành này thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Điển hình thành công là Ấn Độ, Trung Quốc, Ấn Độ từ một quốc gia
nghèo nhưng có nguồn nhân lực dồi dào, nhờ tập trung phát triển ngành công
nghệ thông tin mà trong 15 năm đã vươn lên thành cường quốc phần mềm hàng
đầu thế giới, chỉ riêng xuất khẩu phần mềm năm 2006 đạt tới trên 23 tỷ USD (xét
về giá trị gia tăng thu về cho quốc gia, 1 USD xuất khẩu phần mềm tương đương
5-6 USD xuất khẩu của các ngành dệt may, đồ gỗ, ). Qui mô thị trường công
nghiệp CNTT thế giới năm 2005 đã đạt tới 1080 tỷ USD, riêng công nghiệp phần

mềm là 633 tỷ USD (năm 2004 là 580 tỷ USD), trong đó khu vực Bắc Mỹ là 313
tỷ USD USD (chiếm 49,5%), Tây Âu là 193 tỷ USD (chiếm 30,5%), khu vực
châu Á – Thái Bình Dương là 103 tỷ USD (chiếm 16,3%).
Việt Nam đang trên đà phát triển vì thế rất cần vốn đầu tư. Với những lợi
thế đang sở hữu của đất nước thu hút đầu tư Outsourcing là một chính sách hợp lý
tận dụng ưu thế để phát triển đất nước. Có thể nói, ngành gia công phần mềm là
một ngành có tiềm năng lớn trong thị trường Việt Nam. Học hỏi những kinh
nghiệm của các nước đã thành công về lĩnh vực này, từ đó Việt Nam có những
chính sách phát triển hiệu quả hơn.
2.2. Kinh nghiệm tiến hành cung cấp dịch vụ thuê ngoài CNTT của Ấn Độ
2.2.1. Giới thiệu khái quát
Ấn Độ là một quốc gia Nam Á, chiếm hầu hết tiểu lục địa Ấn Độ. Đây là
quốc gia đông dân thứ nhì trên thế giới (hiện nay dân số Ấn Độ đã gần 1,1 tỷ
người ít hơn Trung Quốc 200 triệu người), và đồng thời lớn thứ 7 về diện tích. Ấn
Độ có nền văn minh Ấn Hà phát triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm, đây là nơi
sinh trưởng của bốn tôn giáo quan trọng trên thế giới (Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo
Jaini và đạo Sikh).
Kinh tế Ấn Độ là nền kinh tế thứ tư thế giới nếu tính theo sức mua ngang
giá, với GDP tính theo đôla Mỹ đạt 3,63 nghìn tỷ. Nếu tính theo tỷ giá hối đoái
với đôla Mỹ thì đây là nền kinh tế lớn thứ 12 thế giới với GDP tính theo đôla Mỹ
đạt 775 tỷ (2005). Ấn Độ là nền kinh tế phát triển nhanh thứ hai thế giới với tỷ lệ
tăng trưởng GDP là 8,1% ở cuối quý đầu tiên năm 2005-2006. Tuy nhiên dân số
khổng lồ của Ấn Độ khiến thu nhập trên đầu người đứng ở mức 3400 USD được
xếp hạng vào nước đang phát triển.
7
Ấn Độ có lực lượng lao động dồi dào và được đào tạo bài bản các kỹ năng
chuyên môn và thành thạo Anh Ngữ. Nhận thấy được những lợi thế của đất nước,
chính phủ đã có những chính sách sáng suốt tận dụng ưu thế của đất nước và đã
đạt được kết quả to lớn là trở thành vị trí quan trọng về dịch vụ thuê làm bên
ngoài (outsourcing), tư vấn khách hàng (customer service), và hỗ trợ kỹ thuật của

các công ty toàn cầu. Đây cũng là nước xuất khẩu hàng đầu về nhân lực trình độ
cao lĩnh vực dịch vụ phần mềm, tài chính, và chế tạo phần mềm. Đây là một trong
những lý do giải thích tại sao ngành gia công phần mềm của Ấn Độ lại phát triển
nhanh chóng và trở thành quốc gia hàng đầu về lĩnh vực này.
2.2.2. Tình hình phát triển của ngành dịch vụ thuê ngoài CNTT tại Ấn Độ
Ấn Độ là mô hình quốc gia tạo được thành công đột phá nhờ phát triển
ngành công nghiệp phần mềm, dùng ngành công nghệ thông tin là mũi nhọn đột
phá phát triển kinh tế, chiếm vị trí đỉnh cao trên thế giới, đem lại lợi ích kinh tế,
vị thế đất nước trên thế giới, lòng tự tin dân tộc, từ đó kéo theo sự phát triển ở
nhiều ngành kinh tế khác (thép, cơ khí, điện tử, ).
Thành công rực rỡ của Ấn Độ trong lĩnh vực CNTT, đặc biệt là phần mềm
đã khiến cả thế giới phải sửng sốt. Ngay cả khi Ấn Độ liên tục đạt được hết thành
tựu này đến thành tựu kia và trở thành một trong những văn phòng của thế giới,
người ta vẫn không thôi đi tìm câu trả lời cho câu hỏi rằng: “nguyên nhân làm cho
một ngành kinh tế non trẻ như ngành phần mềm có thể sinh trưởng và phát triển
được, thậm chí thành công rực rỡ ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất
trên đất nước Ấn Độ?”.
Xuất phát là một quốc gia nghèo, lạc hậu, nhưng Ấn Độ đã tiên phong đầu
tư phát triển ngành công nghiệp phần mềm từ những năm 1990. Chọn lựa này đã
giúp Ấn Độ khai thác thế mạnh về nguồn nhân lực, hạn chế các điểm yếu của 1
quốc gia đang phát triển là thiếu khả năng đầu tư lớn vào máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, vốn,… Năm 2006, ngành phần mềm Ấn Độ đạt doanh số 29,5 tỷ USD,
trong đó doanh số xuất khẩu đạt tới 23,4 tỷ USD. Tất cả 500 tập đoàn và công ty
lớn nhất thế giới theo xếp hạng của Forbes đều đang phải sử dụng các chuyên gia
CNTT trong quản lý, điều hành hệ thống CNTT của mình. Tầm nhìn của Hiệp hội
doanh nghiệp phần mềm Ấn Độ NASSCOM là đưa Ấn Độ trở thành một trung
tâm quyền lực phần mềm của thế giới đang trở thành hiện thực.
Để có được thành công như vậy là do Ấn Độ đã có những chính sách khai thác ưu
thế của đất nước hợp. Giữa thập kỷ 80, khi công nghiệp phần mềm bắt đầu phát
8

triển, Ấn Độ nhận thấy đây là cơ hội cho hướng phát triển mới và áp dụng mọi
biện pháp để thúc đẩy ngành công nghiệp này. Khi mà rất nhiều nước còn đang
thi hành chính sách đóng cửa để bảo hộ sản xuất trong nước, thì Ấn Độ đã mở
cửa thị trường thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực CNTT. Cùng với
đó là chính sách cải tổ về cơ cấu kinh tế: Ấn Độ đẩy nhanh quá trình tư nhân hóa
ngành viễn thông, tạo tiền đề quan trọng về cơ sở hạ tầng cho phát triển công
nghiệp phần mềm. Đặc biệt là nhân tố nhân lực với số lượng đông đảo, trình độ
chuyên môn cao đóng vai trò quan trọng mang đến thành công cho đất nước.Kết
quả là công nghiệp phần mềm đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Ấn Độ.
Có thể không cần phải nói quá nhiều về những con số, những thành công
liên tiếp mà ngành phần mềm Ấn Độ đạt được bắt đầu từ những bước đi đầu tiên,
những đầu tư liên tục, mạnh mẽ và quyết liệt của chính phủ nước này với phương
châm đưa "công nghiệp phần mềm Ấn Độ lên thành kiểu mẫu của sức mạnh và
thành công". Tất cả những gì mà Ấn Độ đã đạt được khẳng định được sức mạnh
và vị thế của ngành gia công phần mềm Ấn Độ.
2.2.3. Kinh nghiệm tiến hành cung cấp dịch vụ thuê ngoài CNTT của Ấn Độ
Có thể nói ngành gia công phần mềm của Ấn Độ rất phát triển và Việt Nam
có thể học hỏi vì có được thành công đó là nhờ nhưng tiền đề rất vững chắc như:
Điều đầu tiên trực tiếp có thể nhìn thấy ngay đã tạo nên thành công cho
ngành phần mềm Ấn Độ chính là nguồn nhân lực. Hệ thống giáo dục tuyệt vời
với các học viện công nghệ quốc gia được trang bị các trang thiết bị hiện đại nhất,
mạng lưới hơn 1000 trường đại học và cao đẳng đào tạo chuyên ngành về CNTT
nằm rải rác khắp cả nước, chưa kể các cơ sở đào tạo tư nhân uy tín, các trung tâm
đào tạo và đào tạo lại của các doanh nghiệp lớn tất cả đã tạo cho nguồn nhân
lực phần mềm của quốc gia này một căn bản cực tốt. Cộng thêm thuận lợi sẵn có,
tiếng Anh là thứ ngôn ngữ chính thống dùng giảng dạy, các kỹ sư CNTT, kỹ sư
phần mềm của Ấn Độ ngay khi ra trường đã có thể làm việc ngay tại môi trường
quốc tế với chất lượng đạt chuẩn toàn cầu. Đó là chưa kể khả năng thích ứng cực
tốt của các kỹ sư này với mọi môi trường làm việc và những biến đổi nhạy bén
của thế giới trong lĩnh vực CNTT. Cùng với xu hướng toàn cầu hoá, những kỹ sư

này được hút ra các thị trường ngoài biên giới Ấn Độ như Mỹ, châu Âu và rồi lại
trở lại thị trường Ấn Độ để tạo ra các thế hệ kỹ sư phần mềm mới cho đất nước.
Tất nhiên, không thể phủ nhận sau những thế hệ kỹ sư được đào tạo từ thời Xô
Viết, chất lượng nhân lực của ngành có phần giảm sút, mất cân đối cung cầu,
9
song không vì thế, nguồn nhân lực mất đi vai trò chủ chốt trong nội lực của ngành
phần mềmnước này. Và nguồn nhân lực được đào tạo bàn bản vẫn luôn là một
trong những nguồn sức mạnh chủ yếu của Ấn Độ.
Thứ hai đó chính là chính sách sử dụng. Dù không thực sự rõ ràng và trực
tiếp tác động, nhưng chính sách mở cửa, thông thoáng và những ưu đãi nhất định
của chính phủ Ấn Độ đã phần nào tạo nên sức hút khiến phần lớn những tên tuổi
lớn nhất của công nghệ toàn cầu đã phải có mặt ở đây. 7 khu công nghệ cao nằm
rải rác khắp cả nước đã được xây dựng nên nhờ những nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ
tầng của các tên tuổi lớn của thế giới như IBM, Digital, Hewlett Packard, Sun,
Motorola với những chính sách ưu đãi đặc biệt như: cung cấp đầy đủ cơ sở hạ
tầng, miễn thuế nhập khẩu, thuế doanh thu trong 5 năm, tối giản các thủ tục hành
chính phức tạp và tạo quyền chuyển lợi nhuận về nước Đó cũng là những hành
động thiết thực nhất thể hiện quyết tâm đầu tư quyết liệt của chính phủ nước này
cho CNTT nói chung và phần mềm nói riêng.
Một nhân tố thứ ba, không kém phần quan trọng chính là sự nỗ lực tự thân,
rất độc lập và tự chủ của bản thân chính các công ty. Không trông chờ quá nhiều
vào những ưu đãi đầu tư của nhà nước, rất nhiều công ty đã rất chủ động lựa chọn
đầu tư thích hợp và liên tục nâng cao năng lực đầu tư khai thác thị trường của
mình và biến năng lực khai thác thị trường bên ngoài Ấn Độ của mình trở thành
một thế mạnh thực sự.
Nhân tố thứ tư, nhân tố quan trọng làm nên những biến đổi kỳ diệu ở lĩnh
vực phần mềm nước này chính là ở uy tín của Ấn Độ đối với thế giới. Không chỉ
là uy tín với các dòng sản phẩm làm ra, uy tín với nguồn nhân lực được đào tạo
bàn bản và quy mô, các doanh nghiệp Ấn Độ nói riêng và ngành phần mềm Ấn
Độ nói chung còn tạo ra được một uy tín vô hình trong quan hệ kinh doanh và

trên thị trường, khiến những ông lớn của nền công nghệ thế giới khi cần là nghĩ
đến Ấn Độ và các sản phẩm của Ấn Độ.
Đó là những nét căn bản, những phác thảo rõ rệt nhất về những gì làm nên
sức mạnh của một ngành công nghiệp mũi nhọn của Ấn Độ.
2.3. Kinh nghiệm tiến hành cung cấp dịch vụ thuê ngoài CNTT của Trung
Quốc
2.3.1. Giới thiệu khái quát
Trung Quốc là một trong những cái nôi văn minh nhân loại sớm nhất. Đây
là quốc gia có nền văn hóa đa dạng và lâu đời. Là một đất nước có dân số lớn
10
nhất thế giới, lao động dồi dào, tiếp thu công nghệ thông tin nhanh chóng là nhân
tố quan trọng để phát triển kinh tế. Đặc biệt Trung Quốc đã đạt được những thành
tựu lớn về khoa học như: la bàn, thuốc súng, kĩ thuật làm giấy, kĩ thuật in ấn. Đây
được coi là “tứ đại phát minh”. Từ lâu Trung Quốc được coi như là một trung tâm
sản xuất công nghiệp và nghiên cứu và phát triển (R&D) trong khi Ấn Độ nổi bật
về dịch vụ và công nghệ thông tin. Tuy nhiên, tương quan giữa hai bên có thể
thay đổi vì Trung Quốc có lợi thế mới nhờ hệ thống hạ tầng kỹ thuật phát triển,
nguồn lao động vừa rẻ vừa có tay nghề cao và thông thạo Anh ngữ. Hiện nay
Trung Quốc và Ấn Độ đã bắt đầu tranh nhau phần lớn của chiếc bánh gia công
phần mềm đang ngày càng hấp dẫn. Trên thực tế Trung Quốc có những lợi thế
làm nên thành công đáng kể cho ngành gia công phần mềm.
2.3.2. . Tình hình phát triển của ngành dịch vụ thuê ngoài CNTT tại Trung
Quốc
Ngành gia công phần mềm của Trung Quốc tăng trưởng khá nhanh chóng.
Doanh thu nội địa tăng 48%, đạt 34.8 tỷ USD năm 2006 (năm 2003 là 23,6 tỷ
USD), chiếm 3% qui mô ngành công nghiệp CNTT thế giới (Mỹ chiếm 38%, EU
chiếm 31%, Nhật chiếm 10%, các nước còn lại chiếm 18%). Doanh thu công
nghiệp phần mềm và dịch vụ tăng 73%, từ 5,5 tỷ USD năm 2003 lên 9,5 tỷ USD
năm 2006, tốc độ tăng trưởng gần 20% hàng năm. Xuất khẩu của công nghiệp
phần mềm qui mô nhỏ, nhưng có tốc độ tăng trưởng cao, trong 5 năm 1998 –

2003 đã tăng hơn 7 lần, từ trên 30 triệu USD năm 1998 lên 250 triệu USD năm
2003 (chưa có số liệu 2003-2006). Lực lượng lao động trong lĩnh vực này cũng
tăng. Lao động từ trên 2,7 triệu lên trên 3,7 triệu, tăng thêm 1 triệu lao động,
trong đó riêng công nghiệp phần mềm tăng thêm 500 nghìn (từ trên 700 nghìn lên
trên 1,2 triệu), riêng các công ty nước ngoài tăng thêm 250 nghìn lao động.
Đặc biệt Trung Quốc có được sự đầu tư nước ngoài vào công nghiệp CNTT
năm 2005 đạt 3,5 tỷ USD. Năm 2005 Microsoft đầu tư 100 triệu USD lập cơ sở
nghiên cứu R&D với 800 lao động. Tập đoàn IBM đầu tư từ năm 1992, hiện có
5000 lao động. Một trong 4 công ty phần mềm lớn nhất thế giới SAP đầu tư từ
năm 2004 lập cơ sở R&D và Trung tâm hỗ trợ khách hàng với 1000 lao động.
Điều này tạo điều kiện để phát triển gia công phần mềm.
Từ năm 2003 Trung Quốc đã trở thành nước gia công phần mềm lớn nhất
cho Nhật Bản, nhu cầu kỹ sư phần mềm biết tiếng Nhật đang tăng 150%/năm.
Theo đánh giá của các chuyên gia cho thấy so với Ấn Độ thị trường gia công
11
phần mềm của Trung Quốc còn rất trẻ. Gần đây công ty phần mềm của Trung
Quốc MDCL-Frontline (thuộc tập đoàn Frontline Châu Á) đã nhượng quyền sử
dụng nhiều hệ thống phần mềm mà họ sản xuất tại Trung Quốc, và ký những hợp
đồng trị giá nhiều triệu USD phát triển phần mềm ứng dụng và hệ thống quản lý
cho các hải cảng ở thành phố Đại Liên.
Phân tích của hãng nghiên cứu thị trường IDC cũng cho thấy rằng, trái với
Ấn Độ, thị trường gia công CNTT của Trung Quốc chủ yếu nhắm vào nhu cầu
nội địa. Năm 2006, hơn 40 % doanh thu gia công phần mềm đến từ các tập đoàn
đa quốc gia hoạt động tại Trung Quốc. Dự báo nhu cầu này sẽ tiếp tục tăng nhanh
trong 4-5 năm tới, mở ra cơ hội tuyệt vời cho các nhà cung cấp dịch vụ bằng cách
giúp họ mở rộng hoạt động mà không phải cạnh tranh trực diện với các doanh
nghiệp Ấn Độ trên thị trường Âu châu và Bắc Mỹ. Tập đoàn Neusoft có trụ sở tại
Thâm Quyến là nhà gia công CNTT lớn nhất ở Trung Quốc, sử dụng hơn 10.000
nhân công, chuyên cung cấp phần mềm và dịch vụ CNTT cũng như công nghệ y
dược. Phần lớn doanh thu của Neusoft là từ kinh doanh phần mềm và dịch vụ ở

thị trường nội địa.
Trong những năm gần đây ngành công nghiệp phần mềm của Trung Quốc
tăng trưởng mạnh mẽ. Chỉ trong hai năm từ 2001 đến 2003, số lượng các doanh
nghiệp phần mềm đã tăng từ 4000 lên 8000, trong đó 23% các doanh nghiệp này
có tổng doanh thu đạt mức 1,2 triệu USD/năm. Hiện nay ở Thượng Hải đang có
200 chuyên gia phần mềm nhưng dự kiến trong thời gian sắp tới con số này sẽ
tăng lên đến 2500. Trong vòng 20 năm trở lại đây Ấn Độ nổi lên trên trường quốc
tế như một nhà cung cấp các sản phẩm phần mềm hàng đầu trên thế giới. Chỉ
trong vòng hơn 10 năm từ 1991 đến 2002, xuất khẩu phần mềm của Ấn Độ tăng
từ 400 triệu USD lên đến trên 8 tỷ USD. Tuy nhiên vị trí của Ấn Độ đang bị
Trung Quốc đe dọa. Tập đoàn Gartner Inc dự đoán: Xuất khẩu phần mềm của
Trung Quốc sẽ đuổi kịp trong vòng 4 năm.
Hiện nay Trung Quốc đang thực hiện 3 dự án công nghệ phần mềm lớn
hướng vào xuất khẩu, đó là Wangxin Software Development Base, Wangxin
Nanchang Software Park and Ningbo Software Park. Các dự án này sẽ đặt trọng
tâm vào các thị trường phần mềm của Hoa Kỳ, Nhật Bản và châu Âu.
2.3.3. Kinh nghiệm tiến hành cung cấp dịch vụ thuê ngoài CNTT của Trung
Quốc
12
Để có được các thành công trên, về quản lý nhà nước Trung Quốc đã áp
dụng rất nhiều cơ chế và chính sách đặc biệt cho ngành công nghiệp phần mềm.
* Nhà nước
- Chính phủ có Bộ công nghiệp CNTT, có Cục phát triển công nghiệp phần
mềm và công nghiệp vi mạch. Các doanh nghiệp có Hiệp hội doanh nghiệp phần
mềm Trung Quốc làm đại diện và được Nhà nước hỗ trợ. Tháng 7/2000, Hội
đồng Nhà nước ban hành Nghị định khuyến khích phát triển công nghiệp phần
mềm và công nghiệp vi mạch.
- Từ năm 2000, nhà nước áp dụng chính sách đặc biệt về thuế để hỗ trợ
doanh nghiệp phần mềm. Ngoài ra nhà nước còn miễn thuế nhập khẩu trang thiết
bị khi thành lập doanh nghiệp phần mềm, đồng thời ưu đãi miễn, giảm thuế thu

nhập cho doanh nghiệp phần mềm bằng việc chọn một số doanh nghiệp phần
mềm chủ lực quốc gia, áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi 10%.
- Nhà nước đầu tư thành lập các khu công nghiệp phần mềm, vườn ươm
doanh nghiệp phần mềm, quĩ hỗ trợ khởi nghiệp doanh nghiệp phần mềm, đồng
thời cấp một phần vốn cho các Quĩ đầu tư mạo hiểm tư nhân hoạt động trong lĩnh
vực công nghiệp phần mềm.
- Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp phần mềm trong áp dụng
các qui trình quản lý chất lượng quốc tế ISO, CMM, trong hoạt động R&D và
dành ngân sách hàng năm để mời các chuyên gia phần mềm nước ngoài đến đào
tạo, tập huấn và làm việc tại Trung Quốc cũng như gửi các chuyên gia cao cấp
trong nước đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài.
* Lợi thế từ nhân công giá rẻ, trình độ ngày càng nâng cao và thủ tục
thông thoáng
Có thể nói một trong những lý do hàng đầu để gia công phần mềm tại
Trung Quốc ngày nay là các công ty Mỹ và Nhật Bản đang cố nối kết các thị
trường nước ngoài, chủ yếu với các trung tâm gia công phần mềm. Điều đó có
nghĩa là các công ty như Microsoft, Motorola và Nokia đang cố gắng khai thác thị
trường tiêu dùng khổng lồ này, họ sẽ phải đặt hàng gia công phần mềm hỗ trợ cho
chiến lược mở rộng hoạt động của họ tại Trung Quốc. Ngoài giá lao động rẻ, các
yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng ngành GCPM ở Trung Quốc là sự thông thoáng
của các quy định và thủ tục, sự đầu tư lớn vào giáo dục công nghệ, tiến bộ trong
việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, và sự bùng nổ của nền kinh tế Trung Quốc.
Tuy có những bước tăng trưởng đầy ấn tượng, Trung Quốc vẫn không
ngừng củng cố năng lực của lực lượng lao động, nhất là về khả năng Anh ngữ, kỹ
13
năng quản lý dự án và kinh nghiệm cạnh tranh với Ấn Độ trên thị trường toàn
cầu. Theo đánh giá “Ngày càng có nhiều khách hàng đặt niềm tin vào việc kinh
doanh ở Trung Quốc” điều đó cho thấy rằng gia công phần mềm ở Trung Quốc
phất triển mạnh mẽ, không chỉ những thế mà trong lúc gia tăng việc đấu thầu các
dự án gia công quốc tế, các công ty CNTT Trung Quốc cũng khai thác các thị

trường Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi họ có lợi thế là sự gần gũi về địa lý và sự
tương đồng về chữ viết.
Phải nói rằng Trung Quốc rất biết sử dụng lợi thế của mình, và biết chớp
lấy thời cơ để thực hiện hành động của mình một cách hiệu quả nhất và kết quả là
gia công phần mềm của trung quốc doanh thu của thị trường GCPM của Trung
Quốc tăng gấp năm lần trong 5 năm qua. Năm 2006, thị trường gia công của
Trung Quốc tiếp tục phát triển nhanh, đạt giá trị 1,4 tỷ USD, tăng 48% so với
cùng kỳ năm trước; mức tăng trưởng doanh thu từ GCPM của Trung Quốc bình
quân là 38 %/năm suốt 5 năm qua.
* Đầu tư vào cơ sở hạ tầng tốt
Hầu hết các doanh nghiệp phần mềm đều đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng
kỹ thuật cùng hệ thống tiêu chuẩn CNTT cốt lõi. Mặc dù Bắc Kinh, Thượng Hải,
Quảng Châu và một vài thành phố lớn khác ở vùng duyên hải vẫn là địa điểm
được phần lớn các công ty ngoại quốc chọn lựa, nhưng Trung Quốc đang có kế
hoạch làm cho các thành phố nhỏ trở nên hấp dẫn hơn. Các doanh nghiệp đang
tìm cách giảm chi phí cần chú ý rằng Trung Quốc có hơn 100 thành phố có quy
mô dân số trên một triệu người và gần như tất cả các thành phố này đều đang nỗ
lực tối đa để thu hút đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp nào chọn các thành phố
hạng hai – thậm chí hạng ba – sẽ được hưởng những ưu đãi hết sức hào phóng.
Tây An, một thành phố bốn triệu dân đang phát triển nhanh ở miền Tây Trung
Quốc chẳng hạn, đã thành lập một khu công nghệ cao, trong đó doanh nghiệp
nước ngoài được giảm tối đa giá thuê văn phòng và được miễn thuế cho đến khi
nào có lợi nhuận trong hai năm liên tiếp.
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM KHI TIẾN HÀNH
CUNG CẤP DỊCH VỤ THUÊ NGOÀI CNTT TẠI VIỆT NAM
3.1. Thực trạng ngành dịch vụ thuê ngoài CNTT của Việt Nam
3.1.1. Thành tựu đạt được
14
Phát triển công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ phần mềm là chủ
trương ưu tiên của lãnh đạo Nhà nước, là một trong những hướng đi tắt, đón đầu

để công nghiệp hoá đất nước. Thời gian qua, công nghệ thông tin đã trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao nhất và giá trị đóng góp vào tăng
trưởng GDP ngày một lớn, trở thành ngành có sức hấp dẫn, thu hút mạnh đầu tư
trong, ngoài nước. Những hoạt động hợp tác đầu tư công nghệ phần mềm với
nhiều nước diễn ra sôi nổi những năm gần đây đã mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp
với nhiều kế hoạch đầu tư lớn. Đây là động thái quan trọng mở đường cho sự phát
triển thị trường gia công phần mềm và sự trưởng thành, lớn mạnh của các doanh
nghiệp phần mềm trong nước.
Theo đà phát triển của công nghệ thông tin, thị trường phần mềm nước ta
đã có sự tăng trưởng khá mạnh. Từ năm 2000 đến 2005, tốc độ tăng trưởng bình
quân của thị trường nội địa đạt trên 32%/năm. Trong tổng giá trị sản phẩm và
dịch vụ phần mềm gần đây, thị trường trong nước chiềm khoảng 2/3. Theo nhiều
phân tích thì cơ quan hành chính sự nghiệp và công ty Nhà nước vừa qua đã là
những khách hàng tiềm năng của CNPM Việt Nam, chiếm 1/3 tổng chi tiêu cho
CNTT cả nước.
Tuy chỉ bắt đầu bước vào thị trường xuất khẩu trong vòng 10 năm gần đây,
song phần mềm xuất khẩu Việt Nam đã có nhịp độ tăng trưởng khá nhanh. Nhiều
công ty phần mềm đã vươn tới những thị trường lớn ở Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản
với kim ngạch xuất khẩu hàng năm không ngừng gia tăng (từ 70 triệu USD năm
2005 lên 110 triệu USD năm 2006, tăng 57%, đạt 180 triệu USD, tăng gần 64%
trong năm 2007).
Việt Nam vừa được công bố là nằm trong tốp các quốc gia hấp dẫn về gia
công phần mềm. Sau khi trở thành điểm gia công phần mềm hấp dẫn, Việt Nam
tiếp tục được hãng nghiên cứu thị trường Gartner vừa công bố nằm trong tốp 10
quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương có giá nhân công rẻ. Theo các chuyên gia,
ngành gia công phần mềm của Việt Nam chỉ nên coi đây là những giá trị mang
tính tiềm năng. Bởi trên thực tế, sự hấp dẫn và giá rẻ này không thể biến thành giá
trị kinh tế cao nếu như không có tính hiệu quả và chất lượng. Theo báo cáo của
Gartner, những tiêu chí đánh giá gồm kỹ năng ngoại ngữ, hỗ trợ của Chính phủ,
nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, hệ thống giáo dục, chi phí và sắp xếp theo mức

yếu, trung bình, tốt, rất tốt và tuyệt vời.
3.1.2. Hạn chế
15
Điều đáng lo ngại là ngoài yếu tố giá rẻ được coi là thế mạnh; còn lại đa số
những tiêu chí khác của Việt Nam nằm ở mức trung bình. Thậm chí đáng lo ngại
hơn thế là Việt Nam có 4 tiêu chí bị đánh giá yếu gồm kỹ năng ngoại ngữ, sự hỗ
trợ của Chính phủ, cơ sở hạ tầng, an ninh và bảo vệ quyền riêng tư. Những đánh
giá này khá đồng nhất với Liên minh phần mềm doanh nghiệp BSA và The
Brown-Wilson Group khi cho rằng Việt Nam còn quá yếu về nghiên cứu phát
triển, đào tạo nhân lực và an ninh cũng như bảo hộ sở hữu trí tuệ. Doanh nghiệp
phần mềm nước ta đã tìm được những khách hàng lớn để gia công xuất khẩu
nhưng chủ yếu mới là dịch vụ và đang gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ các
doanh nghiệp phần mềm Ấn Độ, Nga, Trung Quốc và những nước đang phát
triển.
Gần đây, thị trường Nhật Bản đang nổi lên, và đã có một lựa chọn ưu tiên
với những doanh nghiệp Nhật Bản có kế hoạch đầu tư mở rộng dịch vụ phần mềm
tại Việt Nam. Những công ty có người Mỹ gốc Việt làm việc cũng là khách hàng
lớn của các công ty phần mềm ở Việt Nam.
3.2. Bài học kinh nghiệm
3.2.1. Đầu tư nguồn nhân lực
Việt Nam vẫn còn rất nhiều vấn đề nóng bỏng về nguồn nhân lực làm gia
công phần mềm cả về số lượng lẫn chất lượng. Song có lẽ vấn đề lớn nhất mà các
chuyên gia CNTT cho rằng thách thức lớn nhất của các doanh nghiệp phần mềm
Việt Nam khi tham gia thị trường gia công phần mềm đó là độ chuyên nghiệp.
Nhân công Việt Nam tiếp thu cái mới rất nhanh nhưng chuyên nghiệp, bài bản thì
lại không bằng các quốc gia khác. Nếu nói tới tính nghiêm túc, tính kỷ luật, người
Việt Nam không thể so sánh với nhân công Ấn Độ hay ngay cả quốc gia láng
giềng là Trung Quốc.
Hiện nay cả Trung Quốc và Ấn Đô đều bị ảnh hưởng của việc thiếu hụt
trầm trọng nguồn nhân lực kỹ năng cao và họ cố gắng giải quyết vấn đề bằng

cách đào tạo ồ ạt số lượng lớn người làm CNTT. Điều này dẫn đến việc giảm chất
lượng của nguồn nhân lực. Đây là cơ hội tốt cho Việt Nam để cạnh tranh bằng
cách cung cấp nguồn nhân lực kỹ năng cao qua những chương trình giáo dục và
dạy nghề nghiêm chỉnh. Ngành công nghiệp CNTT thay đổi nhanh chóng, việc
hiểu rõ tiến trình và xu hướng phát triển sẽ giúp Việt Nam điều chỉnh hướng đi và
tái họach định để bảo đảm kẽ hở thị trường hơn là đi theo những việc người khác
đã làm. Xu hướng hiện nay xem trọng giá trị công việc và mối quan hệ hơn là
16
nguồn nhân lực giá rẻ. Hầu hết các phần mềm đang trở thành hệ thống hội tụ
mạng lưới, ngày càng phức tạp; đòi hỏi những kỹ năng thành thạo về cấu trúc hệ
thống, thiết kế, tích hợp hơn là lập trình hay kiểm tra. Khuynh hướng này không
có nghĩa là sẽ không còn việc cung ứng nhân lực giá rẻ nhưng ngành công nghiệp
ngày càng mở ra nhiều cơ hội cho những quốc gia nào có thể cung cấp được
những kỹ năng mới cho khách hàng.
3.2.2.Đầu tư cho cơ sở hạ tầng
Việt Nam cũng khó cạnh tranh với các đối thủ được tổ chức tốt như Ấn Độ,
Trung Quốc trên thị trường quốc tế. Vì vậy cần nghiên cứu để nhận diện những
kỹ năng chuyên sâu, đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D) để nhận
biết những sở trường của ngành công nghiệp công nghệ thông tin nói chung và
GCPM nói riêng và phát triển các cơ hội cho tương lai.
Đối với Ấn Độ thì điều đáng học nhất là sự tiến bộ trong nền giáo dục cao
cấp, việc đào tạo các sinh viên có khả năng kỹ thuật cao. Nhiều trường chuyên
môn của Ấn Độ có thể so sánh với các đại học lớn trên thế giới. Sức mạnh của
kinh tế Ấn Độ là hệ thống các xí nghiệp mới năng nổ bành trướng nhanh, cũng
như các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa chuyển cho tư nhân điều
khiển.
Một điều khác của Ấn Độ đáng học hỏi là hệ thống luật pháp và tòa án có
truyền thống lâu đời, thích hợp với sự phát triển kinh tế thị trường hơn bên Trung
Quốc. Chúng ta cũng nên nhớ lại rằng Đảng Quốc Đại mới trở lại cầm quyền từ
hơn năm qua vẫn có truyền thống xã hội chủ nghĩa từ thời sáng lập, và ở trong

Liên bang Ấn Độ có những tiểu bang do Đảng Cộng Sản cầm quyền qua các cuộc
bầu cử tự do từ nhiều năm qua. Chính vì vậy Việt Nam nên đầu tư vào nền giáo
dục bằng cách:
- Hỗ trợ trang thiết bị để các bạn có thể học hỏi và lĩnh hội được những
kiến thức trong trường và sau này sẽ vận dụng cho ngành công nghệ phần mềm
ngày càng phát triển hơn.
- Tạo môi trường học hỏi, giúp các bạn sinh viên có thể tự tin và thể hiện
khả năng của mình thông qua các buổi giao lưu, giới thiệu về công nghệ phần
mềm.
- Kinh doanh toàn cầu cần kỹ năng giao tiếp trong nhiều ngôn ngữ nhưng
tiếng Anh vẫn quan trọng nhất. Doanh nghiệp CNTT Việt Nam cần đào tạo nhân
viên về giao tiếp tiếng Anh và hiểu về văn hóa của khách hàng đối với từng nước.
17
- Tăng cường hạ tầng truyền thông, Internet; nâng cao chất lượng, giảm giá
cước; ưu đãi kết nối đường truyền đặc biệt đối với các khu phần mềm tập trung.
3.2.3. Chính sách của nhà nước
- Có cơ chế khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển
quan hệ liên kết kinh tế với các hình thức đa dạng giữa các doanh nghiệp với
nhau, coi liên kết kinh tế là các cách thức hữu hiệu để tổ chức mối liên kết giữa
các doanh nghiệp và nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
- Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các doanh
nghiệp trên thị trường. Coi cạnh tranh là động lực thúc đẩy đổi mới và nâng cao
hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp.
- Và Nhà nước phải tạo môi trường quốc tế tốt để các doanh nghiệp có thể
mở rộng quan hệ quốc tế và lĩnh hội được những kinh nghiệm của nước bạn và từ
đó vận dụng chúng vào phần mềm của mình một cách có hiệu quả cao.
3.2.4.Tạo thị trường cho ngành
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về hội nhập quốc tế
của Việt Nam nói chung và các cam kết WTO nói riêng nhằm nâng cao nhận thức
toàn xã hội. Việc tuyên truyền và phổ biến cần thực hiện linh hoạt, chủ động,

thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau, đồng bộ và có tính định hướng cao.
Các đối tượng khác nhau, từ cơ quan nhà nước, chủ thể sản xuất, kinh doanh, các
hiệp hội ngành nghề, cần được cung cấp thông tin theo những cách phù hợp khác
nhau để đảm bảo hiệu quả tuyên truyền. Đây là yếu tố đầu tiên và quan trọng để
thay đổi tư duy theo hướng tích cực và dẫn đến thành công.
- Hình thành một hệ thống các trung tâm chuyên trách tại các địa phương
để cung cấp thông tin và xử lý các vấn đề có liên quan tới việc thực hiện các cam
kết của Việt Nam trong WTO. Kinh nghiệm từ Trung Quốc là để bảo đảm xử lý
có hiệu quả và kịp thời mọi vấn đề phát sinh xung quanh các cam kết trong WTO,
Trung Quốc đã thành lập rất sớm các trung tâm về các vấn đề WTO tại các địa
phương có sự hỗ trợ của các bộ, ngành ở Trung ương. Việt Nam có thể thí điểm
hình thành các trung tâm này ở một số trung tâm kinh tế thương mại lớn có chức
năng thông tin, tư vấn, hoạt động dưới dạng đơn vị sự nghiệp có thu hoặc hạch
toán kinh tế độc lập.
3.2.5.Từ phía doanh nghiệp
Gia công phần mềm từng là giải pháp số một để phát triển công nghiệp
phần mềm tại những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Và điều may mắn
18
cho các doanh nghiệp Việt Nam là nhu cầu công nghệ thông tin Việt Nam quá
lớn. Vì thế các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam tự bơi được đến nay không có
chính sách, nền tảng từ nhà nước. Tuy nhiên, ngày nay phần mềm sẽ chưa trở
thành một ngành công nghiệp thực sự nếu không có định hướng cụ thể, và thời
gian gần đây, các doanh nghiệp chủ động mở rộng phạm vi kinh doanh, không chỉ
viết về những phần mềm máy tính, ứng dụng mạng mà cả phần mềm nhúng trong
thiết bị đặc thù.
Ngày nay, khi mà đòi hỏi về tin học hoá hoạt động doanh nghiệp này càng
lớn, nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp, hơn nữa khi mà thiếu hụt về chuyên gia gia công phần mềm và
công nghệ thông tin đã trở nên khẩn thiết thì việc chuyển giao việc phát triển
quản lý một phần hoặc toàn bộ mảng tin học phần mềm và phần cứng cho một đội

ngũ chuyên nghiệp, có chất lượng cao, sẵn sàng phục vụ đúng lúc và đáng tin cậy
trở thành một trong những lực chọn tốt nhất để giải quyết tình trạng này. Và
thành lập các trung tâm nghiên cứu lớn để họ có thể tập trung đầu tư vào nghiên
cứu và phát triển chuyên sâu và lĩnh vực nghiên cứu cho hiệu quả và có thể tập
trung vào các lĩnh vực.
19
KẾT LUẬN
Với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nâng cao chất lượng cuộc sống con
người. Sự thu hút nguồn vốn đầu tư, trình độ khoa học và giải quyết vấn đề việc
làm đang là vấn đề quan tâm của rất nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát
triển như Việt Nam. Việt Nam đã nhận thấy rằng việc thu hút đầu tư Outsourcing
là điều cần thiết phù hợp với những lợi thế đang sở hữu của đất nước.
Có thể nói ngành gia công phần mềm là một ngành có tiềm năng lớn trong
thị trường Việt Nam. Và gia công phần mềm sẽ là hướng đi chính của ngành công
nghiệp phần mềm Việt Nam trong những năm tới. Gia công phần mềm giúp Việt
Nam nhanh chóng tham gia được vào thị trường phần mềm thế giới, đồng thời
khai thác được những lợi thế của chúng ta, triển vọng phát triển ngành gia công
phần mềm của Việt Nam là rất tốt. Nhu cầu gia công phần mềm thế giới còn rất
nhiều và một nước có nhiều kinh nghiệm như Ấn Độ họ có thử thách rất là lớn về
vấn đề giả cả, về vấn đề mất người. Vì vậy mà những khách hàng của Ấn Độ bắt
đầu qua xem xét ở Việt Nam, và đây là cơ hội rất tốt cho doanh nghiệp Việt Nam.
Hơn nữa Việt Nam lại có rất nhiều lợi thế đó là: Giá nhân công rẻ là nhân tố cạnh
tranh lớn nhất của thị trường gia công phần mềm so với các thị trường phần mềm
khác như Ấn Độ,Trung Quốc,bên cạnh đó Việt Nam còn có mối tương đồng về
văn hoá cũng là yếu tố giúp Việt Nam được chú ý trên bản đồ các quốc gia có nền
công nghiệp gia công phần mềm. Ngoài ra Việt Nam có một nền chính trị ổn định
đó cũng là một lợi thế để phát triển gia công phần mềm.
Tóm lại, để phát huy những lợi thế và giải quyết được các vấn đề còn tồn
tại, nước ta cần chú trọng: Đầu tư ngân sách hỗ trợ giáo dục đào tạo con người, đề
cao trình độ con người vì con người là một yếu tố quan trọng trong tương lai

quyết định sự thành bại của đất nước. Đồng thời thực hiện những chính sách kinh
tế hợp lý tạo điều kiện thu hút nguồn lực hỗ trợ ODA, hỗ trợ khoa học kỹ thuật và
công nghệ, tăng cường hợp tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mở rộng quy mô
sản xuất. Một yếu tố cũng rất quan trọng đó là khi tiến hành hợp tác, thu hút hợp
đồng gia công phải tính đến những yêu tố bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, chống ô
nhiễm môi trường và lợi ích người lao động. Tránh tình trạng Việt Nam trở thành
“bãi rác” của các nước phát triển, nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt và tình
trạng bóc lột sức lao động từ các nhà máy gia công.
20
21

×